Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam
lượt xem 3
download
Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực trạng việc thực hiện các quy định về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng, luận văn sẽ tập trung làm sáng tỏ những quy định về trách nhiệm liên đới, tìm được những tồn tại của pháp luật về vấn đề này, từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn pháp luật HN&GĐ cũng như góp phần giải quyết những vấn đề, vướng mắc còn tồn tại xung quanh các vụ án liên quan tới trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong thực tế.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN QUỲNH HƯƠNG XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN QUỲNH HƯƠNG XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN CỪ HÀ NỘI - 2012
- MỤC LỤC Trang Lời cam đoan .................................................................................................. 1 Mục lục ........................................................................................................... 2 Danh mục các chữ viết tắt ............................................................................... 5 MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 6 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG 1.1. Khái niệm chung về trách nhiệm dân sự liên đới và trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng…………………….......................................1 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm dân sự……………………………..11 1.1.2. Khái niệm trách nhiệm dân sự liên đới ………………………………15 1.1.3. Khái niệm trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng………………...17 1.2. Ý nghĩa của việc xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng…….............................................................................................20 1.3. Sơ lƣợc về trách nhiệm liên dân sự đới của vợ chồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam………………………………………………….21 1.3.1. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo những quy định về chế độ hôn sản bậc nhất ở Nam kỳ trước năm 1959………………………21 1.3.2. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo theo chế độ hôn sản bậc nhất ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ trước năm 1959…………………………24 1.3.3. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo Luật HN&GĐ trong thời kỳ Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (từ 1945 đến 1954)……………….....27 2
- 1.3.4. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo Luật Gia đình năm 1959, Sắc luật số 15/64 năm 1964 và bộ Dân luật Sài Gòn năm 1972 ở miền Nam …………………………………………………………………………29 1.3.5. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 1959 của Nhà nước ta………………….…………………………………….33 1.3.6. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 1986, 2000…………………………………………………………………...36 CHƢƠNG 2: XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH 2.1. Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng đối với giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình………………………………………………………41 2.2. Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong trƣờng hợp vợ, chồng thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị lớn, tài sản là nguồn sống duy nhất của gia đình, tài sản đầu tƣ kinh doanh, tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia đình………………………………………………………………………….46 2.3. Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong trƣờng hợp bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng………………………………………58 2.3.1. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản của vợ, chồng gây ra………………………...59 2.3.2 Một số vấn đề còn tồn tại xung quanh việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra……………………………..70 3
- CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG. 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng………………………………………………………………...73 3.1.1. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng pháp luật xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng………………………………………………...73 3.1.2. Một số vụ việc cụ thể…………………………………………………74 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng……………………………………………………80 KẾT LUẬN…………………………………………………………………87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………….88 PHỤ LỤC…………………………………………………………………...94 4
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT HN&GĐ : HN&GĐ Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 : Nghị định số của Chính phủ quy định chi tiết Luật Hôn nhâ và 70/2001/NĐ-CP gia đình năm 2000 BLDS : BLDS Dân Luật Bắc : DLB Dân Luật Trung : DLT Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt : Hiến pháp năm 1992 Nam năm 1992 Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi, bổ : Sắc lệnh số 97-SL sung một số quy lệ và chế định trong dân luật Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 quy định về : Sắc luật số 15/64 giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng Tòa án Nhân dân tối cao : TANDTC Tòa án Nhân dân : TAND 5
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ xưa tới nay, HN&GĐ luôn là một hiện tượng xã hội được các nhà triết học, xã hội học, sử học, luật học... tìm hiểu và nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp lợi ích hài hòa của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội. Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, vợ chồng ngày càng tham gia tích cực vào nhiều các mối quan hệ xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu về tinh thần và vật chất của cá nhân và của gia đình. Mối quan hệ mật thiết giữa vợ chồng trong các mối quan hệ xã hội thể hiện vai trò và trách nhiệm của họ đối với gia đình và xã hội. Việc xác định đúng đắn trách nhiệm của vợ chồng trong các mối quan hệ xã hội đó là cần thiết bởi điều đó góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan. Tuy nhiên, trong thực tế vợ chồng tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh tế là rất đa dạng và phức tạp, việc xác định trách nhiệm của vợ chồng trong từng mối quan hệ đó là rất khó khăn. Đặc biệt, việc xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng đối với những giao dịch do vợ, chồng thực hiện là một vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu một cách toàn diện và triệt để. Theo hệ thống pháp luật về HN&GĐ của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay đã có một số quy định liên quan đến việc xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng: từ chế độ cộng đồng toàn sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 1959, đến chế độ cộng đồng tạo sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 1986 và năm 2000. Pháp luật điều chỉnh về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng vừa mang tính khách quan, vừa thể hiện ý chí chủ quan của Nhà nước. Kế thừa và phát triển các quy định về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam, Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước 6
- ta đã dành Điều 25 trong chương III: “Quan hệ giữa vợ và chồng” để quy định về vấn đề này, cụ thể: ““Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình” [44]. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định này trên thực tế cho thấy còn xuất hiện khá phổ biến những vụ án mà vợ hoặc chồng đưa đơn ra toà đề nghị tòa án hủy giao dịch do một bên thực hiện (chủ yếu nhất là hợp đồng dân sự) mà một bên không hay biết. Tòa án sẽ tuyên giao dịch đó vô hiệu nhưng việc xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng rất phức tạp và có sự giải quyết khác nhau giữa các tòa án. Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, vừa làm rõ những ưu điểm, hạn chế, vừa đề ra những giải pháp trứơc mắt và lâu dài nhằm nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của vợ chồng đối với đời sống của gia đình nói riêng và toàn xã hội nói chung. Vì thế, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài “ Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ sẽ phần nào đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách hiện nay trên cả phương diện khoa học và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm dân sự liên đới nói riêng là một chế định quan trọng được quy định trong hệ thống pháp luật dân sự từ trước tới nay và đã có nhiều công trình khoa học, bài viết đề cập tới vấn đề này. Tuy nhiên, nghiên cứu về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng khi một bên thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích thiết yếu của gia đình với tư cách là đối tượng nghiên cứu riêng thì hiện nay còn khá mới mẻ. Tìm hiểu qua sách báo, tạp chí, chúng ta thấy có bài “Trách nhiệm liên đới của vợ 7
- chồng đối với hợp đồng dân sự do một bên thực hiện” của tác giả Nguyễn Hải An – Tòa dân sự – Tòa án Nhân dân tối cao) đăng trên trang: thongtinphapluatdansu.wordpress.com; tác giả khác với bài “Cần quy định trách nhiệm liên đới trả nợ” trên trang: diendankienthuc.net; “ Trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự Việt Nam” – luận án tiến sỹ luật học của Phạm Kim Anh; “Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng” – luận văn thạc sỹ luật học của Đinh Hồng Ngân; Tiến sỹ Ngô Huy Cương- khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội với bài “ Trách nhiệm dân sự - so sánh và phê phán”; Thạc sỹ Bùi Thị Mừng, khoa Luật Dân sự, Đại học Luật Hà Nội với bài “Bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra"; tác giả Trần Việt Anh với bài “So sánh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng với trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng’’ đăng trên trang web: www.kilobooks.com; nhóm sinh viên Đại học Kinh tế Quốc dân với đề tài tiểu luận “Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng ’’ đăng trên trang web: www.kilobooks.com; Tiến sỹ Phạm Kim Anh – Đại học Luật TP Hồ Chí Minh với bài viết “Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự’’ đăng trên trang web: http://www.hcmulaw.edu.vn. Nhìn chung, những bài viết này mới chỉ đưa ra, xem xét, giải quyết những khía cạnh liên quan tới trách nhiệm dân sự và trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng mà thôi còn vấn đề xác định một cách rõ ràng, cụ thể trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng thì chưa có bài viết hay luận án nào nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống. Thiết nghĩ, đây là vấn đề khá quan trọng, bức xúc trong xã hội hiện nay và thực tế đã xảy ra rất nhiều tranh chấp, khiếu kiện phức tạp gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “ Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ là rất cần 8
- thiết. Đây sẽ là một công trình nghiên cứu có hệ thống cả về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác Xít, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh. Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp khác của khoa học thống kê để thống kê số liệu liên quan đến các vụ án HN&GĐ tại thành phố Đà Nẵng – nơi tác giả đang sinh sống và làm việc. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những quy định của BLDS năm 1995 và 2005 về trách nhiệm dân sự, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản, đối với gia đình. Từ đó, tác giả đi sâu nghiên cứu cụ thể về những quy định liên quan tới trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật về HN&GĐ thời kỳ từ năm 1945 đến nay trong mối liên hệ với thực tiễn để đề tài thêm phần phong phú và có sức thuyết phục hơn. 5. Mục đích của đề tài - Những kết quả đã đạt đƣơc * Mục đích nghiên cứu đề tài: Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực trạng việc thực hiện các quy định về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng, luận văn sẽ tập trung làm sáng tỏ những quy định về trách nhiệm liên đới, tìm được những tồn tại của pháp luật về vấn đề này, từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn pháp luật HN&GĐ cũng như góp phần giải quyết những vấn đề, vướng mắc còn tồn tại xung quanh các vụ án liên quan tới trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong thực tế. * Những điểm mới của Luận văn 9
- Luận văn là công trình khoa học đầu tiên phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về chế độ chịu trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo pháp luật dân sự Việt Nam nói chung và Luật HN&GĐ nói riêng. Ngoài những điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về chế độ tài sản của vợ chồng trong đó đặc biệt chú ý tới quy định liên quan đến trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một bên vợ, chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình, luận văn được trình bày với những điểm mới sau đây : - Nghiên cứu, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về trách nhiệm dân sự liên đới và xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong một số trường hợp cụ thể liên quan. - Nghiên cứu thực tiễn của việc xác định, áp dụng những quy định pháp luật dân sự về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng ở Việt Nam trong thời gian qua. - Đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nữa việc xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong thực tế. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương. Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng. Chương 2: Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam hiện hành. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng. 10
- CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG 1.1. Khái niệm chung về trách nhiệm dân sự liên đới và trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm dân sự Trong đời sống xã hội từ xưa tới nay, mọi cá nhân đều có quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và các quyền đó luôn được pháp luật của mỗi quốc gia có chủ quyền thừa nhận và bảo vệ. Cũng trong xã hội mà cá nhân đang sống, cùng với việc cá nhân được hưởng các quyền lợi nhất định do nhà nước thừa nhận hoặc cho phép thì cá nhân còn phải thực hiện nghĩa vụ có liên quan trong các mối quan hệ xã hội mà cá nhân là chủ thể, như: nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của người khác, tôn trọng trật tự công cộng, bảo vệ môi trường, tôn trọng các quyền dân sự, quyền tự do kinh doanh, quyền lao động của người khác…và khi họ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của mình thì họ phải chiụ trách nhiệm với bên có quyền. Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu về khái niệm “trách nhiệm dân sự” nói chung để từ đó tìm hiểu vấn đề cụ thể hơn: “trách nhiệm dân sự liên đới” – trọng tâm của đề tài luận văn thạc sỹ. Trước hết, trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý và luôn được các luật gia xem là một vấn đề quan trọng được nghiên cứu tổng quát trong khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật. Theo đó: trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà nước (thông qua các cơ quan chuyên môn) và chủ thể vi phạm pháp luật (có thể là cá nhân hoặc pháp nhân), trong đó bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi và những biện pháp cưỡng chế của nhà nước được quy định ở chế tài pháp luật. Tức là sự 11
- cưỡng chế của nhà nước buộc người vi phạm pháp luật phải chấp hành quy phạm pháp luật, trừng trị người vi phạm pháp luật, bắt buộc phải khôi phục lại các quan hệ xã hội đã bị vi phạm. Nếu xét về đặc điểm của trách nhiệm dân sự thì ở Việt Nam cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên đa số ý kiến đồng nhất với các đặc điểm của trách nhiệm dân sự như sau: Thứ nhất, trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý khác với trách nhiệm đạo đức, mà ở đây trách nhiệm pháp lý có mục đích xác lập các chế tài cụ thể. Thứ hai, trách nhiệm dân sự không phải là một sự trừng phạt mà là một biện pháp – một hình thức cưỡng chế của nhà nước và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng buộc người có hành vi vi phạm pháp luật phải bồi thường cho người bị tổn hại do hành vi đó gây ra. Do vậy nó luôn mang tới hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm pháp luật. Thứ ba, bên có hành vi vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm về tài sản hoặc phải thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện công việc vì lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm. Thứ tư, trách nhiệm dân sự được chia thành trách nhiệm dân sự hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Có tác giả chia trách nhiệm ngoài hợp đồng thành trách nhiệm dân sự phạm và trách nhiệm chuẩn dân sự phạm. Trách nhiệm hợp đồng phát sinh khi hợp đồng không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ như đã giao kết gây thiệt hại cho bên bị vi phạm và bên bị vi phạm đòi bồi thường. Trách nhiệm ngoài hợp đồng phát sinh khi một bên có lỗi gây thiệt hại cho một bên khác về tài sản, tính mạng, sức khỏe, các quyền nhân thân mà trước đó giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không có giao kết hợp đồng hoặc có giao kết hợp đồng 12
- nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi vi phạm hợp đồng và bên bị thiệt hại đòi hỏi sự bồi thường. Trách nhiệm trong hợp đồng hay trách nhiệm ngoài hợp đồng giống nhau ở chỗ đều phát sinh từ việc vi phạm nghĩa vụ dân sự: "Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền" [48, Điều 280]. Nhưng nghĩa vụ được phân biệt bởi nghĩa vụ bị vi phạm phát sinh từ hợp đồng hoặc từ pháp luật. Tuy nhiên sự phân biệt có ý nghĩa trong việc chứng minh. Ở đây, cần phân biệt thêm rằng, trách nhiệm hợp đồng là một nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ khác với hợp đồng. Nghĩa vụ hợp đồng phát sinh trên cơ sở sự thống nhất ý chí của các đương sự hay hành vi vi phạm pháp luật. Còn nghĩa vụ bồi thường phát sinh ngoài ý chí của đương sự, có nghĩa là do luật định. Từ những đặc điểm trên đây, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề này cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau ở cả Việt Nam và thế giới, cụ thể: phản ánh quan điểm của hầu hết các luật gia Nga, O. S. Ioffe đưa ra định nghĩa: Trách nhiệm dân sự – đó là những chế tài đối với vi phạm nghĩa vụ mà việc áp dụng những chế tài đó sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi cho bên vi phạm dưới hình thức tước quyền dân sự (như tước quyền sở hữu, tước quyền thừa kế…) hoặc bằng hình thức đặt ra cho họ những nghĩa vụ mới hoặc nghĩa vụ bổ sung như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ nộp phạt vi phạm hoặc nghĩa vụ trả tiền lãi đối với khoản nợ được chậm trả. Chúng ta thấy rằng, dường như định nghĩa này đã đồng nhất giữa trách nhiệm dân sự với chế tài dân sự, và cho rằng trách nhiệm dân sự chỉ áp dụng cho vi phạm nghĩa vụ. Trong khi đó, một số luật gia Nhật 13
- Bản phân tích: trách nhiệm được thể hiện bằng hình thức cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ đối với tài sản của người mắc nợ; tuy nhiên, có thể có trường hợp trách nhiệm không có nghĩa vụ, chẳng hạn trách nhiệm áp dụng đối với người bảo lãnh, người thứ ba sở hữu tài sản thế chấp. Vậy không phải bất kể trường hợp nào bị áp dụng chế tài cũng đều có sự vi phạm nghĩa vụ 19. Dưới chế độ cũ ở Việt Nam, có luật gia quan niệm: Trách nhiệm dân sự là một nguồn gốc của nghĩa vụ căn cứ vào hành vi mà dân luật coi như là trái luật (illicite). Do đó dân luật đã bắt buộc người thực hiện hành vi trái luật phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tóm lại, trách nhiệm dân sự phát sinh ra nghĩa vụ bồi thường đối với người nào đã làm ra một hành vi gì trái luật mà gây tổn thiệt cho người khác. Quan niệm này có phản ánh được đầy đủ các khía cạnh của trách nhiệm dân sự hay không là một câu trả lời không quá khó. Tuy nhiên, đâu là điểm hợp lý của định nghĩa này và chúng phát xuất từ đâu thì cần phải tìm hiểu 19. Luật La Mã xác