Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - Qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng
lượt xem 6
download
Đề tài có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB; đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng, trên cơ sở đó tìm ra những bất cập, vướng mắc ngay trong các quy định và thực tiễn áp dụng, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - Qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG 6 LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 1.1. Vai trò của công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực 6 giao thông đường bộ 1.1.1. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường 6 bộ đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội 1.1.2. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường 7 bộ có tác dụng bảo đảm trật tự an toàn xã hội 1.1.3. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường 8 bộ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng 1.2. Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông 8 đường bộ 1.2.1. Khái niệm 8 1.2.2. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao 11 thông đường bộ 1.2.3. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao 14 4
- thông đường bộ 1.2.4. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp 16 khắc phục hậu quả trong lĩnh vực giao thông đường bộ 1.2.5. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao 23 thông đường bộ 1.2.6. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao 28 thông đường bộ 1.2.7. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao 29 thông đường bộ Chương 2: THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG 31 LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 2.1. Khái quát hệ thống giao thông đường bộ tại thành phố Đà Nẵng 31 2.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý và dân cư tại thành phố Đà Nẵng 31 2.1.2. Hệ thống giao thông thành phố Đà Nẵng 33 2.1.3. Hệ thống giao thông đường bộ thành phố Đà Nẵng 35 2.2. Thực trạng vi phạm pháp luật giao thông đường bộ và công 37 tác xử lý vi phạm tại thành phố Đà Nẵng 2.2.1. Thực trạng vi phạm pháp luật giao thông đường bộ tại thành 39 phố Đà Nẵng 2.2.2. Nguyên nhân gây ra vi phạm an toàn giao thông đường bộ 43 2.2.3. Thực trạng xử lý vi phạm an toàn giao thông đường bộ tại 46 thành phố Đà Nẵng 2.3. Thực trạng vi phạm hành lang an toàn đường bộ trên địa bàn 53 thành phố Đà Nẵng và công tác xử lý vi phạm 2.3.1. Tình hình vi phạm hành lang an toàn đường bộ 53 2.3.2. Công tác xử lý vi phạm hành lang an toàn đường bộ 56 5
- 2.4. Nguyên nhân vi phạm pháp luật giao thông đường bộ 60 Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC XỬ 70 LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 3.1. Những thành tựu đạt được và những khó khăn còn tồn tại 70 trong công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại thành phố Đà Nẵng 3.1.1. Thành tựu đạt được trong công tác xử lý vi phạm hành chính 70 trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại thành phố Đà Nẵng 3.1.2. Những khó khăn, vướng mắc trong công tác xử lý vi phạm 72 hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại thành phố Đà Nẵng 3.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả việc xử lý vi phạm hành chính 74 trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại thành phố Đà Nẵng 3.2.1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật giao thông đường bộ và 74 pháp luật trong các lĩnh vực khác có liên quan 3.2.2. Tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm minh, triệt để, 77 kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật giao thông đường bộ 3.2.3. Tăng cường công tác kiểm định chất lượng an toàn kỹ thuật 80 và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới, quản lý phương tiện xe cơ giới và công tác đào tạo, sát hạch thi cấp giấy phép lái xe 3.2.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, tăng cường 82 công tác bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ và hành lang an toàn đường bộ 3.2.5. Đổi mới và duy trì thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ 87 biến, giáo dục pháp luật giao thông đường bộ KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 6
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ATGT : An toàn giao thông GTĐB : Giao thông đường bộ TNGT : Tai nạn giao thông TNGTĐB : Tai nạn giao thông đường bộ TTATGT : Trật tự an toàn giao thông UBND : Ủy ban nhân dân 7
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 1.1 Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch 23 UBND các cấp (3 cấp) 1.2 Thẩm quyền xử phạt của Công an nhân dân 24 1.3 Thẩm quyền xử phạt của thanh tra đường bộ 25 2.1 Bảng tổng hợp vi phạm an toàn GTĐB từ năm 2003 đến 42 6 tháng đầu năm 2012 tại Thành phố Đà Nẵng 2.2 Thống kê số lượng nhà dân, công trình dịch vụ xăng dầu, 56 mở đường ngang đấu nối vào các quốc lộ 1A và 14B đến tháng 06 năm 2012 8
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tai nạn giao thông (TNGT) đã và đang là vấn đề được xã hội quan tâm sâu sắc, mang tính toàn cầu mà tất cả các quốc gia trên thế giới không phân biệt các nước phát triển, nước đang phát triển hay nước kém phát triển đều phải đương đầu và nó đã là thách thức lớn của cả thế giới. Về kinh tế, TNGT và ùn tắc giao thông hàng năm làm thiệt hại từ 1% đến 3% GDP chi phí hàng năm của các nước đang phát triển, ước tính vào khoảng trên 100 tỷ USD. Tai nạn giao thông ở Việt Nam cũng nằm trong tình trạng chung của các nước đang phát triển, TNGT ở Việt Nam tăng liên tục trong nhiều năm và tính nghiêm trọng ngày càng gia tăng (bình quân trên 13 nghìn người chết do TNGT và khoảng 29.000 ca chấn thương sọ não/năm). TNGT luôn là nỗi ám ảnh trong đời sống xã hội và là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển kinh tế của đất nước. Những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được mối hiểm họa của TNGT. Để kiềm chế và giảm thiểu TNGT, Ban Bí thư Trung ương, Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo để ban hành và sửa đổi luật, các nghị định quy định và thực hiện các biện pháp cấp bách phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, hiệu quả chưa cao do ý thức chấp hành luật của người tham gia giao thông thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ và yếu kém, hiệu lực quản lý nhà nước chưa cao. Ở khu vực miền trung tây nguyên nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng, có các tuyến quốc lộ 1A, quốc lộ 14B nối liền các địa phương trong vùng đã tạo nên một hệ thống giao thông đường bộ thuận tiện, hiệu quả. Trong những năm qua, thành phố Đà Nẵng đã huy đ ộng toàn bộ sức mạnh hệ thống chính trị của thành phố vào cuộc để triển khai và thực hiện tốt các luật của Quốc hội, nghị định của Chính phủ về đảm bảo an toàn giao thông (ATGT), đặc 9
- biệt là Luật Giao thông đường bộ (GTĐB) năm 2007. Sau hơn 04 năm triển khai thực hiện Luật GTĐB, bước đầu đã thu được những kết quả nhất định, tình hình trật tự an toàn giao thông (TTATGT) phần nào được cải thiện và đã hạn chế tới mức thấp nhất số vụ, số người chết do TNGT. Tuy nhiên, hoạt động GTĐB vẫn còn nhiều bất cập, TNGT tuy có giảm về số vụ và số người chết nhưng chưa bền vững, đặc biệt là tình hình vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT có xu hướng ngày càng tăng. Nguyên nhân cơ bản là tình trạng pháp chế trong lĩnh vực GTĐB còn nhiều điểm hạn chế. Điều này thể hiện trên các mặt sau đây: Hệ thống văn bản pháp qui định điều chỉnh lĩnh vực này tuy đã có tương đối đầy đủ, nhưng tính răn đe chưa cao và chưa phù hợp với tình hình thực tế nên khó triển khai thực hiện dẫn đến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật còn hạn chế; cơ sở hạ tầng GTĐB trong thời gian dài chưa được quan tâm đầu tư đúng mức và tương xứng với tốc độ phát triển của phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ; trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật về giao thông của một số người khi tham gia giao thông vẫn còn thấp hoặc xem nhẹ; công tác quản lý nhà nước trên lĩ nh vực GTĐB chưa thật sự hiệu quả; các vi phạm xảy ra nhưng không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Hậu quả đã dẫn đến TNGT xảy ra làm chết người và thiệt hại về tài sản của nhân dân. Để góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, tìm kiếm những giải pháp nhằm thiết lập lại TTATGT, với mục tiêu bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và trên hết là đảm bảo tính pháp chế XHCN trong trong lĩnh vực GTĐB thì công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB đóng một vai trò h ết sức quan trọng , tôi chọn đề tài "Xử lý vi phạm hành chí nh trong lĩnh vực giao thông đường bộ - qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng " để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian qua đã có một số công trì nh khoa học liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận văn, tiêu biểu là: 10
- Luận văn thạc sĩ luật học : "Hoàn thiện các quy định pháp luật về các biện pháp xử phạt vi phạm hành chí nh ", của Nguyễn Trọng Bình, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2000. Luận văn đã phân tí ch các hì nh thức xử phạt vi phạm hành chính được đề cập trong văn bản pháp luật , những ưu điểm và hạn chế khi áp dụng trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện phá p luật về lĩ nh vực này. Luận văn thạc sĩ luật học : "Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên ", của Nguyễn Ngọc Bích , Trường Đại học Luật Hà Nội , 2003. Luận văn đề cập đến những ngu yên tắc , thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên và đề ra giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật trong lĩnh vực này. Luận văn thạc sĩ luật học : "Pháp luật về xử lý vi p hạm hành chính trong lĩ nh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận, thực tiễn và phương hướng hoàn thiện ", của Vũ Thanh Nhàn , Trường Đại học Luật Hà Nội , 2009. Luận văn nghiên cứu thực trạng phá p luật xử lý vi phạm hành chí nh trong lĩ nh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩ nh vực này. Luận văn thạc sĩ luật học: "Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông qua thực tế tỉnh Thái Nguyên", của Nguyễn Quang Huy, Đại học quốc gia Hà Nội, 2007. Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật GTĐB, thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực GTĐB; phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật trong việc đảm bảo ATGT đường bộ, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường bộ; những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân khách quan, chủ quan của những tồn tại hạn chế trong thực hiện pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm TTATGT đường bộ. Luận văn cũng đưa ra quan điểm, một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo TTATGT đường bộ. Trong các công trì nh nghiên cứu trên đây , trên cơ sở phân tí ch lý luận và thực tiễn có liên quan, các tác giả đã giới thiệu , phân tí ch đánh giá về pháp 11
- luật và thực tiễn hoạt động xử lý vi phạm hành chí nh nói chung và về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB ở các tỉnh thành khác (Thái Nguyên) chứ chưa nghiên cứu về thực tiễn xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại thành phố Đà Nẵng . Do vậy, luận văn "Xử lý vi phạm hành chí nh trong lĩ nh vực giao thông đường bộ - qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng" sẽ kế thừa một phần cơ sở lý luận của các nghiên cứu trên, đồng thời phản ánh thực trạng tại thành phố Đà Nẵng nhằm cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chí nh trong lĩ nh vực GTĐB của cả nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng , nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng , chống vi phạm trong lĩ nh vựcGTĐB. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích Đề tài có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB; đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng, trên cơ sở đó tìm ra những bất cập, vướng mắc ngay trong các quy định và thực tiễn áp dụng, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng. Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB. - Nghiên cứu thực trạng thực thi các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng. - Đề ra các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng. 12
- 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chính như: Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê xã hội học, các phương pháp xã hội học pháp luật. 5. Những đóng góp chủ yếu về mặt khoa học của đề tài Đề tài là chương trình chuyên khảo về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng, đề tài đã đặt vấn đề tương đối hệ thống về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng; Phân tích tương đối cụ thể thực trạng thực thi các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng; đề ra các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại Đà Nẵng. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại Đà Nẵng. Chương 3: Phương hướng nâng cao hiệu quả việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB tại thành phố Đà Nẵng. 13
- Chương 1 PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 1.1. VAI TRÕ CỦA CÔNG TÁC XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 1.1.1. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng bộ đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội Bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ công nghệ thông tin và kinh tế tri thức, một hệ thống GTĐB hiện đại sẽ tạo đà phát triển cho phát triển kinh tế xã hội, là yếu tố hàng đầu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và nâng cao hiệu quả kinh tế cho hoạt động kinh doanh của các chủ thể trong cả nước. Trái lại, một hệ thống GTĐB yếu kém, sẽ không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế, tức là hiệu lưck và hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực GTĐB chưa được đầy đủ và chặt chẽ. Giao thông vận tải nói chung, GTĐB nói riêng được hình thành trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Bàn về giao thông vận tải, Các Mác đã từng khẳng định: Những quan hệ giữa các quốc gia khác nhau đều phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động và giao thông trong nước của quốc gia đó. Nguyên lý đã được mọi người công nhận. Nhưng không chỉ những mối quan hệ giữa nước này và nước khác mà cả toàn bộ cơ cấu nội bộ của bản thân nước đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của giao thông trong và ngoài nước đó [53]. Có thể nhận định rằng phát triển GTĐB và phát triển kinh tế - xã hội là hai quá trình có liên quan chặt chẽ với nhau, là điều kiện và tiền đề cho nhau. Xây dựng một mạng lưới GTĐB hoàn thiện chính là tiền đề, điều kiện 14
- cho sự phân bố hợp lý lực lượng sản xuất trên từng địa phương, vùng, miền hay các làng nghề, là sự kết nối giao thương giữa nhân dân các địa phương, và là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của các vùng kinh tế, đặc biệt là đối với một số địa phương ở các huyện miền núi. Hiện nay, với nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì vận tải, giao thương giữa các vùng, miền, các dân tộc càng gia tăng. Do đó, giao thông vận tải luôn phát triển là một quy luật tất yếu. Tốc độ phát triển kinh tế và phát triển GTĐB phải tỷ lệ thuận với nhau. Để GTĐB là động lực, là mũi nhọn cho sự phát triển kinh tế - xã hội thì phải không ngừng tăng cường sự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực GTĐB, và pháp luật GTĐB phải là một công cụ trong quản lý nhà nước, trong đó quy định các chế tài xử phạt vi phạm sẽ là cần thiết cho sự phát triển về GTĐB. Đồng thời pháp luật GTĐB cần được các cơ quan, đơn vị, ngành triển khai kịp thời, nhanh chóng đến các chủ thể khác trong xã hội. 1.1.2. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng bộ có tác dụng bảo đảm trật tự an toàn xã hội Sử dụng pháp luật GTĐB làm công cụ để thực hiện tác động quản lý lên các khách thể, các chủ thể có thẩm quyền trong lĩnh vực GTĐB hướng tới mục tiêu là đảm bảo cho hoạt động GTĐB được trật tự, an toàn, nhanh chóng, tiện lợi, thông suốt và bảo vệ môi trường. Do vậy, hoạt động tuần tra kiểm soát, thanh tra, kiểm tra phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật GTĐB của các lực lượng chức năng, các cấp chính quyền phải kịp thời để hạn chế thấp nhất vi phạm, chống được ùn tắc, kiềm chế TNGT đường bộ, ngăn ngừa thiệt hại do TNGT đường bộ gây ra, đảm bảo TTATGT đường bộ và an toàn xã hội. Trật tự an toàn xã hội đảm bảo vững chắc là cơ sở, điều kiện để giữ TTATGT đường bộ, củng cố phát huy tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực GTĐB. 15
- 1.1.3. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng bộ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng Sự phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của mỗi địa phương, tỉnh, thành phố là tiền đề cho việc đảm bảo an ninh quốc phòng. Bởi lẽ một hệ thống đường bộ thông suốt, an toàn, trật tự, thuận lợi là mục tiêu nhà nước, đồng thời nó cũng là một cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng cho an ninh, quốc phòng. GTĐB nối liền các vùng, miền, các địa phương sẽ giảm bớt chênh lệch về kinh tế, văn hóa xã hội, trình độ giữa các vùng miền, tăng cường giao lưu, đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, cộng đồng dân cư, góp phần ổn định chính trị. GTĐB đảm bảo cung cấp hậu cầu, tăng tính cơ động cho các lực lượng an ninh quốc phòng làm nhiệm vụ giữ gìn và bảo vệ chủ quyền, trọn vẹn lãnh thổ, phòng chống mọi hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, bảo vệ thành quả cách mạng. 1.2. PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 1.2.1. Khái niệm Trong một nhà nước, việc quản lý xã hội bằng pháp luật luôn được xen kẽ với việc áp dụng những chế tài xử phạt trong mỗi một lĩnh vực. Nếu không có những quy định cho việc thực hiện các chế tài nghiêm khắc, phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, thì sẽ dẫn đến pháp luật khó có thể đi vào cuộc sống và được người dân nghiêm túc thực hiện. Pháp luật và Nhà nước là những hiện tượng đặc biệt luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nhà nước và pháp luật có những nguyên nhân, tiền đề xã hội ngay từ bình minh và trong suốt quá trình vận động, phát triển. Theo dòng lịch sử, từ xưa đến nay, việc quản lý nhà nước dù là dưới quan điểm đức trị hay pháp trị thì dùng pháp luật quản lý đất nước và sử dụng pháp luật là công cụ để xử lý người không tuân thủ pháp luật luôn là một lựa chọn có hiệu quả để quản lý đất nước, phát triển và ổn định xã hội. 16
- Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc dùng pháp luật để quản lý nhà nước lại càng quan trọng. Để quản lý xã hội nói chung và hoạt động quản lý nói riêng trong từng lĩnh vực thì việc sử dụng các "hình phạt" luôn được lựa chọn để làm cho pháp luật thể hiện được tính nghiêm minh, mọi người phải tôn trọng và thực hiện. Lĩnh vực GTĐB cũng không phải là ngoại lệ. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định: "Quản lý xã hội bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng" [43, tr. 120]. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định: "Quản lý xã hội bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng" [44, tr. 94]. Để quản lý nhà nước bằng pháp luật có hiệu quả, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đưa ra yêu cầu: "Quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng việc giáo dục đạo đức" [45, tr. 129]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng lại tiếp tục đề cao vai trò của pháp luật trong hệ thống các công cụ quản lý xã hội: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật" [46, tr. 132]. Như vậy, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đến Đại hội IX của Đảng, mục tiêu quản lý xã hội bằng pháp luật là mục tiêu nhất quán. Quan điểm, tư tưởng này của Đảng được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết 51/2001-QH ngày 25 tháng 12 năm 2001 quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật" [55]. Với sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực GTĐB, vấn đề đặt ra là những quy định của nhà nước về vấn đề này như thế nào, luật GTĐB là gì? 17
- Có thể hiểu: Luật GTĐB là tổng thể các quy định về quy tắc GTĐB; kết cấu hạ tầng GTĐB; phương tiện và người tham gia GTĐB; vận tải đường bộ và quản lý nhà nước về GTĐB. Pháp luật GTĐB có thể khái quát: Pháp luật GTĐB là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành có nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB. Với tư cách là công cụ để Nhà nước quản lý GTĐB thì pháp luật GTĐB có nguồn rất rộng. Đó là các quy phạm pháp luật về đất đai, các quy phạm pháp luật về dân sự, các quy phạm pháp luật về kinh doanh vận tải của các thành phần kinh tế, các quy phạm pháp luật hành chính và tư pháp, các tội phạm trong lĩnh vực GTĐB quy định trong Bộ luật hình sự,… Trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới hiện nay, pháp luật GTĐB còn là các điều ước quốc tế do nước ta tham gia hoặc ký kết. Vấn đề đặt ra là tại sao Nhà nước phải quản lý lĩnh vực GTĐB? Hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý trong một lĩnh vực cụ thể nào đó có thể bằng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau. Phổ biến là quản lý bằng phương pháp hành chính, phương pháp kế hoạch chính sách, phương pháp kinh tế và phương pháp tư tưởng. Nhìn chung, Nhà nước phải dùng pháp luật như một công cụ, đồng thời là phương pháp chủ yếu để quản lý xã hội, đó chính là pháp luật. Từ những khái niệm về pháp luật GTĐB, Luật GTĐB thì có thể khái quát vấn đề vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB như sau: Vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB là những hành vị của cá nhân, tổ chức vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực GTĐB một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải xử lý vi phạm hành chính, bao gồm: Các hành vi vi phạm quy tắc GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về phương tiện tham gia GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về người 18
- điều khiển phương tiện tham gia GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về vận tải đường bộ; các hành vi vi phạm khác về GTĐB. Những hành vi vi phạm pháp luật về GTĐB có thể làm phát sinh những quan hệ pháp luật sau đây: - Vi phạm pháp luật dân sự. - Vi phạm pháp luật hành chính. - Vi phạm kỷ luật nhà nước (đối với cán bộ, công chức, viên chức hành chính trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực GTĐB). - Vi phạm pháp luật về đất đai. Vậy xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực này như thế nào, và có tác dụng như thế nào đối với hoạt động quản lý nhà nước? Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB có thể hiểu: là hoạt động của cơ quan nhà nước áp dụng đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật GTĐB về quy tắc GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về phương tiện tham gia GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện tham gia GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về vận tải đường bộ; các hành vi vi phạm khác về GTĐB mà không phải là tội phạm và theo quy định phải bị xử phạt hành chính. 1.2.2. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng bộ Vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB là một dạng của vi phạm pháp luật. Do đó, những vi phạm này cũng có các yếu tố cấu thành pháp lý gồm: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB nói riêng nằm trong một thể thống nhất. 19
- Thứ nhất: Mặt khách quan Mặt khách quan của vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB nói riêng là tổng hợp các dấu hiệu bên ngoài của vi phạm hành chính bao gồm: hành vi trái pháp luật, tính nguy hiểm cho xã hội, hậu quả và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu khác như công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm vi phạm. Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB là hành vi vi phạm hành chính. Nói cách khác, hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước về GTĐB đã bị pháp luật hành chính ngăn cấm hay không thực hiện những việc mà pháp luật bắt buộc chủ thể phải làm. Thứ hai: Mặt chủ quan Mặt chủ quan của vi phạm là dấu hiệu bên trong của vi phạm hành chính và thể hiện ở yếu tố lỗi của người vi phạm. Lỗi là dấu hiệu cơ bản trong cấu thành mọi vi phạm hành chính. Hành vi lỗi được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Lỗi cố ý thể hiện ở chỗ người có hành vi vi phạm nhận thức được tính chất hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra. Lỗi vô ý thể hiện ở chỗ người thực hiện hành vi này phải trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội. Trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB, yếu tố động cơ, mục đích vi phạm cũng được tính đến khi xem xét để quyết định các hình thức và mức xử phạt cụ thể. Thứ ba: Mặt chủ thể Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là cá nhân, tổ chức có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính. 20
- Theo quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB, cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính, cụ thể là: Người từ đủ 14 tuổi đến 1 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý. Như vậy, khi xác định người ở độ tuổi này có vi phạm hành chính hay không, cần xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ quan của họ. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành không định nghĩa thế nào là lỗi cố ý hoặc vô ý trong vi phạm hành chính. Tuy nhiên, thông thường người thực hiện hành vi hành chính với lội cố ý là người nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm mà vẫn cố tình thực hiện. Người đủ từ 16 tuổi trở lên vị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Đối với chủ thể của vi phạm hành chính là tổ chức bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân. Bên cạnh đó, Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện và những người thuộc lực lượng Công an nhân dân vi phạm hành chính thi bị xử lý như đối với các công dân khác; trong trường hợp cần áp dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng một số giấy phép hoạt động vì mục đích quốc phòng, an ninh thì người xử phạt không trực tiếp xử lý mà đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội, Công an có thẩm quyền xử lý theo Điều lệnh kỷ luật. Đối với các nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Việt Nam có ký kết hoặc gia nhập có quy định khác. Ngoài ra, một số trường hợp cá nhân, tổ chức không vi xử lý vi phạm hành chính đó là: 21
- Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Người thực hiện hành vi do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó. Người thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác mà làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Thứ tư: Mặt khách thể Vi phạm hành chính trong GTĐB cũng giống nư mọi vi phạm hành chính khác là đều xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu khách thể để nhận biết về vi phạm hành chính trong GTĐB là hành vi vi phạm đã xâm phạm trật tự quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực GTĐB, bao gồm: Các hành vi vi phạm quy tắc GTĐB, các hành vi vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng GTĐB, các hành vi vi phạm quy định về phương tiện tham gia GTĐB, các hành vi vi phạm quy định về người điều khiển phương tiện tham gia GĐB, các hành vi vi phạm quy định về vận tải đường bộ, các hành vi vi phạm khác liên quan đến GTĐB. 1.2.3. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng bộ Theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi năm 2008, và Nghị định 34/2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành 22
- chính trong lĩnh vực GTĐB có thể thấy xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau: Thứ nhất: Chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định. Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính được quy định cụ thể trong các văn bản luật của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội và nghị định của Chính phủ. Các văn bản do Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (UBND) ban hành để chỉ đạo hướng dẫn, tổ chức thực hiện xử lý vi phạm hành chính và hình thức, mức xử phạt. Thứ hai: Nguyên tắc kịp thời, nhanh chóng, triệt để. Mọi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB phải được tiến hành nhanh chóng, triệt để, mọi hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật. Thứ ba: Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm. Một hành vi vi phạm đã được người có thầm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt hoặc đã lập biên bản để xử phạt thì không được lập biên bản, ra quyết định xử phạt lần thứ hai đối với hành vi đó nữa. Trong trường hợp hành vi vi phạm vẫn tiếp tục được thực hiện mặc dù đã bị người có thẩm quyền xử phạt ra lệnh đình chỉ thì bị áp dụng tình tiết tăng nặng. 23
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 349 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 97 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 112 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 105 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn