intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

34
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn cũng như xác định những bất cập và nguyên nhân của nó nhằm đề xuất kiến giải pháp hoàn thiện và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỒNG PHƯƠNG XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỒNG PHƯƠNG XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Văn Đệ HÀ NỘI - 2012 2
  3. MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA Lời cam đoan MỤC LỤC Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÉT XỬ 8 PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Những vấn đề lý luận chung về xét xử phúc thẩm vụ án hình 8 sự trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự 8 1.1.2. Tính chất của xét xử phúc thẩm 12 1.1.3. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm 13 1.1.4. Đối tượng của xét xử phúc thẩm 18 1.1.5. Thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án hình sự 19 1.1.6. Các chủ thể tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm 25 1.1.7. áp dụng các nguyên tắc của tố tụng hình sự trong xét xử 25 phúc thẩm 3
  4. 1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và các văn 27 bản pháp luật hiện hành về xét xử phúc thẩm 1.2.1. Quy định về các nguyên tắc cơ bản 28 1.2.2. Quy định chung về xét xử phúc thẩm 30 1.2.3. Quy định về thủ tục xét xử phúc thẩm 42 Chương 2: Thực tiễn thi hành những quy định của Bộ luật Tố tụng 60 hình sự 2003 về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của ngành Tòa án Hà nội và giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm 2.1. Thực tiễn thi hành những quy định về xét xử phúc thẩm 60 trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 của ngành Tòa án Hà Nội 2.1.1. Kết quả đạt được 60 2.1.2. Một số hạn chế và vướng mắc trong thực tiễn xét xử phúc 68 thẩm của ngành Tòa án Hà Nội 2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm các vụ 84 án hình sự 2.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình 84 sự về phúc thẩm 2.2.2. Các giải pháp khác 87 Kết luận 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 4
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Tình hình án có kháng cáo, kháng nghị của ngành Tòa án 60 Hà Nội từ năm 2004 đến năm 2010 2.2 Tình hình giải quyết án hình sự phúc thẩm của ngành Tòa 61 án Hà Nội từ năm 2004 đến năm 2010 2.3 Tình hình số bị cáo bị đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm 62 của ngành Tòa án Hà Nội từ năm 2004 đến năm 2010 2.4 Chất lượng xét xử án Hình sự phúc thẩm của ngành Tòa án 63 Hà Nội từ năm 2004 đến năm 2010 2.5 Tình hình án hình sự phúc thẩm quá hạn luật định của 69 ngành Tòa án Hà Nội 2.6 Tỷ lệ án hình sự phúc thẩm còn tồn hàng năm từ năm 72 2004 đến năm 2010 của ngành Tòa án Hà Nội 2.7 Tình hình Viện kiểm sát Hà Nội kháng nghị theo thủ tục 74 phúc thẩm án hình sự từ năm 2004 đến năm 2010 2.8 Tình hình Tòa án Hà Nội giải quyết kháng nghị của Viện 74 kiểm sát Hà Nội 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", công cuộc cải cách tư pháp đã được tổ chức thực hiện với tinh thần quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức về công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngày 2/6/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 phù hợp với quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình cải cách hành chính. Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là một chế định quan trọng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Việc nghiên cứu, làm rõ những vấn đề xung quanh chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là quan trọng và cần thiết. Đây là một công việc rất có ích về mặt lâu dài vì nó đóng vai trò căn bản giúp cho các nhà lập pháp mỗi khi xây dựng hay sửa đổi nhằm hoàn thiện luật, sẽ đưa ra những quyết định thực sự phù hợp và thiết thực đến quyền lợi của nhà nước và của nhân dân, đó cũng chính là sự đóng góp không thể thiếu của chúng ta vào tiến trình đi đến một Nhà nước pháp quyền hoàn chỉnh và phát triển; đồng thời cũng giúp cho các nhà áp dụng pháp luật có tính thực thi cao. Chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự chính là sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc khách quan và nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Sự tồn tại của chế định này là cơ sở cho những người làm công tác pháp luật đưa ra một quyết định đúng đắn, đó là một bản 6
  7. án công minh, đúng người đúng tội và đúng pháp luật. Đồng thời, chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong luật hình sự góp phần đảm bảo cho việc thực hiện các nguyên tắc của luật hình sự một cách toàn diện. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam, nhà làm luật nước ta đã chính thức ghi nhận chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự bằng việc quy định tại Phần thứ tư, Chương 23 (từ Điều 230 đến Điều 254) của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003. Vì vậy, việc làm sáng tỏ để áp dụng một cách chính xác các quy phạm này là rất cần thiết và cấp bách, thêm vào đó sẽ góp phần hoàn chỉnh thêm các vấn đề liên quan đến chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Tác giả cho rằng nghiên cứu chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là vấn đề đặc biệt cần thiết. Về mặt lập pháp: Những quy định về xét xử phúc thẩm đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó, cũng đã có các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP ngày 8/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thị hành một số quy định trong Phần thứ tư "Xét xử phúc thẩm" của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003) nhưng cũng chưa đầy đủ. Về mặt thực tiễn: Mặc dù đã có quy định cụ thể cũng như văn bản hướng dẫn việc áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng thực tiễn áp dụng các quy định về xét xử phúc thẩm còn nhiều vướng mắc. Trong các báo cáo tổng kết công tác năm của ngành Tòa án nhân dân mấy năm gần đây, khi đề cập đến các vụ án hình sự, quyết định của Tòa án bị sửa, hủy (đại đa số là do thiếu kỹ năng và chuyên nghiệp trong các giai đoạn chuẩn bị xét xử, nghiên cứu hồ sơ vụ án) nên dẫn đến tình trạng hủy, sửa án, bồi thường oan sai cho người vô tội. Như vậy, để tránh tình trạng sửa, hủy án thì Thẩm phán phải là những người có kỹ năng và trình độ chuyên môn cao. Vì vậy, mặc dù vấn đề này đã được quan tâm nghiên cứu những vẫn còn những vấn đề chưa thống nhất, còn bỏ ngỏ và cần tiếp tục nghiên cứu tiếp. Nhất 7
  8. là trong giai đoạn hiện nay, do yêu cầu của cải cách tư pháp thì việc tiếp tục hoàn thiện các quy định về xét xử phúc thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự là điều cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ở các mức độ khác nhau đã được một số nhà khoa học, luật gia quan tâm, nghiên cứu và được đề cập trong các công trình, trong các tạp chí, trong một số sách chuyên khảo và giáo trình. Trong các công trình, tạp chí, sách chuyên khảo và giáo trình này bước đầu phân tích và làm rõ những vấn đề xung quanh chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra mô hình lý luận của kiến giải lập pháp về các quy phạm của chế định này trong hệ thống Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chúng ta có thể kể đến như: Các công trình mang tính đại cương: Giáo trình Luật tố tụng hình sự, của Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2009; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội; Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, của Võ Khánh Vinh 2009;… Các công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu, liên quan trực tiếp về Phúc thẩm trong tố tụng hình sự: Luận văn thạc sĩ luật học như "Thủ tục xét xử phúc thẩm trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" của Nguyễn Gia Cương năm 1998; "Phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam" của Phan Thị Thanh Mai, 1998; Luận án tiến sĩ "Phúc thẩm trong tố tụng hình sự" của Nguyễn Đức Mai;… Các công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến phúc thẩm trong Tố tụng hình sự: "Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về xét xử phúc thẩm" của Nguyễn Đức Mai, 2002; Tạp chí Tòa án nhân dân; 8
  9. Tạp chí Viện kiểm sát nhân dân liên quan về giai đoạn Xét xử phúc thẩm; Giáo trình kỹ năng giải quyết vụ án hình sự của Học viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2007;… Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu được nghiên cứu trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ban hành, chưa thực sự toàn diện và đầy đủ về xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự theo đúng tinh thần cải cách tư pháp hiện nay. Tất cả những luận điểm trên là lý do để tác giả lựa chọn "Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn cũng như xác định những bất cập và nguyên nhân của nó nhằm đề xuất kiến giải pháp hoàn thiện và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: - Làm sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của xét xử phúc thẩm: Bản chất của phúc thẩm, thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm và thủ tục xét xử phúc thẩm… 9
  10. - Khái quát lịch sử phát triển của chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự và phân tích, đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về xét xử phúc thẩm. - Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của ngành Tòa án Hà Nội. - Phân tích những tồn tại trong các quy định của chế định này và xác định nguyên nhân của những tồn tại trong quá trình xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. - Đưa ra kiến nghị, giải pháp để khắc phục và hoàn thiện các quy định của pháp luật về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn này tập trung nghiên cứu: Lý luận về xét xử phúc thẩm; các quy định về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 và thực tiễn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của ngành Tòa án Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu: Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là vấn đề có nội dung rộng và phức tạp. Vì vậy trong phạm vi luận văn không thể xem xét toàn diện tất cả các nội dung của vấn đề. Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về xét xử phúc thẩm và thực trạng phúc thẩm các vụ án hình sự của ngành Tòa án Hà Nội, những tồn tại, vướng mắc, nguyên nhân và giải pháp nâng cao hiệu quả phúc thẩm. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này dựa trên việc sử dụng phương pháp nghiên cứu sau: 10
  11. -Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về cải cách tư pháp, về tính nhân đạo của pháp luật… Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, v.v… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đây là công trình chuyên khảo trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và đồng bộ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ở cấp độ một luận văn. Trong luận văn này, tác giả đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau: Ý nghĩa lý luận: - Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện một số vấn đề lý luận về chế định Xét xử phúc thẩm như: Khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của chế định; - Phân tích và so sánh với pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới. Ý nghĩa thực tiễn: - Phân tích việc áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chế định xét xử phúc thẩm trong thực tiễn xét xử từ năm 2004 đến nay, qua đó đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến xét xử vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua. Đặc biệt, trong phạm vi nhất định, luận văn tập trung chỉ ra một số các tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và những nguyên nhân của thực trạng này để tìm ra giải pháp khắc phục. 11
  12. - Đề xuất sửa đổi các quy định về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự cho phù hợp với chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta. - Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân trong thực tiễn áp dụng, luận văn đã đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam để phục vụ tốt yêu cầu của công tác xét xử, yêu cầu của thực tiễn công tác phòng và chống tội phạm cũng như việc giáo dục, cải tạo người phạm tội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm hai chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự Chương 2: Thực tiễn thi hành những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 của ngành Tòa án Hà Nội về xét xử phúc thẩm từ năm 2004 đến nay và giải pháp nâng cao hiệu quả việc xét xử phúc thẩm. 12
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự Tư pháp hình sự là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm thực hiện quyền lực nhà nước - quyền tư pháp. Đây là lĩnh vực rất nhạy cảm vì nó động chạm trực tiếp đến các quyền tự do và dân chủ của công dân. Mọi sai lầm dù lớn hay nhỏ trong quá trình xử lý đối với người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đều có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí có thể không khắc phục được. Bởi vậy, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị can, bị cáo là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm mục đích đặt ra của tố tụng hình sự là "phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân". Đây cũng là một nội dung cấp thiết của việc bảo vệ quyền con người nói chung mà mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế đều quan tâm giải quyết. Sự hình thành và phát triển của xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự gắn liền với sự hình thành và phát triển các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ và tiến bộ của tố tụng hình sự như: nguyên tắc công bằng, nhân đạo, suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, xét xử công khai, trực tiếp và bằng lời nói… Vì vậy các quốc gia đều chú ý điều chỉnh bằng pháp luật quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm, đặc biệt là hoạt động xét xử các vụ án hình sự nhằm tạo ra một cơ 13
  14. chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ có hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, phát hiện và khắc phục kịp thời các sai sót về xét xử của các Tòa án cấp dưới (Tòa án cấp sơ thẩm). Với tính cách là nguyên tắc chung của pháp luật, nguyên tắc công bằng tác động mạnh mẽ đối với lĩnh vực áp dụng pháp luật hình sự. PGS.TS Võ Khánh Vinh đã rất có lý khi cho rằng: Nguyên tắc công bằng đòi hỏi khi quyết định hình phạt phải bảo đảm sự tương xứng của hình phạt được tuyên với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, với các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, với các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm, với dư luận xã hội, với ý thức pháp luật [94]. Mặt khác, nguyên tắc công bằng cũng đòi hỏi trong những điều kiện và hoàn cảnh phạm tội giống nhau, thì người phạm tội phải bị kết án và xử phạt như nhau. Tuy nhiên, trên thực tế đòi hỏi này lại rất khó đạt được do những nguyên nhân khách quan và chủ quan rất khác nhau: không thống nhất giữa các thẩm phán, giữa các Tòa án về nhận thức và áp dụng pháp luật, đặc biệt là các quy định mang tính chất đánh giá tùy nghi. Để giảm bớt sự khác biệt trong việc tuyên phạt đối với người phạm tội giữa các Tòa án và giữa các thẩm phán với nhau, cần có một trình tự (thủ tục tố tụng) mà theo đó nếu bị cáo và đương sự không đồng ý với bản án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới, thì có thể yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xem xét lại phán quyết đó. Thủ tục tố tụng này chính là thủ tục xét xử phúc thẩm. Sự ra đời của Tòa án cấp phúc thẩm cũng xuất phát từ quan niệm của các nhà lập pháp cho rằng việc xét xử lại các vụ án có kháng cáo, kháng nghị ở Tòa án cấp trên sẽ hạn chế được những sai sót về xét xử của các thẩm phán Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp trên sẽ xử đúng công lý hơn vì Tòa này gồm những thẩm phán cao niên, có kinh nghiệm hơn và ở xa các đương sự nên không chịu ảnh hưởng địa phương. 14
  15. Nguyên tắc hai cấp xét xử còn bắt buộc các thẩm phán tòa án cấp dưới phải thận trọng trong việc xét xử. Xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự là một trong các hình thức, phương tiện được các nước sử dụng nhằm đạt được mục đích này. Để thực hiện được cần phải có một trình tự (thủ tục tố tụng) mà theo đó nếu bị cáo hay đương sự không đồng ý với bản án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới thì có thể yêu cầu Tòa án cấp cao hơn (Tòa án cấp sơ thẩm) xem xét lại phán quyết đó. Thủ tục tố tụng này chính là thủ tục xét xử phúc thẩm. Sự ra đời của chế định xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự là một nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội. Nó gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ, tiến bộ của tố tụng hình sự. Với ý nghĩa đó, xét xử phúc thẩm có vai trò vô cùng quan trọng thể hiện: Một là, thông qua việc xét xử lại vụ án mà bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà còn phát hiện và khắc phục kịp thời các vi phạm nghiêm trọng về xét xử của Tòa án cấp dưới. Hai là, xét xử phúc thẩm là một trong những chế định thể hiện rõ nét nhất bản chất dân chủ và tiến bộ trong tố tụng hình sự. Chế định này buộc các Tòa án cấp sơ thẩm phải thận trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu về tính hợp pháp và có căn cứ khi ra bản án hoặc quyết định về vụ án. Nó không cho phép người đã kháng cáo hoặc viện kiểm sát đã kháng nghị được bổ sung thay đổi kháng cáo, kháng nghị theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, không cho phép cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo nếu không có kháng cáo của người bị hại hoặc kháng nghị theo hướng đó. Ba là, khi có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, Tòa án cấp phúc thẩm phải đưa vụ án ra xét xử trong thời 15
  16. hạn nhất định. Vì vậy, xét xử phúc thẩm là một trong các phương tiện hữu hiệu, kịp thời bảo vệ và có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bốn là, thông qua việc xét xử các vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm hướng dẫn cho các Tòa án cấp sơ thẩm và các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong việc nhận thức và áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, tăng cường hiệu quả giáo dục pháp luật và củng cố niềm tin vào công lý cho quần chúng nhân dân, đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong khoa học luật tố tụng hình sự, khái niệm "xét xử phúc thẩm" có thể được hiểu ở các góc độ khác nhau. Khái niệm xét xử phúc thẩm có thể được hiểu là một giai đoạn của tố tụng hình sự (giai đoạn phúc thẩm); phúc thẩm là một chế định (chế định xét xử phúc thẩm) của Tố tụng hình sự và phúc thẩm là một thủ tục tố tụng (thủ tục xét xử phúc thẩm). Xét xử phúc thẩm cũng có thể được hiểu bao gồm cả ba nội dung nêu trên tức là xét xử phúc thẩm là một giai đoạn, một chế định của tố tụng hình sự đồng thời là một thủ tục xét xử. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả nghiên cứu xét xử phúc thẩm dưới góc độ là thủ tục xét xử phúc thẩm. Thủ tục xét xử phúc thẩm: là hình thức Tòa án cấp trên tiến hành xét xử lại vụ án hình sự hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Thủ tục xét xử phúc thẩm là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả xét xử phúc thẩm. Vì vậy không phải tất cả các vụ án hình sự sau khi xét xử sơ thẩm đều được xem xét lại theo thủ tục này. Thủ tục phúc thẩm sẽ kết thúc sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết định về vụ án đó. 16
  17. Các đặc điểm cơ bản của thủ tục xét xử phúc thẩm: Ngoài các đặc điểm chung của giai đoạn tố tụng, xét xử phúc thẩm có một số dấu hiệu đặc trưng riêng: - Xét xử phúc thẩm là một giai đoạn độc lập trong quá trình tố tụng hình sự và được tiến hành bởi các chủ thể tiến hành tố tụng đặc trưng là Tòa án cấp phúc thẩm và Viện kiểm sát cấp phúc thẩm. Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ bao gồm các thẩm phán chuyên nghiệp (trường hợp cần thiết mới có hội thẩm nhân dân tham gia…; - Đối tượng xem xét của xét xử phúc thẩm là các vụ án hình sự mà bản án (quyết định) sơ thẩm bị kháng cáo và (hoặc) kháng nghị trong thời hạn luật định - Xét xử phúc thẩm nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có kháng cáo hoặc kháng nghị, đồng thời xem xét lại về nội dung, khắc phục kịp thời các sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. - Hình thức thể hiện kết quả giải quyết vụ án ở giai đoạn tố tụng này là bản án phúc thẩm hoặc quyết định phúc thẩm… Từ những phân tích trên có thể rút ra: Xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự là một thủ tục tố tụng hình sự mà theo đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại các vụ án hình sự mà bản án (quyết định) sơ thẩm bị kháng cáo và (hoặc) kháng nghị trong thời hạn luật định nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án (quyết định) sơ thẩm, khắc phục kịp thời các sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 1.1.2. Tính chất của xét xử phúc thẩm Tính chất của xét xử phúc thẩm là vấn đề quan trọng và quyết định bản chất của xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự và các nội dung khác 17
  18. như: Phạm vi xét xử phúc thẩm, quyền hạn và thủ tục xét xử phúc thẩm của chế định này. Có quan điểm cho rằng: Phúc thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục tố tụng mà theo đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Điều đó có nghĩa là tính chất của phúc thẩm chỉ là xét lại chứ không phải là xét xử lại [73, tr. 262], [74, tr. 278]. Quan điểm khác cho rằng: Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động xét xử sơ thẩm mà còn xét xử cả về nội dung vụ án. Vì vậy tính chất của phúc thẩm không phải là xét lại mà là xét xử lại các vụ án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị [26, tr. 10-11]. Thực chất tính chất của xét xử phúc thẩm có liên quan chặt chẽ tới nguyên tắc "hai cấp xét xử". Khi trong Bộ luật Tố tụng hình sự tồn tại nguyên tắc này thì có nghĩa là Tòa án cấp phúc thẩm phải là cấp xét xử thứ hai, tức là cấp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Cấp giám đốc thẩm, tái thẩm chưa bao giờ được thừa nhận là một cấp xét xử mà chỉ được coi là thủ tục tố tụng đặc biệt có nhiệm vụ xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tiến sĩ Nguyễn Văn Hiện cho rằng: "Việc đồng nhất tính chất của giám đốc thẩm và phúc thẩm là không có căn cứ cả về lý luận thực tiễn bởi vì đây là hai giai đoạn tố tụng khác nhau về bản chất và yêu cầu tố tụng" [11, tr. 171]. Do vậy, có thể tác giả luận văn cho rằng: Tính chất của xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại các vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. 1.1.3. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm Thẩm quyền xét xử phúc thẩm là sự phân định thẩm quyền giải quyết các vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng 18
  19. cáo, kháng nghị giữa các Tòa án cấp trên. Để xác định Tòa án cấp trên nào xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm thì sau khi xét xử sơ thẩm nếu có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm của những người có quyền kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định thì vụ án sẽ được xét xử lại ở cấp cao hơn. Như vậy, khác với thẩm quyền xét xử sơ thẩm được xác định trực tiếp trong pháp luật thì thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Tòa án được xác định gián tiếp trên cơ sở thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Tiến sỹ Nguyễn Văn Huyên đã rất đúng khi cho rằng: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để xác định thẩm quyền của Tòa án các cấp" [13, tr. 22]. Vì vậy, muốn xác định thẩm quyền của Tòa án các cấp phải xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm Hầu hết pháp luật của các nước đều quy định Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật có kháng cáo, kháng nghị. Trên cơ sở thẩm quyền xét xử phúc thẩm xác định được thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong vụ án hình sự: là toàn bộ các quyền hạn mà pháp luật dành cho Tòa án cấp trên trực tiếp trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án hình sự do các Tòa án cấp dưới xét xử, mà bản án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Trong tố tụng hình sự, thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm bao gồm hai yếu tố (nội dung) cấu thành là thẩm quyền xem xét (thẩm quyền về hình thức) và thẩm quyền quyết định các vấn đề về vụ án (thẩm quyền về nội dung). Thẩm quyền xem xét của Tòa án cấp phúc thẩm bao gồm thẩm quyền xét xử phúc thẩm; phạm vi các vụ án hình sự có thể được xem xét lại ở cấp thứ hai (các vụ án có thể kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm) và phạm vi xét xử phúc thẩm (đối với các vụ án thuộc thẩm quyền). 19
  20. Thẩm quyền quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm thể hiện ở các quyền hạn của Tòa án khi xét xử theo thủ tục phúc thẩm các vụ án bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Pháp luật của các nước đều quy định Tòa án cấp phúc thẩm có các quyền hạn sau đây: - Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; - Sửa bản án sơ thẩm; - Hủy bản án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử sơ thẩm lại vụ án; - Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Xét xử phúc thẩm là một chế định thể hiện rõ nét bản chất dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự và có nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Vì vậy yêu cầu đặt ra đối với các quốc gia là phải hạn chế ở mức độ cần thiết các quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm mà chúng có thể làm cho tình trạng của bị cáo xấu hơn so với quyết định của bản án sơ thẩm. Đồng thời mở rộng các quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo. Ngày nay yêu cầu "không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo trong xét xử phúc thẩm" được thừa nhận trong pháp luật của nhiều nước và được coi là một yêu cầu đặc trưng cơ bản của phúc thẩm trong tố tụng hình sự. Yêu cầu này không chỉ là một bảo đảm pháp lý quan trọng để bị cáo thực hiện quyền tự do kháng cáo bản án (quyết định) sơ thẩm mà còn trực tiếp bảo vệ các lợi ích hợp pháp của bị cáo khi vụ án được xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Nó loại trừ sự nghi ngờ từ phía bị cáo về những hậu quả pháp lý bất lợi mà việc kháng cáo có thể đem lại. Tuy nhiên, do ở mỗi nước quan niệm về "làm xấu hơn tình trạng của bị cáo trong xét xử phúc thẩm" khác nhau nên khi quy định về quyền sửa hoặc hủy bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm có một số điểm khác nhau. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2