định, ngoài các nguyên nhân hợp pháp như hợp đồng và chuẩn hợp đồng, nghĩa vụ được phát sinh bởi nguyên nhân bất hợp pháp như vi phạm (delictum) và chuẩn vi phạm (quasi ex delicto). Vi phạm được chia thành hai loại là tội hình sự và dân sự phạm. Đối với dân sự phạm, nạn nhân có thể kiện ra toà xin bồi thường. Dân sự phạm (damnum injuria) là sự thiệt hại gây ra một cách bất chính đáng cho người khác, làm nghèo cho nạn nhân nhưng không làm giàu thêm cho người vi phạm. Vi phạm được quy định bởi luật Aquilia. Tuy nhiên các luật gia La Mã chưa bao giờ đạt tới nguyên tắc chung rằng mọi người phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại mà mình gây ra cho người khác. Mãi tới thế kỷ XVII và XVIII, nó mới được đưa ra bởi các luật gia thuộc trường phái luật tự nhiên, tiêu biểu là Grotius và Domat, rồi được ghi nhận trong các bộ luật của Châu Âu. Ngày nay, BLDS Pháp có quy 14
- định nguyên tắc tổng quát: “Bất cứ hành vi nào của một người mà gây thiệt hại cho người khác, thì người đã gây ra thiệt hại do lỗi của mình phải bồi thường thiệt hại” 7, Điều 1382. Tác giả Vũ Văn Mẫu khẳng định: Trách nhiệm dân sự là một nguồn gốc của nghĩa vụ không căn cứ vào ý chí của đương sự, tức là nguồn gốc bất hợp pháp; vì vậy trách nhiệm dân sự làm phát sinh ra nghĩa vụ bồi thường đối với người đã thực hiện một hành vi trái luật gây tổn thiệt cho một người khác. Qua tìm hiểu các tài liệu, chúng tôi cũng chưa tìm thấy khái niệm về trách nhiệm dân sự được đề cập tới một cách rõ ràng, cụ thể trong văn bản nào, do vậy, dựa vào những đặc điểm trên đây cũng như những quan điểm của nhiều chuyên gia pháp luật trong và ngoài nước, chúng tôi xin đưa ra khái niệm về trách nhiệm dân sự như sau: Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm của một người hoặc nhiều người phải thực hiện vì lợi ích hợp pháp của người khác theo những căn cứ do pháp luật quy định. 1.1.2. Khái niệm trách nhiệm dân sự liên đới Trách nhiệm dân sự nói chung chỉ phát sinh do một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đã giao kết, thỏa thuận đối với bên kia hay do một bên có lỗi gây thiệt hại cho một bên khác về tài sản, tính mạng, sức khỏe, các quyền nhân thân và bên bị thiệt hại đòi hỏi sự bồi thường. Từ những quy định trong BLDS hiện hành, chúng ta có thể chia nghĩa vụ dân sự thành những loại sau đây: - Nghĩa vụ dân sự riêng rẽ; - Nghĩa vụ dân sự liên đới; - Nghĩa vụ dân sự được chia theo phần; 15
- - Nghĩa vụ dân sự hoàn lại; - Nghĩa vụ dân sự bổ sung. Pháp luật dân sự, bên cạnh việc quy định các quy tắc xử sự chung cho các chủ thể khi họ tham gia giao dịch dân sự thì còn quy định trách nhiệm dân sự nhằm áp dụng đối với các chủ thể nếu trong quá trình tham gia và thực hiện các giao dịch dân sự đó mà không tuân thủ các quy tắc xử sự chung đó. Khi xử sự của một hay nhiều chủ thể làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, thì xử sự đó bị coi là trái với quy định của pháp luật dân sự. Bởi vậy, người bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác áp dụng trách nhiệm dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi trách nhiệm dân sự được áp dụng thì người có hành vi xử sự trái quy định của pháp luật dân sự phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định. Như vậy, theo pháp luật dân sự: nghĩa vụ dân sự liên đới là nghĩa vụ của nhiều người, trong đó, một trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nội dung của nghĩa vụ hoặc một trong số những người có quyền đều có thể yêu cầu bất cứ ai trong số người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Mục đích của việc xác định một nghĩa vụ dân sự liên đới khi có nhiều người tham gia quan hệ nghĩa vụ là buộc những người có nghĩa vụ phải cùng nhau gánh vác toàn bộ nghĩa vụ nhằm bảo đảm quyền lợi cho chủ thể có quyền được trọn vẹn, kể cả khi có một trong số những người có nghĩa vụ không có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Từ định nghĩa trên đây về nghĩa vụ dân sự liên đới, chúng ta có thể khẳng định rằng nếu nghĩa vụ đó mà không được thực hiện hay thực hiện không đúng, không đầy đủ như đã cam kết với bên có quyền thì họ phải chịu trách nhiệm dân sự liên đới do hành vi vi phạm gây ra. 16
- Qua tìm hiểu các tài liệu trên mọi phương tiện, chúng tôi chưa tìm thấy khái niệm về trách nhiệm dân sự liên đới, do đó chúng tôi dựa vào khái niệm chung về trách nhiệm dân sự và nghĩa vụ dân sự liên đới để đưa ra khái niệm về trách nhiệm dân sự liên đới như sau: Trách nhiệm dân sự liên đới là trách nhiệm của hai hay nhiều người cùng phải thực hiện vì lợi ích hợp pháp của người khác theo các căn cứ do pháp luật quy định Đó là trách nhiệm liên đới nói chung giữa những người dân với nhau trong xã hội, cũng từ đây, chúng ta sẽ tìm hiểu về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng. 1.1.3. Khái niệm trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng. * Khái niệm về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo quy định của pháp luật dân sự. Theo quy định tại BLDS hiện hành, chúng tôi chưa thấy điều luật nào quy định cụ thể về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng mà chỉ có quy định về nghĩa vụ dân sự liên đới tại Điều 298 mà thôi. Theo đó: “Nghĩa vụ dân sự liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ” [48]. Dựa vào những quy định này, chúng tôi cũng đưa ra khái niệm về nghĩa vụ dân sự liên đới của vợ chồng như sau: Nghĩa vụ dân sự liên đới của vợ chồng là nghĩa vụ mà trong đó vợ hoặc chồng có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nội dung của nghĩa vụ phát sinh trong giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Từ cách hiểu về nghĩa vụ trên đây, chúng tôi cho rằng: Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng là quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng buộc vợ, chồng phải cùng 17
- nhau gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bên có quyền dân sự bị xâm phạm trong giao dịch dân sự mà họ tham gia. Đó là khái niệm về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo dân luật (nghĩa rộng). Từ đó, chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu pháp luật HN&GĐ quy định vấn đề này như thế nào?. * Khái niệm về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo quy định của pháp luật HN&GĐ. Kế thừa và phát triển pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về hôn nhân gia đình nói riêng trong lịch sử, Quốc hội khóa X nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật HN&GĐ năm 2000. Đây là văn bản luật có nhiều quy định rất tiến bộ trong chế độ HN&GĐ, đáp ứng được nguyện vọng, mong muốn của đông đảo nhân dân trong cả nước. Trong đó, Luật đã đặc biệt quan tâm, chú trọng tới vấn đề tài sản của vợ chồng, trách nhiệm của vợ chồng đối với sinh hoạt chung của gia đình. Bởi tính chất cộng đồng tạo sản của hôn nhân, tài sản chung của vợ chồng được sử dụng nhằm đảm bảo đời sống chung của cả gia đình. Các hợp đồng, giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện với người thứ ba, nhằm lợi ích chung của gia đình được coi là có hiệu lực, bên kia phải có trách nhiệm dân sự liên đới. Nói cách khác, pháp luật suy đoán rằng, luôn có sự thỏa thuận “mặc nhiên” giữa hai vợ chồng, dù hợp đồng, giao dịch đó chỉ do một bên thực hiện. Những quy định này đều xuất phát từ việc đảm bảo đời sống chung, lợi ích chung của cả gia đình. Vì vậy, căn cứ những quy định của pháp luật dân sự nói trên về nghĩa vụ dân sự liên đới và trách nhiệm dân sự liên đới, Luật HN&GĐ năm 2000 đặt ra vấn đề trách nhiệm dân sự liên đới giữa vợ chồng tại một điều luật duy nhất: Điều 25, theo đó: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao 18
- dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình” [44]. Đây chỉ là một trường hợp mà pháp luật HN&GĐ liệt kê về trách nhiệm liên đới của vợ chồng, pháp luật HN&GĐ cũng chưa dự liệu định nghĩa thế nào là trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng. Vì vậy, dựa trên những khái niệm chung về trách nhiệm dân sự và nghĩa vụ dân sự liên đới, trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật dân sự, chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng như sau: Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng là quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng buộc vợ, chồng phải cùng nhau gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bên có quyền trong giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình theo những căn cứ do pháp luật quy định. Dù cho Luật HN&GĐ năm 2000 có đề cập tới thuật ngữ “trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng” nhưng theo quy định tại Điều 25, chúng tôi hiểu rằng thực chất đây chính là nghĩa vụ dân sự liên đới của vợ chồng có nghĩa là những nhà làm luật thời kỳ đó đã đồng nghĩa hai thuật ngữ “trách nhệm dân sự liên đới của vợ chồng” với “nghĩa vụ dân sự liên đới của vợ chồng”. Vì thế trong Luật này không có quy định về nghĩa vụ dân sự liên đới của vợ chồng mà chỉ có quy định về trách nhệm dân sự liên đới của vợ chồng mà thôi [44]. Do đó, khác với những chế định khác, trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng mang những nét đặc thù nhất định: - Chủ thể thực hiện nghĩa vụ là vợ chồng (có mối quan hệ ràng buộc về tình cảm, hôn nhân và tài sản giữa vợ chồng là tài sản chung hợp nhất) 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 313 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 216 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 173 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 238 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo – thực tiễn tại tỉnh Nam Định
17 p | 139 | 18
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 235 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 82 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 156 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn