Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vị trí, vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình
lượt xem 7
download
Mục tiêu của đề tài nghiên cứu góp phần làm rõ vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự. Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng về vai trò, vị trí của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự và các vụ án hình sự của Thẩm phán TAND ở tỉnh Ninh Bình. Từ đó tác giả của luận văn đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò của Thẩm phán TAND cấp tỉnh trong hoạt động giải quyết án hình sự.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vị trí, vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ ANH TUẤN VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH) LỜI CAM ĐOAN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI HÀ NỘI – 2014
- TRƯỜNG ĐẠI HỌCLUẬT KHOA QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ ANH TUẤN HÀ ANH TUẤN VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN VỊTỈNH CẤP TRÍ, TRONG VAI TRÒHOẠT CỦA THẨM ĐỘNG PHÁN TÒA XÉT XỬ ÁNVỤ CÁC NHÂN DÂN ÁN HÌNH CẤP TỈNH TRONG HOẠT ĐỘNG SỰ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ (TRÊN CƠ (TRÊN SỞ CƠ SỐ SỞ LIỆU SỐ CỦA LIỆU TÒA CỦA ÁN TÒA NHÂN ÁN DÂN NHÂN TỈNH DÂN NINH TỈNH BÌNH) NINH BÌNH) Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số Chuyên ngành: :Luật 60 38hình 01 04 sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60 38 0104 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN Người hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN VĂN TUÂN HÀ NỘI – 2014
- Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Hà Anh TuÊn
- MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ 7 CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1 Khái niệm vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử 7 các vụ án hình sự 1.1.1 Khái niệm Thẩm phán 7 1.1.2 Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử các vụ án 8 hình sự 1.2 Những nguyên tắc tố tụng hình sự liên quan đến vị trí, vai trò 12 của Thẩm phán 1.2.1 Nguyên tắc pháp chế 13 1.2.2 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân 14 theo pháp luật 1.2.3 Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án 15 1.3 Mối quan hệ của Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng 17 và những người tham gia tố tụng 1.3.1 Mối quan hệ của Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng 17 1.3.2 Mối quan hệ của Thẩm phán với những người tham gia tố tụng 23 1.4 Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về vị trí, 24 vai trò của Thẩm phán 1.4.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988 24
- 1.4.2 Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003 34 1.5 Quy định pháp luật một số nước về vị trí, vai trò của Thẩm phán 38 1.5.1 Liên bang Nga 38 1.5.2 Cộng hoà Pháp 44 Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG 49 HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1 Vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong 49 hoạt động xét xử vụ án hình sự theo quy định của pháp luật TTHS 2.1.1 Vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong 49 quá trình chuẩn bị xét xử 2.1.2 Vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong 54 quá trình xét xử tại phiên toà 2.2 Thực trạng xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán Toà án 62 nhân dân tỉnh Ninh Bình 2.2.1 Những kết quả đã đạt được trong hoạt động xét xử các vụ án 62 hình sự của Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh Ninh Bình 2.2.2 Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự 67 của Toà án nhân dân tỉnh Ninh Bình 2.2.3 Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử 71 các vụ án hình sự của Toà án nhân dân tỉnh Ninh Bình Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG 77 CAO VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
- 3.1 Những yêu cầu cải cách tư pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò 77 của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh 3.2 Những giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò của Thẩm phán 91 trong tố tụng hình sự 3.2.1 Hoàn thiện pháp luật về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong tố 91 tụng hình sự 3.2.2 Các giải pháp khác 98 3.2.2.1 Các kiến nghị đổi mới về cơ chế hoạt động của Toà án trên cơ 98 sở đó hoàn thiện vị trí, vai trò của Thẩm phán 3.2.2.2 Các kiến nghị về yếu tố con người nhằm nâng cao vị trí, vai trò 100 của Thẩm phán trong tố tụng hình sự KẾT LUẬN 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Xã hội chủ nghĩa : XHCN Bộ luật tố tụng hình sự : BLTTHS Bộ luật hình sự : BLHS Toà án nhân dân : TAND Toà án quân sự : TAQS Viện kiểm sát nhân dân : VKSND Cơ quan điều tra : CQĐT
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, cùng với sự cải cách mạnh mẽ của bộ máy Nhà nước, vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng. Điều đó được thể hiện trong Nghị quyết 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã khẳng định, “trong những năm qua…công tác tư pháp đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ tích cực cho công cuộc đổi mới, phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị, có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ” [1.tr1]. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, tuy nhiên quá trình này diễn ra còn chậm, chưa đồng bộ và toàn diện, hoạt động xét xử của Toà án chưa đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp. Chất lượng xét xử của TAND các cấp vẫn còn thấp, tình trạng xét xử oan sai, án tồn đọng kéo dài vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Bên cạnh đội ngũ Thẩm phán vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, nghèo nàn và lạc hậu. Những tồn tại trên đã được chỉ rõ trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI: “Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu cả về phẩm chất và năng lực, quá trình cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ. 1
- Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác, án tồn đọng, án bị huỷ, bị sửa còn nhiều”. Tỉnh Ninh Bình là một tỉnh ở cực Nam đồng bằng Bắc bộ có diện tích: 139 km2; dân số gần 900.000 người. Cơ cấu tổ chức của ngành Toà án tỉnh Ninh Bình hiện nay gồm: TAND tỉnh Ninh Bình có 05 Toà chuyên trách, 03 phòng giúp việc và 08 TAND cấp huyện. Toàn ngành TAND tỉnh Ninh Bình có 140 công chức, trong đó có 100 người có trình độ đại học. Trong những năm qua, cùng với ngành Toà án toàn quốc, TAND tỉnh Ninh Bình đã không ngừng nỗ lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Chất lượng hoạt động xét xử đã được nâng lên từng bước, góp phần giải quyết tốt các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong cải cách tư pháp Toà án được coi là trọng tâm với nhiệm vụ “nâng cao tranh tụng tại phiên toà” và “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi ích hợp pháp để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định. Vì vậy tác giả chọn đề tài “Vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của Toà án nhân dân tỉnh Ninh Bình” làm luận văn tốt nghiệp cao học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xét xử là hoạt động trung tâm của tố tụng hình sự, vì vậy vị trí, vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự là một trong những vấn đề 2
- được những người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn quan tâm. Sau khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này như sau: - Chế định Thẩm phán trong TTHS – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Trần Thu Trang. - Địa vị pháp lý của Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân, Thẩm phán, Thư ký Toà án và Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam của Nguyễn Thị Hằng. - Chế định Thẩm phán – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Viện khoa học pháp lý (NXB Tư pháp, Hà Nội, 2004). - Thủ tục xét xử sơ thẩm hình sự trong luật TTHS Việt Nam của ThS Đinh Văn Quế (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005). - Trình tự thủ tục giải quyết các vụ án hình sự của tác giả Mai Thanh Hiếu và Võ Chí Công (NXB Lao động). Các công trình trên phần nào đã đề cập đến những khía cạnh nhất định của chế định Thẩm phán, nhưng chủ yếu nhìn nhận dưới góc độ tổ chức và quản lý Thẩm phán chưa nghiên cứu hoàn thiện những bất cập liên quan đến vị trí, vai trò của Thẩm phán trong quá trình cải cách tư pháp theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Nghiên cứu góp phần làm rõ vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự. Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng về vai trò, vị trí của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự và các vụ án 3
- hình sự của Thẩm phán TAND ở tỉnh Ninh Bình. Từ đó tác giả của luận văn đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò của Thẩm phán TAND cấp tỉnh trong hoạt động giải quyết án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu vị trí, vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành. Làm rõ những đặc trưng riêng của hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán TAND cấp tỉnh hiện nay. - Phân tích vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự ở tỉnh Ninh Bình trong thời gian 05 năm (từ 2009 đến 2013), làm rõ các nguyên nhân dẫn đến việc các bản án, quyết định còn oan, sai, bị huỷ, cải sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán trong quá trình áp dụng pháp luật. - Đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán TAND cấp tỉnh góp phần thực hiện có hiệu quả công cuộc cải cách tư pháp, nâng cao uy tín của nền tư pháp nước nhà trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của TAND qua thực tiễn tỉnh Ninh Bình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi luận văn thạc sĩ luật học thuộc chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự, luận văn bao gồm những nội dung lý luận và thực tiễn có liên quan đến vấn đề vị trí, vai trò của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự. 4
- Nghiên cứu hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Toà án nhân dân tỉnh Ninh Bình từ năm 2009 đến năm 2013 gồm: Hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự; Hoạt động xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự, nhằm phát hiện những tồn tại, hạn chế cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Toà án, từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục nguyên nhân, phát huy những thành tựu, đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Toà án nhân dân địa phương, đồng thời đề xuất các giải pháp để bảo đảm cho xét xử các vụ án hình sự của TAND đúng pháp luật, phù hợp với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp quyền; đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo cải cách tư pháp, theo tinh thần nghị quyết 08_NQ/TW; 49_NQ/TW của Bộ chính trị về vấn đề cải cách tổ chức và hoạt động của TAND trong giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của lộ trình cải cách tư pháp. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể đó là: Phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử và lôgic, phương pháp thống kê, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự nói chung và trong hoạt động xét xử án hình sự của TAND qua thực tiễn tỉnh Ninh Bình nói riêng, luận văn đề xuất một số yêu cầu và giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất 5
- lượng xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán TAND cấp tỉnh đáp ứng nhu cầu công cuộc cải cách Tư pháp hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự, làm sáng tỏ các đặc điểm của áp dụng pháp luật của Thẩm phán TAND cấp tỉnh trong việc xét xử các vụ án hình sự. - Về mặt thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn cho Thẩm phán, Thư ký Toà án, những người trực tiếp làm công tác xét xử các vụ án hình sự tại các TAND, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết án hình sự của TAND. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, học tập trong các trường Đại học chuyên ngành luật. Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của Thẩm phán trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự hiện nay. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự. Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vị trí, vai trò của Thẩm phán TAND cấp tỉnh trong xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò của Thẩm phán TAND cấp tỉnh. 6
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm Thẩm phán Quá trình tố tụng hình sự được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau, với nhiều cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau mà trong đó vị trí, vai trò của mỗi cơ quan là khác nhau. Mỗi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện quyền hạn và trách nhiệm thông qua các chủ thể gọi là những người tiến hành tố tụng. Toà án nhân dân là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng có vị trí vai trò quan trọng, là cơ quan cuối cùng kết thúc một quá trình tố tụng. Trong Toà án nhân dân, Thẩm phán là người có vị trí và vai trò then chốt để thực thi nhiệm vụ tố tụng của Toà án. Xét xử đã có từ rất lâu, nhưng sự ra đời của Thẩm phán lại muộn hơn. Dưới thời kỳ chiếm hữu nô lệ và phong kiến hình thức Nhà nước chủ yếu là quân chủ lập hiến, hoạt động xét xử cũng như hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp đều tập trung vào giai cấp chủ nô và phong kiến mà đại diện là nhà vua. Nhà vua là người nắm toàn bộ quyền hành, đứng đầu Nhà nước ban hành các đạo luật, quy định tổ chức thực hiện và là người có quyền lực cao nhất. Đến thế kỷ XVII, XVIII giai cấp tư sản phát triển mạnh mẽ đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến đã hạn chế dần quyền lực của nhà vua, tiến tới xoá bỏ Nhà nước phong kiến. Trong thời gian này, các học giả tư sản mà tiêu biểu nhất là Montesquieu trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” đã đưa ra luận điểm: Phải tách các hoạt động ban hành pháp luật, hoạt động thực hiện pháp luật và hoạt động xét xử, chia quyền lực nhà nước thành ba loại quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau tạo cơ chế kiềm chế đối trọng lẫn nhau, chống lại tư tưởng độc quyền của một người, hay của một cơ quan nào đó, nắm toàn bộ quyền lực Nhà 7
- nước. Có thể nói sự tách bạch và độc lập giữa Toà án ra khỏi hai nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp đã hình thành nên một đội ngũ cán bộ mới trong bộ máy nhà nước làm nhiệm vụ xét xử từ xưa đến nay chưa từng có đó là Thẩm phán [28, tr.16]. Trong Luận án tiến sĩ Luật học của mình, theo tác giả Đỗ Gia Thư “Thẩm phán là người làm việc trong cơ quan Toà án, chuyên xét xử các vụ án và giải quyết các vụ việc theo thẩm quyền của Toà án, ra các bản án, quyết định nhân danh Nhà nước” [28, tr.17]. Tại Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 đã đưa ra khái niệm “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án” [tr.41]. Theo khái niệm này thì Thẩm phán là một chức danh quan trọng được bổ nhiệm theo thủ tục do pháp luật quy định. Tức là chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện đối với Toà án các cấp. Việc bổ nhiệm Thẩm phán phải do người có thẩm quyền bổ nhiệm, tương ứng với ba cấp Toà án có ba ngạch Thẩm phán và thẩm quyền bổ nhiệm với các ngạch Thẩm phán này cũng khác nhau. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán thì cán bộ Toà án phải đáp ứng những tiêu chuẩn về bổ nhiệm Thẩm phán do pháp luật quy định. Ngoài ra, Thẩm phán còn được coi là công chức Nhà nước. Theo pháp luật về cán bộ công chức hiện hành, Thẩm phán được xếp vào ngạch công chức nhà nước được hưởng mọi quyền lợi, nghĩa vụ và chế độ của công chức nói chung. 1.1.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự Thẩm phán có vị trí, vai trò đặc biệt trong xét xử các vụ án hình sự. Thẩm phán là người điều khiển phiên toà theo quy định của pháp luật. Lên kế hoạch cho các phiên toà như: Những chứng cứ nào sẽ được sử dụng, nhân 8
- chứng nào sẽ được triệu tập, thời gian nào thì sẽ đưa vụ án ra xét xử… và dự liệu được những vấn đề có thể xảy ra tại phiên toà. Trong phần thẩm vấn pháp luật không quy định cụ thể phải hỏi ai, hỏi vấn đề gì trước nên gần như quy trình xét hỏi được quyết định bởi Thẩm phán Chủ toạ phiên toà và là người điều khiển phiên toà, thấy cần hỏi ai trước, cần làm rõ cái gì trước, xem xét và trình bày cái gì là hợp lý để đảm bảo kết quả, chất lượng xét xử tốt nhất và không làm cho các sự kiện bị rối lên, đồng thời cũng quyết định luôn tình tiết nội dung nào cần được hỏi. Mặc dù người hỏi gồm có cả Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên và Luật sư nhưng thực tiễn xét xử tại Việt Nam cho thấy việc xét hỏi được tiến hành chủ yếu bởi Thẩm phán Chủ toạ phiên toà, sự tham gia xét hỏi của Luật sư, Kiểm sát viên trong quá trình xét hỏi không mang tính liên tục tất cả những điều đó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xét xử. Chất lượng xét xử có cao hay không phụ thuộc phần lớn vào người Thẩm phán, phụ thuộc vào chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng điều khiển phiên toà, kinh nghiệm tích luỹ trong quá trình công tác. Vì sao lại hỏi bị cáo này trước mà không hỏi bị cáo kia trước, vật chứng nào, nhân chứng nào, những tình tiết nào trong vụ án có ý nghĩa quyết định đến việc bị cáo có tội hay không có tội, nếu có tội thì được qui định tại điều khoản nào trong BLHS. Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi người Thẩm phán phải có kiến thức pháp luật sâu rộng, phải có kinh nghiệm tích luỹ nhiêu năm trong quá trình xét xử các vụ án thì mới có thể làm tốt vị trí, vai trò của mình được. Khác với công việc khác, để đưa ra được một phán quyết thấu tình đạt lý, Thẩm phán phải huy động nhiều tố chất trong một con người. Đó là sự am hiểu về pháp luật, sự am hiểu về kiến thức thực tế, tích luỹ kiến thức về xã hội, lương tâm của người Thẩm phán. Cơ sở của các phán quyết là pháp luật, những kết quả của các phán quyết có công bằng, vô tư và khách quan hay không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có cái tâm trong sáng, chỉ khi nào có sự kết hợp giữa trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán thì lúc đó mới đảm bảo cho phán quyết của Thẩm phán thấu tình 9
- đạt lý. Khi xét xử người Thẩm phán phải có niềm tin nội tâm, đó là niềm tin vào công lý bởi vì cho dù hệ thống pháp luật có hoàn chỉnh đầy đủ đến đâu chăng nữa thì cũng sẽ không bao giờ dự liệu hết được mọi tình huống xảy ra trong thực tế. Thậm chí quy định của pháp luật còn chồng chéo, không đồng bộ, song khi xét xử người Thẩm phán vẫn phải đảm bảo nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đặc biệt là phải đảm bảo công lý. Trong con mắt của người dân, Toà án không chỉ là bảo vệ pháp luật mà còn là biểu tượng của công lý, sự công bằng xã hội. Khi phải đối mặt với quan toà, với công đường người dân chờ đợi sự công minh, sáng suốt. Toà án là người đại diện của công lý và quan toà là người thực thi công lý. Chức năng của Toà án là xét xử và Thẩm phán là người thực hiện chức năng đó. Chức năng xét xử của Thẩm phán được thực hiện thông qua quyền hạn, trách nhiệm được pháp luật quy định. Pháp luật đã quy định quyền hạn và trách nhiệm cho Thẩm phán trong các văn bản quy phạm như: Luật tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự… Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán là cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo cho Thẩm phán thực hiện tốt chức năng xét xử của mình. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử Thẩm phán chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Thẩm phán thực hiện quyền lực công, các phán quyết của Thẩm phán nhân danh Nhà nước, nhân danh công lý, đồng thời các phán quyết đó còn ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị của con người, quyền và lợi ích hợp pháp của từng cá nhân. Do đó, yêu cầu của hoạt động xét xử là phải đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Đối với quyền hạn và nghĩa vụ của Thẩm phán được quy định tại điều 9, điều 10, điều 11, điều 12 điều 15 điều 16 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 đã quy định cụ thể như sau: 10
- - Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án theo sự phân công của Chánh án toà án nơi mình công tác hoặc Toà án nơi mình được biệt phái đến làm nhiệm vụ có thời hạn. - Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành những quyết định có liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác theo quy định của pháp luật. Thẩm phán không được làm những việc sau đây: * Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm * Tư vấn cho bị can, bị cáo đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp luật. * Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án. * Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được đồng ý của người có thẩm quyền. * Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định. - Thẩm phản phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi trong các trường hợp do pháp luật tố tụng quy định. - Thẩm phán chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật. - Thẩm phán phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật. 11
- - Thẩm phán phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật. - Thẩm phán khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại, thì Toà án nơi Thẩm phán đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Toà án theo quy định của pháp luật. Trên đây là những nhiệm vụ và quyền hạn chung nhất mà pháp luật quy định cho Thẩm phán. Tuy nhiên vai trò, vị trí của Thẩm phán được thể hiện rõ nét nhất trong phiên toà, bởi vì nhiệm vụ chính của Thẩm phán là xét xử. Do vậy trong phần này chúng tôi chú trọng tới nghiên cứu nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử. Việt Nam đã lựa chọn mô hình tố tụng kết hợp giữa xét hỏi và tranh tụng, xuất phát từ việc lựa chọn mô hình tố tụng như vậy nên quyền hạn và nghĩa vụ của Thẩm phán Việt Nam được quy định cũng kết hợp cả hai đặc thù của mô hình tố tụng xét hỏi và tranh tụng. 1.2. Những nguyên tắc tố tụng hình sự liên quan đến vị trí, vai trò của Thẩm phán Để thể hiện được sức mạnh của một nền pháp chế, đảm bảo được quyền lợi của Nhà nước, cá nhân và tổ chức thì nhà làm luật đã xây dựng một số nguyên tắc tố tụng tạo ra hành lang pháp lý cho việc áp dụng pháp luật tố tụng khi giải quyết vụ án hình sự. Các nguyên tắc này đảm bảo cho việc mọi tội phạm đều được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Vì vậy, trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, mọi biểu hiện không tuân thủ đều có thể dẫn đến sai lầm trong quá trình giải quyết vụ án. 12
- Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành quy định các nguyên tắc tố tụng cơ bản áp dụng cho các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong đó, Thẩm phán phải nghiêm chỉnh tuân thủ các nguyên tắc sau: Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 3); bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5); không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9); xác định sự thật của vụ án (Điều 10); bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11); thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia (Điều 15); khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 16); xét xử tập thể và quyết định thẹo đa số (Điều 17); việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai, trừ trường hợp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định (Điều 18); bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án (Điều 19); Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 20); bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, nhân phẩm, quyền lợi của người bị oan (Điều 29); bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự (Điều 31); bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng; Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới, Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp để bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong hàng loạt các nguyên tắc trên thì có ba nguyên tắc được coi là cơ bản nhất đối với người Thẩm phán khi giải quyết vụ án hình sự mà chúng tôi lựa chọn để phân tích dưới đây. 1.2.1. Nguyên tắc pháp chế Pháp chế là yêu cầu đặt ra với mọi nhà nước hiện đại. Hiến pháp nước ta quy định: "nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa" (Điều 12). Nội dung chủ yếu của pháp chế là các hoạt động của nhà nước và xã hội đều dựa trên cơ sở pháp luật nghiêm 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 114 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn