intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vi phạm pháp luật về đóng, hưởng bảo hiểm xã hội ở Việt Nam

Chia sẻ: Tri Lý | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:115

108
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm 3 mục tiêu: Hệ thống hóa và góp phần bổ sung hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng các quy định về vi phạm pháp luật trong đóng, hưởng BHXH, tìm hiểu nội dung các quy định về vi phạm pháp luật trong đóng, hưởng BHXH và thực tiễn áp dụng; Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về vi phạm pháp luật trong đóng, hưởng BHXH.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vi phạm pháp luật về đóng, hưởng bảo hiểm xã hội ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT MA THỊ VÂN KIỀU VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ ĐÓNG, HƯỞNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS LÊ VĂN BÍNH HÀ NỘI- 2013
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Ma Thị Vân Kiều
  3. MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2 3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 3 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 3 6. Bố cục của luận văn.................................................................................... 4 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ ĐÓNG, HƯỞNG BẢO HIỂM XÃ HỘI ......................................... 5 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội .............................................. 5 1.1.1. Khái niệm chung bảo hiểm xã hội ..................................................... 5 1.1.2. Những nội dung cơ bản của Bảo hiểm xã hội .................................... 6 1.1.3. Đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội......................................................... 11 1.2. Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam và các yếu tố cấu thành .................................. 11 1.2.1. Khái niệm và các dấu hiệu của vi phạm pháp luật ........................... 11 1.2.2. Cấu thành của vi phạm pháp luật .................................................... 13 1.2.3. Các loại vi phạm pháp luật .............................................................. 15 1.2.4. Khái niệm vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ..................................................................................... 16 1.2.5. Phân loại vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ..................................................................................... 16
  4. 1.2.6. Các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ......................................................... 17 1.3. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng bảo hiểm xã hội........................ 20 1.3.1. Về hình thức xử lý .......................................................................... 20 1.3.2. Về nguyên tắc xử lý ........................................................................ 22 1.3.3. Về thẩm quyền và thủ tục xử lý....................................................... 24 1.3.4. Về thời hiệu xử lý ........................................................................... 25 Chương 2: VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ ĐÓNG, HƯỞNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ..................................................... 27 2.1. Các hành vi vi phạm pháp luật về đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam.......................................................................... 27 2.1.1. Các hành vi vi phạm pháp luật về đóng Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam ........................................................................................ 27 2.1.2. Các hành vi vi phạm pháp luật về hưởng Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam ........................................................................................ 48 2.2. Hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm pháp luật về đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ....................... 56 2.2.1. Các hình thức xử phạt chính............................................................ 57 2.2.2. Hình thức xử phạt bổ sung .............................................................. 62 2.2.3. Biện pháp khắc phục hậu quả .......................................................... 62 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ ĐÓNG, HƯỞNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ................................................................................ 66 3.1. Nhận xét chung thực trạng vi phạm pháp luật về đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam ............................................. 66 3.2. Nguyên nhân của vi phạm pháp luật về đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam ................................................................ 67
  5. 3.2.1. Nguyên nhân từ phía cơ quan Nhà nước ......................................... 67 3.2.2. Nguyên nhân từ phía người sử dụng lao động ................................. 71 3.2.3. Nguyên nhân từ phía người lao động .............................................. 73 3.2.4. Nguyên nhân từ phía tổ chức Công đoàn......................................... 74 3.3. Một số kiến nghị nhằm hạn chế vi phạm pháp luật về đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam ................................... 75 3.3.1. Về các quy định của pháp luật......................................................... 75 3.3.2. Về tổ chức và thực hiện .................................................................. 78 KẾT LUẬN ................................................................................................. 82 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 85 PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT BHXH : Bảo hiểm xã hội BHYT : Bảo hiểm y tế BHTN : Bảo hiểm tự nguyện BLHS : Bộ luật Hình sự CP : Chính Phủ DN : Doanh nghiệp HĐLĐ : Hợp đồng lao động KCN : Khu công nghiệp NSDLĐ : Người sử dụng lao động NLĐ : Người lao động Tp. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh TNHH : Trách nhiệm hữu hạn UBND : Ủy ban nhân dân VPPL : Vi phạm pháp luật
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc”. (Trích Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 26/5/1997 của Bộ Chính trị) Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế được bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng vi phạm pháp luật về BHXH, trong đó có vi phạm pháp luật về đóng, hưởng BHXH xảy ra rất phổ biến và ngày càng trở thành mối quan tâm lớn của xã hội. Trong đó bao gồm rất nhiều vi phạm, từ phía người sử dụng lao động, phía người lao động, và phía cơ quan bảo hiểm, cơ quan, tổ chức khác. Ví dụ như các doanh nghiệp không đóng, đóng không đúng thời hạn quy định, đóng không đúng mức quy định, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH; người lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động không tham gia BHXH; cơ quan bảo hiểm cố tình gây khó khăn, cản trở việc hưởng các chế độ BHXH của người lao động,... Các vi phạm đó ảnh hưởng sâu sắc tới vấn đề an sinh xã hội, làm giảm uy tín của người dân tới chế độ bảo hiểm. Hơn nữa, các chế tài xử phạt những vi phạm này còn ở mức rất nhẹ chưa mang tính chất răn đe để giảm thiểu vi phạm. Xuất phát từ thực trạng đó, cùng với niềm đam mê khoa học, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Vi phạm pháp luật về đóng, hưởng bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”. 1
  8. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Với lĩnh vực BHXH, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả, có thể kể đến như: Lê Thị Hoài Thu (2003)“Bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học (03), tr. 48-55, ĐHQGHN; Nguyễn Thị Chính (2010), “Hoàn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” Luận văn Tiến sỹ, người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Văn Định; PGS.TS. Bùi Huy Thảo, Hà Nội; Hà Văn Chi (2005), “Hoàn thiện cơ chế xét duyệt, thẩm định và quản lý hồ sơ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội”, Tiểu đề án, Hà Nội. Bên cạnh đó, đề tài về vi phạm pháp luật cũng được nhiều nhà khoa học bỏ công tìm hiểu như: Bùi Xuân Phái (2007), “Vi phạm pháp luật, một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng, PGS. TSKH. Lê Cảm, Hà Nội; “Bàn về vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý”, Tạp chí Toà án nhân dân tối cao, (18/2007), tr:2-8, Hà Nội;… Vấn đề vi phạm pháp luật BHXH, đặc biệt là vi phạm pháp luật về đóng, hưởng BHXH ở Việt Nam đã có một số công trình cụ thể đề cập đến nó, ví dụ như: Phạm Đức Cường (2012), “Tăng cường các giải pháp xử lý nợ đọng, trốn đóng BHXH”, Tạp chí BHXH, (9A), tr16-18; Vũ Ngọc Lân (2012), “Nợ BHXH dưới góc nhìn từ “cái gốc””, Tạp chí BHXH, (9B), tr 30-31; Nguyễn Văn Dụng (2013), “Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra vi phạm pháp luật về BHXH”, Tạp chí BHXH, (1A), tr 24-26;...Các vi phạm này xảy ra khá phổ biến trong thực tiễn và được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm chú ý. Trên cơ sở đó, tôi hướng công trình của mình tới đề tài còn khá mới mẻ và nóng hổi này hằng mong đóng góp một phần nhỏ bé công sức nghiên cứu vào kho dữ liệu pháp lý Việt Nam. 2
  9. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích chủ yếu của việc nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về vi phạm pháp luật trong đóng, hưởng BHXH cụ thể là: Hệ thống hóa và góp phần bổ sung hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng các quy định về vi phạm pháp luật trong đóng, hưởng BHXH; Tìm hiểu nội dung các quy định về vi phạm pháp luật trong đóng, hưởng BHXH và thực tiễn áp dụng; Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về vi phạm pháp luật trong đóng, hưởng BHXH; 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn là tập trung đi sâu, tìm hiểu nội dung các quy định thực định về vi phạm pháp luật trong đóng, hưởng BHXH, các văn bản hướng dẫn thi hành và thực tiễn áp dụng trong phạm vi cả nước. 5. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin; Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp luận giải, phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử,...được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật về đóng, hưởng BHXH ở Việt Nam; Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối chiếu,... được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu các quy định về vi phạm pháp luật về đóng, hưởng BHXH ở Việt Nam; Phương pháp bình luận, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy 3
  10. nạp,...được sử dụng trong Chương 3 khi nghiên cứu một số giải pháp nhằm giảm thiểu vi phạm pháp luật về đóng, hưởng BHXH ở Việt Nam. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn kết cấu gồm các chương sau: Chương 1: Khái quát chung vi phạm pháp luật về đóng, hưởng bảo hiểm xã hội Chương 2: Vi phạm pháp luật về đóng, hưởng bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hạn chế vi phạm pháp luật về đóng, hưởng bảo hiểm xã hội ở Việt Nam 4
  11. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ ĐÓNG, HƯỞNG BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội 1.1.1. Khái niệm chung bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế được bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. ”Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc” (Trích Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 26/5/1997 của Bộ Chính trị) Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế và xã hội của Nhà nước, là những chủ trương, quan điểm, nguyên tắc BHXH để giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến một tầng lớp đông đảo người lao động và các vấn đề kích thích phát triển kinh tế của từng thời kỳ. Trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau, chính sách BHXH được Nhà nước đề ra và thực hiện phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội từng giai đoạn. BHXH được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1945 và đã trải qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi đặc biệt trong các năm 1961, 1985 và 1995. Ngày 29/06/2006, Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội gồm 11 chương, 141 điều. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 5
  12. 01/01/2007; riêng đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện thì từ ngày 01/01/2008, đối với bảo hiểm thất nghiệp thì từ ngày 01/01/2009. 1.1.2. Những nội dung cơ bản của Bảo hiểm xã hội BHXH là một hệ thống đa dạng và phức tạp với những nội dung khác nhau. Tuy nhiên, có thể tập trung vào 4 nhóm nội dung cơ bản sau: Đối tượng của BHXH Đối tượng của BHXH là thu nhập của người lao động chứ không phải bản thân người lao động. BHXH được hình thành để góp phần cân bằng thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc khả năng lao động không được sử dụng. Còn đối tượng đảm bảo của BHXH là người lao động và gia đình họ theo quy định của pháp luật BHXH. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp. Chủ thể trong quan hệ BHXH Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH. Khác với bảo hiểm thương mại, trong BHXH, mối quan hệ này dựa trên quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Ở đây cũng cần chú ý, ba bên trong BHXH khác với ba bên trong quan hệ lao động. Nếu như trong quan hệ lao động, ba bên bao gồm Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động, thì trong quan hệ BHXH ba bên này chỉ là một bên tham gia BHXH. Bên tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy định của pháp luật BHXH. Bên tham gia BHXH gồm có người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước (trong một số trường hợp). Người lao động tham gia BHXH để bảo hiểm cho chính mình trên cơ sở san sẻ rủi ro của số đông người lao động khác. Người sử dụng lao động có trách nhiệm phải 6
  13. bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn. Khi tham gia BHXH, người sử dụng lao động còn vì lợi ích của chính họ. Ở đây người sử dụng lao động cũng thực hiện san sẻ rủi ro giữa tập đoàn những người sử dụng lao động, để bảo đảm cho quá trình sản xuất của họ không bị ảnh hưởng khi phát sinh nhu cầu BHXH của người lao động. Nhà nước tham gia BHXH với hai tư cách. Thứ nhất, Nhà nước tham gia với tư cách là người sử dụng các công chức và những người hưởng lương từ ngân sách. Khi đó, Nhà nước phải tham gia đóng góp BHXH thông qua kinh phí từ ngân sách, với tỷ lệ đóng góp tương đương người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp. Thứ hai, Nhà nước tham gia BHXH với tư cách là người bảo hộ cho các hoạt động của quỹ BHXH, bảo đảm giá trị đồng vốn, và hỗ trợ cho quỹ BHXH trong những trường hợp cần thiết. Ngoài ra, Nhà nước tham gia BHXH còn với tư cách chủ thể quản lý, định ra những chế độ, chính sách, định hướng cho các hoạt động BHXH. Bên BHXH, đó là bên nhận tiền đóng góp BHXH từ những người tham gia BHXH. Bên BHXH thường là một số tổ chức (cơ quan) do Nhà nước lập ra (ở một số nước có thể do tư nhân, tổ chức kinh tế – xã hội lập ra theo quy định của pháp luật) và được Nhà nước bảo trợ, nhận sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, lập nên quỹ BHXH theo quy định chặt chẽ của pháp luật. Bên BHXH có trách nhiệm thực hiện chi trả trợ cấp cho bên được BHXH khi có nhu cầu phát sinh và có trách nhiệm quản lý và đầu tư cho quỹ BHXH phát triển. Bên được BHXH là bên được quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các loại sự kiện, rủi ro được bảo hiểm gây ra. Trong BHXH, bên được BHXH là người lao động tham gia BHXH và nhân thân của họ theo quy định của pháp luật, khi họ có phát sinh nhu cầu được BHXH do pháp luật quy định. Trong kinh tế thị trường, 7
  14. bên tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH (người lao động làm việc độc lập, không có quan hệ lao động chẳng hạn). Đối với người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH vừa là người được quyền hưởng BHXH vì họ đóng phí BHXH để bảo hiểm cho chính họ. Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi, trên cơ sở các quy định của pháp luật (khác với bảo hiểm thương mại là trên cơ sở hợp đồng). Nếu không thực hiện đúng các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm đóng góp (của bên tham gia BHXH) cũng như trách nhiệm đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng (của bên nhận BHXH), thì đều là vi phạm pháp luật về BHXH. Các chế độ BHXH Các chế độ BHXH là hệ thống các quy định về mức hưởng của từng trường hợp, điều kiện hưởng, mức hưởng và thời hạn hưởng cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro thuộc từng phạm vi bảo hiểm. Hiện nay pháp luật BHXH của Việt Nam quy định có 5 chế độ, bao gồm: chế độ ốm đau; chế độ thai sản; chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; chế độ tử tuất; chế độ hưu trí. Có thể nói, các chế độ là nội dung cốt lõi nhất của hệ thống BHXH, nó thể hiện được vai trò và phạm vi trách nhiệm của BHXH đối với người lao động khi họ tham gia BHXH. Trong các chế độ BHXH, quy định đối tượng được thụ hưởng, các điều kiện hưởng BHXH, mức hưởng và thời hạn được hưởng trợ cấp BHXH. Trợ cấp BHXH là khoản tiền từ quỹ BHXH được bên BHXH (cơ quan BHXH) chi trả cho mọi người được BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm và có đủ các điều kiện quy định. Quỹ BHXH Quỹ BHXH là một trong những nội dung quan trọng của hệ thống 8
  15. BHXH. Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, hình thành một quỹ tiền tệ tập trung, được sử dụng để chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm hoặc bị chết. Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Quỹ BHXH được hình thành bởi nhiều nguồn khác nhau. Trước hết, đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước. Đây là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất và cơ bản của quỹ. Thứ hai, là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ chức BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lợi. Thứ ba, là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về BHXH. Ngoài ra, quỹ còn có các nguồn thu hợp pháp khác được pháp luật của mỗi nước quy định. Theo mục đích của BHXH, quỹ BHXH phải đảm nhận chi những khoản chủ yếu như: trả trợ cấp theo các chế độ BHXH (khoản chi này chiếm tỷ trọng lớn nhất); chi phí cho bộ máy hoạt động BHXH chuyên nghiệp (tiền lương, đào tạo…) chi phí bảo đảm các cơ sở vật chất cần thiết và chi phí quản lý khác. Quản lý BHXH Quản lý BHXH chung nhất, được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý vào đối tượng và khách thể quản lý trong các hoạt động của BHXH, nhằm đạt được mục tiêu đề ra với những nguyên tắc và phương pháp quản lý phù hợp với hệ thống quản lý chung của nền kinh tế. Quản lý BHXH cho thấy phương thức quản lý BHXH và các cơ quan chức năng có nhiệm vụ quản lý 9
  16. BHXH (bao gồm quản lý Nhà nước về BHXH và quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH). Do điều kiện kinh tế – xã hội và chính trị của mỗi nước khác nhau nên hệ thống BHXH của các nước được xây dựng khác nhau và vì vậy không có mô hình tổ chức BHXH chung cho tất cả các nước. Tuy nhiên, dù có tổ chức thế nào thì vẫn có hai nội dung quan trọng, đó là quản lý Nhà nước về BHXH và quản lý các hoạt động sự nghiệp BHXH. Quản lý Nhà nước về BHXH BHXH là một chính sách xã hội của mỗi nước vì vậy phải có sự quản lý các hoạt động BHXH. Quản lý Nhà nước về BHXH là một trong các hoạt động quản lý đó. Quản lý Nhà nước về BHXH xuất phát từ chức năng xã hội của Nhà nước. Quản lý Nhà nước về BHXH được thể hiện thông qua một số nội dung cơ bản sau: Quản lý thống nhất các hoạt động BHXH trên phạm vi toàn quốc gia: Dù hệ thống tổ chức và cách thức quản lý của các quốc gia có khác nhau, nhưng việc các quốc gia đều có sự quản lý thống nhất các hoạt động BHXH. Việc quản lý thống nhất thể hiện qua việc chỉ có Nhà nước mới ban hành chính sách vĩ mô định hướng hoạt động của cả hệ thống BHXH. Nhà nước định ra các chế độ BHXH, các nội dung cơ bản của BHXH; các chính sách BHXH đối với các nhóm đối tượng cụ thể, phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước trong từng gia đoạn phát triển. Tổ chức hoạt động sự nghiệp BHXH Dù mô hình có thể được tổ chức khác nhau, nhưng hoạt động sự nghiệp BHXH có những chức năng chủ yếu là: Thực hiện thu, chi BHXH; quản lý đối tượng BHXH (nhóm đối tượng tham gia BHXH và nhóm đối tượng thụ hưởng BHXH); quản lý quỹ BHXH; thực hiện thanh tra và kiểm tra hoạt động BHXH. Các loại hình BHXH Ở nước ta có ba loại hình BHXH là: BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và Bảo hiểm thất nghiệp. Trong đó, loại hình BHXH bắt buộc gồm 5 chế độ: 10
  17. ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất. Loại hình BHXH tự nguyện gồm 2 chế độ: hưu trí; tử tuất. Loại hình Bảo hiểm thất nghiệp gồm 3 chế độ: hưu trí; hỗ trợ học nghề; hỗ trợ tìm việc làm. 1.1.3. Đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội Đóng BHXH là việc bên tham gia BHXH trích một khoản tài chính từ thu nhập, lợi nhuận kinh doanh, ngân sách nhà nước để hình thành quỹ BHXH. Đóng BHXH vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH vì chỉ khi thực hiện trách nhiệm đóng góp tiền phục vụ cho mục đích BHXH thì các quyền lợi mới được phát sinh từ đó. Mức đóng, phương thức đóng là khác nhau tùy từng chế độ, đối tượng đóng BHXH. Hưởng BHXH là việc bên được BHXH được nhận khoản tài chính từ quỹ BHXH khi phát sinh các trường hợp được hưởng và đáp ứng đủ các điều kiện hưởng BHXH. Hưởng BHXH là quyền lợi chính đáng, là mục đích của những người tham gia BHXH. Mức hưởng, phương thức hưởng ở mỗi chế độ, đối tượng là không giống nhau. 1.2. Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam và các yếu tố cấu thành 1.2.1. Khái niệm và các dấu hiệu của vi phạm pháp luật VPPL là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. VPPL có những dấu hiệu cơ bản sau: Thứ nhất, VPPL phải là hành vi xác định của con người, tức là xử sự thực tế, cụ thể của cá nhân hoặc tổ chức nhất định, bởi vì pháp luật được ban hành để điều chỉnh hành vi của các chủ thể mà không điều chỉnh suy nghĩ của họ. Mác đã từng nói: ngoài hành vi của tôi ra, tôi không tồn tại đối với pháp luật, không phải là đối tượng của nó. Vì vậy, phải căn cứ vào hành vi thực tế của các chủ thể mới có thể xác định được là họ thực hiện pháp luật hay vi 11
  18. phạm pháp luật. Hành vi xác định này có thể được thực hiện bằng hành động (ví dụ: đi xe máy vượt đèn đỏ khi tham gia giao thông) hoặc bằng không hành động (ví dụ: trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế). Thứ hai, VPPL phải là hành vi trái pháp luật, tức là xử sự trái với các yêu cầu của pháp luật. Hành vi này được thể hiện dưới các hình thức sau: Chủ thể thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm. Ví dụ: đi xe máy vào đường ngược chiều… Chủ thể không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc phải thực hiện. Ví dụ: trốn tránh nghĩa vụ phụng dưỡng ông bà, cha mẹ… Chủ thể sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép. Ví dụ: trưởng thôn bán đất công cho một số cá nhân nhất định… Thứ ba, VPPL phải là hành vi của chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý, vì hành vi có tính chất trái pháp luật nhưng của chủ thể không có năng lực trách nhiệm pháp lý thì không bị coi là vi phạm pháp luật. Năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể là khả năng mà pháp luật quy định cho chủ thể phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Theo quy định của pháp luật, chủ thể là cá nhân sẽ có năng lực này khi đạt đến một độ tuổi nhất định và trí tuệ phát triển bình thường. Đó là độ tuổi mà sự phát triển về trí lực và thể lực đã cho phép chủ thể nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội nên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Chủ thể là tổ chức sẽ có khả năng này khi được thành lập hoặc được công nhận. Thứ tư, VPPL phải là hành vi có lỗi của chủ thể, tức là khi thực hiện hành vi trái pháp luật, chủ thể có thể nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó, đồng thời điều khiển được hành vi của mình. Như vậy, chỉ những hành vi trái pháp luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị coi là VPPL. Còn trong trường hợp chủ thể thực hiện một xử sự có tính chất trái pháp luật nhưng chủ thể không nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành 12
  19. vi đó gây ra cho xã hội hoặc nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi của mình nhưng không điều khiển được hành vi của mình thì không bị coi là có lỗi và không phải là VPPL. Thứ năm, VPPL là hành vi xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, tức là làm biến dạng đi cách xử sự là nội dung của quan hệ pháp luật đó. Hành vi trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều xâm hại tới những quan hệ xã hội mà mỗi nhà nước xác lập và bảo vệ. Một cách khái quát, những gì mà pháp luật không cấm, không xác lập và bảo vệ thì dù có làm trái, có xâm hại cũng không bị coi là VPPL. 1.2.2. Cấu thành của vi phạm pháp luật Cấu thành VPPL là những dấu hiệu đặc trưng của một VPPL cụ thể. VPPL bao gồm 4 yếu tố cấu thành là: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể. Mặt khách quan của VPPL là những dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan của VPPL. Nó bao gồm các yếu tố: hành vi trái pháp luật, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm. Hành vi trái pháp luật hay còn gọi là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi trái với các yêu cầu của pháp luật, nó gây ra hoặc đe doạ gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là những thiệt hại về người và của hoặc những thiệt hại phi vật chất khác do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức là giữa chúng phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu với nhau. Hành vi đã chứa đựng mầm mống gây ra hậu quả hoặc là nguyên nhân trực tiếp của hậu quả nên nó phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; còn hậu quả phải là kết quả tất yếu của chính hành vi đó mà không phải là của một nguyên nhân khác. Thời gian VPPL là giờ, ngày, tháng, năm xảy ra vi phạm pháp luật. Địa điểm 13
  20. VPPL là nơi xảy ra vi phạm pháp luật. Phương tiện VPPL là công cụ mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật của mình. Khi xem xét mặt khách quan của VPPL thì hành vi trái pháp luật luôn luôn là yếu tố bắt buộc phải xác định trong cấu thành của mọi vi phạm pháp luật, còn các yếu tố khác có bắt buộc phải xác định hay không là tuỳ từng trường hợp vi phạm. Có trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định, có trường hợp địa điểm vi phạm cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định. Mặt chủ quan của VPPL là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ, mục đích vi phạm pháp luật. Lỗi là trạng thái tâm lý hay thái độ của chủ thể đối với hành vi của mình và đối với hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội được thể hiện dưới hai hình thức: cố ý hoặc vô ý. Lỗi gồm 2 loại: cố ý và vô ý. Lỗi cố ý lại gồm 2 loại: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Cố ý trực tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Cố ý gián tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Lỗi vô ý cũng gồm 2 loại: vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin. Vô ý vì cẩu thả là lỗi của một chủ thể đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù có thể thấy trước và phải thấy trước hậu quả này. Vô ý vì quá tự tin là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2