intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

172
lượt xem
42
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận tập trung tìm hiểu về ẩn dụ ý niệm cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn và ẩn dụ ý niệm tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn. Mời các bạn tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ----------------------------------------- TRẦN THỊ MỸ LIÊN AÅN DUÏ TRONG CA TÖØ TRÒNH COÂNG SÔN DÖÔÙI GOÙC NHÌN NGOÂN NGÖÕ HOÏC TRI NHAÄN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ----------------------------------------- TRẦN THỊ MỸ LIÊN AÅN DUÏ TRONG CA TÖØ TRÒNH COÂNG SÔN DÖÔÙI GOÙC NHÌN NGOÂN NGÖÕ HOÏC TRI NHAÄN Chuyeân ngaønh: Ngoân ngöõ hoïc Maõ soá: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
  3. LỜI TRI ÂN  Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đối với sự hướng dẫn tận tình và hỗ trợ những tài liệu quý giá về Ngôn ngữ học tri nhận của PGS.TS Dư Ngọc Ngân;  Xin cảm ơn GS.TS Lý Toàn Thắng, người đã nhiệt tình giảng giải và động viên tác giả luận văn trong quá trình triển khai đề tài;  Xin mãi biết ơn sự giảng dạy nhiệt tình của tất cả thầy cô đã giúp tác giả luận văn hoàn thành các chuyên ngành trong chương trình cao học;  Xin chân thành cảm ơn Phòng Sau Đại học, Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, với tư cách là đơn vị đào tạo và tổ chức để luận văn được bảo vệ;  Xin khắc ghi sự động viên tinh thần của tất cả bạn bè và người thân trong thời gian học tập, tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu của tác giả luận văn.
  4. MỤC LỤC LỜI TRI ÂN ................................................................................................................................... 3 4T T 4 MỤC LỤC ...................................................................................................................................... 4 4T T 4 MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................... 6 4T T 4 0.1.Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 6 4T T 4 0.2.Lịch sử nghiên cứu ............................................................................................................................ 7 4T 4T 0.3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 10 4T T 4 0.4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................................. 10 4T 4T 0.5. Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................................................ 11 4T 4T 0.6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................................................... 12 4T 4T Chương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT ................................................................................................. 13 4T 4T 1.1 Vấn đề về ngôn ngữ học tri nhận ..................................................................................................... 13 4T 4T 1.1.1.Thế nào là Ngôn ngữ học tri nhận? ........................................................................................... 13 T 4 T 4 1.1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận .................................................. 15 T 4 T 4 1.2Ẩn dụ tri nhận ................................................................................................................................... 16 4T 4T 1.2.1. Khái niệm ẩn dụ tri nhận .......................................................................................................... 16 T 4 4T 1.2.2. Đặc điểm của ẩn dụ ý niệm ...................................................................................................... 19 T 4 4T 1.2.3. Các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến ẩn dụ tri nhận .......................................................... 23 T 4 T 4 1.2.3.1. Ý niệm, phạm trù .............................................................................................................. 23 T 4 4T 1.2.3.2. Khung/ miền/ lĩnh vực ...................................................................................................... 24 T 4 4T 1.2.3.3. Điển dạng ......................................................................................................................... 24 T 4 4T 1.2.4. Các loại ẩn dụ tri nhận cơ bản .................................................................................................. 25 T 4 4T 1.2.4.1. Ẩn dụ cấu trúc (Structural metaphors) .............................................................................. 25 T 4 T 4 1.2.4.2. Ẩn dụ bản thể (Ontological metaphor) ............................................................................. 25 T 4 T 4 1.2.4.3. Ẩn dụ định hướng (Orientational metaphor) ..................................................................... 26 T 4 T 4 Chương 2: ẨN DỤ Ý NIỆM CUỘC ĐỜI TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN ..................... 28 4T T 4 2.1.Cuộc đời là cuộc hành trình .............................................................................................................. 28 4T 4T 2.2.Cuộc đời là vật thể............................................................................................................................ 34 4T 4T
  5. 2.3.Cuộc đời là con người ...................................................................................................................... 41 4T 4T 2.4.Cuộc đời là cõi tạm .......................................................................................................................... 46 4T 4T Chương 3: ẨN DỤ Ý NIỆM TÌNH YÊU TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN ..................... 53 4T T 4 3.1.Tình yêu là vật thể ............................................................................................................................ 53 4T 4T 3.2.Tình yêu là cuộc hành trình .............................................................................................................. 60 4T 4T 3.3. Tình yêu là con người. ..................................................................................................................... 64 4T 4T 3.4.Tình yêu là hư vô ............................................................................................................................. 68 4T 4T 3.5.Tình yêu là sự chuyển động của các mùa trong năm ......................................................................... 72 4T T 4 KẾT LUẬN ................................................................................................................................... 76 4T T 4 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................ 80 4T 4T Phụ lục .......................................................................................................................................... 83 4T T 4
  6. MỞ ĐẦU 0.1.Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu Nói đến ngôn ngữ ca từ Trịnh Công Sơn là người ta nghĩ đến một hiện tượng đặc biệt trong nền văn hóa Việt Nam thế kỷ XX. Có người đã đánh giá ngôn ngữ ca từ Trịnh Công Sơn “Đã làm một công cuộc thể nghiệm của tiếng Việt trên những chặng đường mới của ngôn ngữ với những kết hợp từ ngữ tài hoa, những góc độ thu hình lạ lẫm, những tri giác dày dặn nhiều tầng, đồng thời làm sáng giá những sự vật thông thường và tầm thường…”[9, tr.24]. Để chứng minh cho luận điểm đó, nhiều nhà nghiên cứu, bình luận đã khám phá ca từ Trịnh Công Sơn từ nhiều góc nhìn khác nhau. Mỗi đường hướng nghiên cứu là một công cụ để tìm hiểu cái hay, cái đẹp trong ca từ của người nhạc sĩ này. Đi vào tình ý của những khúc ca, người ta thấy rằng phần ca từ của ông có một “chiều sâu tư duy” và nó xứng đáng được xem như là những bài thơ vì có một độ sâu riêng. Như vậy, nghiên cứu ca từ Trịnh Công Sơn phải nghiên cứu cả vấn đề tư duy bên cạnh vấn đề cấu trúc hình thức ngôn ngữ mới có thể tìm thấy cái “độ sâu” ấy. Với lí do đó, có thể nói, cách tiếp cận theo hướng ngôn ngữ học tri nhận là công cụ hiệu quả để khám phá cái “chiều sâu tư duy” trong phần lời ca của nhạc Trịnh. Và hơn hết, với ẩn dụ tri nhận, người ta có thể đi vào bản chất năng động tiêu biểu nhất của thế giới ẩn dụ. Ở đó, ẩn dụ được mở rộng về mặt biểu đạt các hình tượng làm cho cấu trúc ngôn ngữ luôn được mở rộng theo chiều kích năng động của tư duy chứ không bị khuôn cứng trong các mô hình. Vì vậy, ẩn dụ tri nhận, như đã nói là một công cụ hữu hiệu để đi vào cái vũ trụ bí ẩn, cái thế giới tinh thần mờ khuất để khám phá nơi đó “cái nhìn thế giới” vừa gần gũi, vừa xa lạ của Trịnh Công Sơn so với cái nền tri nhận chung của dân tộc, của nhân loại. Đó là lí do mà luận văn triển khai đề tài “Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận” với hi vọng được góp thêm một phần nhỏ vào việc tìm hiểu về cái nhìn, sự phân tích và giải thích của người nghệ sĩ này về cuộc đời, về thế giới bằng một công cụ mới của khoa học ngôn ngữ –ẩn dụ tri nhận. Triển khai đề tài “Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận”, luận văn nhằm mục đích chính là vận dụng những lí thuyết về ẩn dụ tri nhận để tìm hiểu những ý niệm về tình yêu và cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn, từ đó đưa ra
  7. những nhận định về đặc điểm ngôn ngữ và tư duy của Trịnh Công Sơn thông qua ca từ của ông. 0.2.Lịch sử nghiên cứu Đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về Trịnh Công Sơn. Một số bài viết chủ yếu chỉ đề cập đến con người, cuộc đời, gia đình của Trịnh Công Sơn; một số bài viết khác là những công trình nghiên cứu ca từ Trịnh Công Sơn theo hướng văn học, ngôn ngữ học, âm nhạc. Có những bài là lời nhận xét chung chung và có những bài trở là những công trình nghiên cứu rất sâu. Dù là bàn đến Trịnh Công Sơn ở khía cạnh nào, phương diện nào vào thời điểm nào, đa phần các bài viết về ông thể hiện thái độ ca ngợi, thán phục về tài năng và nhân cách của người nhạc sĩ này. Với tư cách là một con người,mà mỗi người là một hạt bụi giữa nhân gian thì Trịnh Công Sơn được người đời ví như “cát bụi lộng lẫy”. Trong quan hệ với gia đình, ông là người con hiếu thảo, người anh có trách nhiệm. Trong quan hệ với bạn bè, ông là người bạn chân thành. Trong quan hệ với xã hội, với nghệ thuật và với cuộc đời này, ông là ân nhân, đã mang đến những tác phẩm âm nhạc bất hủ ca ngợi con người, ca ngợi cuộc sống, kêu gọi con người sống cho đẹp, cho hay; kêu gọi mọi người hãy đến với nhau và yêu thương nhau, cùng nhau chống lại chiến tranh, chống lại cái xấu, cái ác…Với tư cách là một người nghệ sĩ, Trịnh được xem là “người hát rong qua nhiều thế hệ”. Ông là một “người hát rong” trong cuộc đời để chở những ca khúc của mình đến trái tim của mọi người để con người gần nhau, yêu thương nhau và đến với cuộc đời , bằng trái tim bao dung đẹp đẽ. Những ca khúc ấy vượt thời gian trở thành “những bài ca không năm tháng” tồn tại mãi với cuộc đời này dù cho chủ nhân của những khúc ca ấy đã trở thành người thiên cổ. Cụ thể là, giải thích về sự nổi tiếng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, dưới nhiều góc độ khác nhau : âm nhạc, ngôn ngữ học, văn học, nhân học, xã hội học…, người ta đã viết rất nhiều về những đề tài mang những nội dung như: ca từ đầy chất thơ, cái hay cái lạ trong ca từ Trịnh Công Sơn, tính triết học, tính thiền trong ca từ Trịnh Công Sơn, những biểu tượng ngôn ngữ đặc biệt trong ca từ của ông, con người thơ ca của Trịnh…. Tất cả những điều đó được tập hợp lại trong những cuốn sách, bài viết, công trình khoa học như: Tập thể các tác giả Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến đã sưu tầm và biên soạn cuốn sách Trịnh Công Sơn - Một người thơ ca một cõi đi về và được xuất bản bởi Nhà xuất bản Âm nhạc và Trung tâm Văn hóa Đông Tây, Hà Nội ngay khi Trịnh Công Sơn mất (2001). Tiếp đó, các tác giả này tiếp tục cho xuất bản liên tục ba cuốn nữa là
  8. Trịnh Công Sơn - Cát bụi lộng lẫy, Trịnh Công Sơn - Người hát rong qua nhiều thế hệ và Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người cũng vào năm 2001. Những người thân, bạn bè của Trịnh Công Sơn cũng sưu tầm và thể hiện những tình cảm, suy nghĩ của mình về con người, cuộc đời và ca từ của Trịnh Công Sơn, có thể kể đến là các tác giả: Trịnh Cung, Nguyễn Quốc Thái với cuốn sách Trịnh Công Sơn - Cuộc đời, âm nhạc, thơ, hội họa & suy tưởng (năm 2001), Bửu Ý với Trịnh Công Sơn một nhạc sĩ thiên tài (năm 2003), Nguyễn Đắc Xuân với Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế (năm 2003), Hoàng Phủ Ngọc Tường với Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng tử bé (năm 2005), Hoàng Tá Thích với Như những dòng sông (2007), Bùi Vĩnh Phúc với Trịnh Công Sơn- Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật (năm 2008). Và còn có những luận văn nghiên cứu về nhạc Trịnh, đáng chú ý là có cả những công trình nghiên cứu của học viên nước ngoài như luận văn cao học của tác giả Yoshii Michiko năm 1991 với đề tài Những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn( tại Đại học Paris). Ở Việt Nam, Nguyễn Thị Thanh Thúy với công trình luận văn Thạc sĩ tốt nghiệp tại Đại học Quy Nhơn với đề tài mang tên Vết chân Dã Tràng cũng là công trình nghiên cứu công phu về con người, cuộc đời của Trịnh Công Sơn … Ngoài ra còn có các bài viết trên các trang web, bài báo, tạp chí của nhiều người bàn về Trịnh Công Sơn và ca khúc của ông. Trước năm 1975 có thể kể đến là các bài viết của Lê Trương trong Phong trào da vàng ca (Trước 1975), của Tạ Tỵ trong Trịnh Công Sơn (Trước 1975), của Tô Thùy Yên trong Huyền thoại về con người (Trước 1975). Đặc biệt, từ sau ngày Trịnh Công Sơn mất, số lượng các bài viết tăng lên rất nhiều, đa số là mang nội dung ca ngợi tài năng và con người của Trịnh Công Sơn, chẳng hạn, Hà Vũ Trọng có bài Chiêm ngắm đóa hoa vô thường in trên Tạp chí Hợp Lưu, Hoa kỳ năm 2001, Trần Hữu Thục có bài Một cái nhìn về ca từ Trịnh Công Sơn trên Tạp chí Văn học California, Hoa Kỳ năm 2001. Ngoài ra còn có những bài viết, bài phát biểu của nhạc sĩ Thanh Tùng, nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiên, Ca sĩ Khánh Ly….trên các phương tiện thông tin. Riêng dưới góc độ ngôn ngữ học, mà đặc biệt là tính ẩn dụ trừu tượng mang đến sự hấp dẫn trong ca từ Trịnh Công Sơn đã có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu một cách sâu sắc, công phu. Trước hết, có thể kể đến là nhận xét của Hoàng Tá Thích : “Ngoài hình ảnh phong phú, ca từ Trịnh Công Sơn còn mang nhiều tính ẩn dụ đôi khi làm người nghe khó hiểu, mà chính tác giả cũng không thể nào giải thích một cách đơn giản
  9. những suy nghĩ của mình đã chuyển tải sang ngôn ngữ âm nhạc (Tương tự như một họa sĩ vẽ tranh trừu tượng đôi khi cũng khó thể giải thích những ý tưởng rất… trừu tượng của mình thể hiện trên tác phẩm hội họa)”[29, tr.3] Hay như đánh giá của tác giả Bùi Vĩnh Phúc trong một cuộc phỏng vấn : “Ca từ của Trịnh Công Sơn đã làm mới ngôn ngữ Việt Nam và đưa ra những hình ảnh đẹp một cách rất bi thiết pha trộn với nét kỳ ảo. Tất cả những điều đó tạo nên một thế giới riêng biệt, một thế giới chưa bị làm mòn đi bởi sự nhàm chán, sự lặp lại. Và điều ấy tạo nên sự thu hút.” [http://www.tcs-home.org] Còn Trịnh Chu thì khẳng định: “Ở Nguyễn Du, tiếng Việt chỉ đẹp bởi sự chính xác, mang tính triết lý cao, và xem ra cái “mỹ” ở đây chỉ là cái “mỹ” của hiện thực. Còn cái “đẹp” của Trịnh Công Sơn lại là cái “đẹp” bảng lãng, sương khói của siêu thực, ấn tượng, bởi vì ông có khả năng tạo nên độ bóng của ngôn từ. Sự vật nào được Trịnh Công Sơn đụng đến cũng bớt thật đi, và được khoác lên một thứ ánh sáng mới, đủ sức bước ra sân khấu của ngôn từ với vẻ mặt trang trọng…”. [http://www.tcs-home.org]. Bửu Ý cũng cho rằng : “Lời ca của Trịnh Công Sơn đầy ắp biện pháp tu từ đủ loại: nhân hóa, tỷ dụ, hoán dụ, phúng dụ, biểu tượng…Trong đó có hai biện pháp trở đi trở lại nhiều và đặc biệt giúp tăng thêm tính thi ca cho bài hát: sự láy lại và ẩn dụ…”[41] Ngoài ra, ca từ Trịnh Công Sơn còn trở thành những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh, học viên thuộc chuyên ngành Ngôn ngữ học, như công trình nghiên cứu về “Biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ Trịnh Công Sơn” của Nguyễn Thị Bích Hạnh, một luận văn cao học đượ in thành sách năm 2009. Công trình này đã có những phát hiện và nhận xét sâu sắc về các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng như: nắng, núi, ngựa, khu vườn…Bên cạnh đó là luận văn của Bùi Thị Minh Thùy “Đặc điểm phong cách ngôn ngữ trong ca từ Trịnh Công Sơn” (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, năm 2007) cũng mang đến cho người đọc những phát hiện về cái lạ, cái hay trong việc sử dụng từ ngữ, đặc biệt là lớp từ láy và những kết hợp bất thưởng trong ngôn ngữ dùng để sáng tác ca khúc của Trịnh….Theo hướng ngôn ngữ học tri nhận, luận văn cao học của Nguyễn Thị Thanh Huyền (Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn năm 2009) với đề tài “ Ẩn dụ tri nhận - Mô hình ẩn dụ cấu trúc trên cứ liệu ca từ Trịnh Công Sơn” cũng đã
  10. vận dụng ẩn dụ cấu trúc- một trong ba loại ẩn dụ tri nhận cơ bản vào việc nghiên cứu ca từ Trịnh Công Sơn. Luận văn này triển khai hai mô hình ý niệm “ĐỜI NGƯỜI LÀ ĐÓA HOA VÔ THƯỜNG” và “ CUỘC ĐỜI LÀ CÕI ĐI VỀ” dựa trên ý nghĩa của hai bài hát “Đóa hoa vô thường” và “Một cõi đi về” của Trịnh Công Sơn. …Tuy mỗi công trình nghiên cứu trên cũng không tránh khỏi những thiếu sót nhưng đã mở ra cho luận văn những cơ sở để nghiên cứu ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn của ẩn dụ tri nhận. Đây là nguồn tư liệu đáng quý, giúp ích rất nhiều cho việc tìm hiểu, học hỏi, rút kinh nghiệm từ cơ sở lí thuyết, nguồn ngữ liệu cho đến cách vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học vào nghiên cứu ca từ Trịnh Công Sơn…Ngoài ra, những hiểu biết và nhận xét xác đáng của những người đã nghiên cứu về ca từ, về cuộc đời của Trịnh Công Sơn cũng là cơ sở quan trọng và bổ ích để luận văn triển khai đề tài này. 0.3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu Để thực hiện mục đích của đề tài, luận văn hướng vào đối tượng, nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu cơ sở lí thuyết của đề tài; - Điều tra, phân tích nguồn ngữ liệu theo hướng ẩn dụ tri nhận phục vụ cho mục đích nghiên cứu; - Hình thành các quan hệ so sánh, đối chiếu để làm rõ bản chất của vấn đề nghiên cứu. Nói đến nhạc Trịnh Công Sơn, người ta thường nhắc đến ba mảng đề tài là: tình yêu, cuộc đời và thân phận con người. Đến với đề tài này, luận văn chỉ giới hạn vấn đề nghiên cứu ở hai mảng : vấn đề tình yêu và cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn. Về phạm vi nguồn ngữ liệu chính, đã có những con số khác nhau về số lượng ca khúc của Trịnh Công Sơn, luận văn tiến hành khảo sát 243 ca khúc mới được công bố trên trang http://www.tcs-home.Org.vn U T 4 4T U 0.4. Phương pháp nghiên cứu 0. 4. 1. Phương pháp thống kê và phân loại Luận văn thống kê các lời của bài ca dựa trên các nguồn tài liệu tham khảo đã nêu theo hướng nghiên cứu của đề tài. Sau khi thống kê, luận văn tiến hành phân loại theo vấn đề cũng như phân loại các ý niệm trong ca từ đã sưu tầm được. Kết quả thống kê là cơ sở thực
  11. tiễn để phân tích và trở thành cứ liệu khoa học có tính xác thực, thuyết phục và minh chứng cho các lập luận của đề tài. 0.4.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp Các phương pháp này được luận văn sử dụng trong quá trình khảo sát các từ ngữ, câu văn trong toàn bộ các ca khúc theo hướng tri nhận phục vụ cho mục đích của đề tài. Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích các nhân tố tác động đến việc hình thành ý niệm trong ca từ Trịnh Công Sơn: hoàn cảnh xã hội, tâm lí và tư duy của người sáng tác. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát vấn đề, từ đó có thể rút ra những nhận định, những mô hình ý niệm hóa có căn cứ dựa trên cứ liệu khoa học thực tế. Việc kết hợp các phương pháp này giúp xử lí các vấn đề tốt hơn, toàn diện hơn. Đây có thể xem là phương pháp chủ đạo để thực hiện đề tài. 0.4.3. Phương pháp miêu tả Phương pháp miêu tả được luận văn vận dụng vào để miêu tả cấu tạo của những kết hợp đặc biệt tạo nên những ý niệm về tình yêu và cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn. Đồng thời, phương pháp này còn được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích và tổng hợp để xác định, miêu tả miền nguồn và miền đích trong các sơ đồ ý niệm. Đây là phương pháp quan trọng để xác định, giải thích các miền ý niệm trong việc triển khai đề tài. 0.4.4. Phương pháp so sánh Phương pháp này được dùng để so sánh trong hệ thống và ngoài hệ thống. Vận dụng so sánh trong hệ thống để đối chiếu các ý niệm của Trịnh Công Sơn về tình yêu, đời người ở những tác phẩm khác nhau và giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của ông giúp cho các phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp ngữ liệu được chính xác hơn, hiệu quả hơn. Vận dụng so sánh ngoài hệ thống để đối chiếu những ý niệm khác nhau của cùng một vấn đề giữa Trịnh Công Sơn với những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ khác với tư duy chung của con người giúp tìm ra những nét tương đồng và khác biệt về quan niệm,về tư duy giữa Trịnh Công Sơn và cá nhân, tập thể khác trước cùng một đối tượng, từ đó luận văn tìm ra đặc trưng bản chất trong sự tri nhận của Trịnh Công Sơn thông qua ca từ của ông. Phương pháp so sánh hỗ trợ đắc lực cho công việc khảo sát ngữ liệu của đề tài ở diện rộng. 0.5. Ý nghĩa của đề tài 0.5.1.Về mặt lí luận
  12. Luận văn góp một phần trong việc chứng minh tính hiệu quả của lí thuyết tri nhận trong việc phân tích ngôn từ - một hướng nghiên cứu mới của ngôn ngữ học. 0.5.2.Về mặt thực tiễn Luận văn vận dụng lí thuyết ẩn dụ tri nhận vào việc nghiên cứu những tác phẩm âm nhạc cụ thể của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, từ đó đưa ra những nhận định về thế giới quan, nhân sinh quan của người nghệ sĩ tài năng này. Trên cơ sở đó, có thể xem ẩn dụ tri nhận như là một công cụ để áp dụng vào phân tích các tác phẩm văn học nghệ thuật để tìm hiểu chiều sâu của tác phẩm. 0.6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương một: Cơ sở lí thuyết Trong chương một, luận văn trình bày cơ sở lí thuyết của đề tài, bao gồm những vấn đề liên qua đến ngôn ngữ học tri nhận và ẩn dụ tri nhận như: thế nào là ngôn ngữ học tri nhận, khái niệm ẩn dụ tri nhận, phân loại ẩn dụ tri nhận và những khái niệm liên quan đến ẩn dụ tri nhận… Chương hai: Ẩn dụ ý niệm về cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn. Trong chương hai, luận văn trình bày những ý niệm về cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn: cuộc đời là cuộc hành trình, cuộc đời là vật thể, cuộc đời là con người, cuộc đời là cõi tạm. Chương ba: Ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn Trong chương ba, luận văn trình bày những ý niệm về tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn: tình yêu là vật thể, tình yêu là con người, tình yêu là cuộc hành trình, tình yêu là hư vô, tình yêu là sự chuyển động của các mùa trong năm.
  13. Chương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1 Vấn đề về ngôn ngữ học tri nhận 1.1.1.Thế nào là Ngôn ngữ học tri nhận? Tri nhận (cognition) là tất cả những quá trình tiếp nhận, cải biến và lưu trữ dữ liệu trong trí nhớ con người dưới dạng những biểu tượng tinh thần (mental representation). Nó cũng được coi như là cách xử lý thông tin dưới dạng những ký hiệu, cải biến nó từ dạng này sang dạng khác. Hoạt động tri nhận (cognitive activity) là hoạt động tư duy dẫn đến việc thông hiểu một nội dung nào đó. Vậy ngôn ngữ học tri nhận là gì? Thời gian xuất hiện của ngôn ngữ học tri nhận thường được tính từ năm 1989 sau quyết định thành lập Hội ngôn ngữ học tri nhận tại Đức. Vậy là tính đến nay, ngôn ngữ học tri nhận có tuổi đời chỉ mới trên 20 năm. Nghiên cứu ngôn ngữ học dưới góc độ tri nhận có nghĩa là đặt ngôn ngữ trong chức năng làm công cụ tư duy của con người. Tuy mới xuất hiện nhưng hướng nghiên cứu mới của ngôn ngữ học tri nhận sớm được nhiều người ủng hộ. Ở Việt Nam, nhiều nhà Việt ngữ học cũng đã tiếp cận ngôn ngữ theo hướng tri nhận, có thể kể đến là : Lí Toàn Thắng, Trần Văn Cơ, Nguyễn Lai, Nguyễn Đức Tồn, Hữu Đạt, Nguyễn Hòa, Diệp Quang Ban…Trong đó, người đầu tiên bàn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tri nhận là Lí Toàn Thắng trong một bài báo năm 1994. Tiếp đó, ông đã có một công trình nghiên cứu khá đầy đủ và sâu sắc về ngôn ngữ học tri nhận năm 2005- cuốn sách “Ngôn ngữ học tri nhận, từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt”. Cuốn sách này tiếp tục được tái bản vào năm 2008 có sửa chữa và bổ sung thêm “Phần phụ lục” gồm 7 bài ở cuối cuốn sách nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận. Trên cơ sở những tư tưởng về ngôn ngữ học tri nhận của cuốn sách được tái bản này của tác giả Lý Toàn Thắng, luận văn xin được tiếp nhận khái niệm ngôn ngữ học tri nhận như sau: “Ngôn ngữ học tri nhận là một trường phái mới của ngôn ngữ học hiện đại, tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự tri giác của con người về thế giới khách quan cũng như cái cách thức mà con người ý niệm hóa và phạm trù hóa các sự vật và sự tình của thế giới khách quan đó” (28, tr.13)
  14. Sự ra đời của ngôn ngữ học tri nhận được khởi nguồn từ trường phái ngữ pháp tạo sinh do Chomsky khởi xướng. Trường phái này đã kêu gọi ngôn ngữ phải trở thành một bộ phận của tâm lí học tri nhận, phải coi ngôn ngữ là một hệ thống tri nhận và mục tiêu đối tượng của ngôn ngữ là tìm hiểu cái cơ chế phổ quát của ngôn ngữ tiềm ẩn trong trí não con người. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cũng lấy mục đích là nhận thức bản chất của ngôn ngữ con người nhưng đi vào phân tích chiều sâu của cấu trúc ngôn ngữ với những dữ kiện quan sát trực tiếp được và cả những dữ kiện không quan sát trực tiếp được như trí tuệ, tri thức, kinh nghiệm . Điều này khác với ngữ pháp cải biến tạo sinh chủ trương đi vào chiều sâu của cấu trúc ngôn ngữ chỉ trên cơ sở những dữ kiện ngôn ngữ có thể quan sát trực tiếp được và hình thức hóa chúng đến độ lí tưởng gần giống như những công thức toán học. Như vậy, với tuổi đời và cơ sở xuất hiện, có thể khẳng định ngôn ngữ học tri nhận còn non trẻ và nó chỉ là một trường phái ngôn ngữ (như ngữ pháp tạo sinh) chứ không phải là một phân ngành của ngôn ngữ học (như ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học nhân học, ngôn ngữ học tâm lí…). Ngôn ngữ học tri nhận, cũng như các khuynh hướng khoa học tri nhận khác có mục tiêu chung là nghiên cứu việc thực hiện các quá trình lĩnh hội, xử lí và cải biến các tri thức vốn quyết định bản chất của trí não con người. Điều này đồng nghĩa với việc nghiên cứu ngôn ngữ theo hướng tri nhận không còn là nghiên cứu ngôn ngữ trong hệ thống ngôn ngữ, nghiên cứu mối quan hệ giữa các đơn vị ngôn ngữ như ngôn ngữ học phi tri nhận nói đến mà ngôn ngữ ở đây được đặt trong mối quan hệ với khả năng tri nhận của con người, tức là liên quan đến thông tin, tri thức, ý niệm - những vấn đề phải xuất phát từ sự tri giác, từ kinh nghiệm của con người. Hơn thế nữa, nghiên cứu ngôn ngữ từ góc độ tri nhận, chúng ta phải chú ý đến sự khác nhau về “cái nhìn thế giới” hay cách tri nhận về thế giới được thể hiện bằng những biểu thức ngôn ngữ của các dân tộc nói tiếng khác nhau. Ý nghĩa của ngôn ngữ không hạn chế trong nội bộ hệ thống ngôn ngữ mà nó có nguồn gốc sâu xa từ kinh nghiệm được hình thành trong quá trình con người và thế giới tương tác với nhau và từ tri thức và hệ thống niềm tin của con người. Như vậy, sự tri giác,vốn kinh nghiệm và cái cách mỗi con người, mỗi dân tộc nhìn nhận về thế giới khách quan- tài liệu của sự nhận thức - là cơ sở để ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu các hiện tượng ngôn ngữ. Vì thế, với ngôn ngữ học tri nhận, mọi biểu hiện của tri thức ngôn ngữ được nghiên cứu không còn đóng kín trong hệ thống ngôn ngữ mà là vấn đề tìm hiểu cơ chế phổ quát của ngôn ngữ tiềm ẩn trong trí não của con người.
  15. 1.1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận Trong công trình “Ngôn ngữ học tri nhận, từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt”, Lý Toàn Thắng đã xác định đối tượng của ngôn ngữ học tri nhận: “Đối tượng cụ thể của ngôn ngữ học tri nhận là ngôn ngữ trong tư cách là một trong những khả năng tri nhận và một trong những cấu trúc tri nhận của con người (cùng với tri giác, tư duy, kí ức, hành động)”. (28, tr.45). Ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu ngôn ngữ như những dạng thức tương tự khác trong bộ máy tri nhận và hoạt động tri nhận của con người như : tri giác, học tập, kí ức, tư duy…Có nghĩa là, ngôn ngữ dưới góc độ tri nhận phải được nghiên cứu như một thuộc tính hai mặt: vừa là một hệ thống ký hiệu đóng vai trò quan trọng trong sự biểu hiện (mã hóa) và trong sự cải biến các thông tin trong tư cách là công cụ tri nhận, vừa được biểu hiện như là một đối tượng độc lập với con người trong quan hệ giữa mặt lịch sử và chức năng giao tiếp. Với cách tiếp cận này, các hình thức ngôn ngữ (các đơn vị, các phạm trù…) phải được nghiên cứu trong mối tương liên của chúng với các cấu trúc tri nhận và sự giải thích mang tính tri nhận trong mối quan hệ giữa các hình thức ngôn ngữ với các quá trình tri nhận và tất cả các dạng hoạt động thông tin. Vì thế, trọng tâm nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận là ý thức trong cách hiểu ý thức là nơi tập trung tất cả vốn kinh nghiệm tinh thần mà một con người tích lũy được và phản ánh chúng dưới dạng những ý niệm. Vì vậy, khác với ngôn ngữ học truyền thống, phi tri nhận luận, ở bình diện ngữ nghĩa nó coi ý nghĩa là đối tượng nghiên cứu quan trọng nhất của mình, thì đối với ngôn ngữ học tri nhận đó là ý niệm (tiếng Anh:concept) là kết quả của quá trình tư duy, quá trình phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người và đồng thời là sản phẩm của hoạt động tri nhận, là cái chứa đựng tri thức hay sự hiểu biết của con người về thế giới trên cơ sở kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Trong khi nghiên cứu về ý niệm, ngôn ngữ học tri nhận luôn quan tâm đến một quy luật là cái thế giới khách quan bên ngoài khi đi vào cái “sàng lọc” não bộ của những con người khác nhau, đặc biệt là khác nhau về không gian sinh sống, về ngôn ngữ nó sẽ cho ra những sản phẩm là các ý niệm không còn mang tính khách quan toàn diện, đầy đủ như nó vốn có trong hiện thực mà nó đã được lĩnh hội, xử lý, cải biến. Mục đích của ngôn ngữ học tri nhận là nghiên cứu một cách bao quát và toàn diện cái khả năng tri nhận của ngôn ngữ, nghiên cứu việc thực hiện các quá trình lĩnh hội, xử lý và cải biến các tri thức vốn quyết định bản chất của trí não con người. Nói cách khác, con người- chủ thể của ngôn ngữ được ngôn ngữ
  16. học tri nhận tiếp cận như một hệ thống xử lý các thông tin mà ở đó các tri thức ngôn ngữ được hình thành từ ý niệm-kết quả của quá trình xử lý, cải biến của hệ thống não bộ của con người dưới tác động của các yếu tố tâm lí, văn hóa. Vì vậy, các tri thức ngôn ngữ ấy luôn gắn liền với sự tri nhận vừa mang tính nhân loại vừa mang tính đặc thù dân tộc. 1.2Ẩn dụ tri nhận 1.2.1. Khái niệm ẩn dụ tri nhận Từ thời Aristotle, các nhà nghiên cứu đã bàn đến ẩn dụ nhưng chỉ trong phạm vi của ngôn ngữ học. Gần đây, với sự xuất hiện của ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ được đề cập đến không chỉ là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là vấn đề của tư duy. Từ đây, ẩn dụ trở thành một trong các bộ phận quan trọng của lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận. Trước khi thuật ngữ ẩn dụ tri nhận xuất hiện với đầy đủ những đặc trưng bản chất của nó, nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã đặt ẩn dụ trong mối quan hệ với tư duy và cho rằng ẩn dụ là một quĩ tích của những suy nghĩ chứ không phải của ngôn ngữ. Vậy là với cách tiếp cận này, các nhà ngôn ngữ học đã đưa ẩn dụ từ trong lí thuyết ngôn ngữ học cổ điển, được coi là một vấn đề chỉ thuộc về ngôn ngữ sang một ngoại vi mới thuộc vấn đề của tư duy trong thuyết ẩn dụ hiện đại. Tiếp thu những thành tựu của các nhà ngôn ngữ học đi trước, Lakoff và Johnson đã phát triển những tư tưởng mới về ẩn dụ thành lí thuyết ẩn dụ tri nhận và được trình bày trong công trình “Metaphor we live by”(1980). Lakoff và Johnson (1980) cho rằng: “hệ thống ý niệm đời thường của chúng ta, mà trong khuôn khổ của những điều chúng ta suy nghĩ và hành động, về bản chất là ẩn dụ”. Chúng ta không chỉ dùng các ẩn dụ được quy ước hóa và từ vựng hoá và nhất là những ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphor) một cách thuần tuý ngôn ngữ học mà sự thực là chúng ta chỉ suy nghĩ hay ý niệm hoá phạm trù “ĐÍCH” thông qua phạm trù “NGUỒN”. Như vậy, từ chỗ lối nói ẩn dụ được cho là không chỉ trong ngôn ngữ thông tục hàng ngày và ngôn ngữ hằng ngày không có ẩn dụ đã bị phủ nhận mà thay vào đó là một quan điểm mới về phạm vi hoạt động của ẩn dụ. Và chỗ của ẩn dụ không hề là ở trong ngôn ngữ mà là ở trong cái cách chúng ta khái quát hóa một hiện tượng tinh thần này bằng một hiện tượng tinh thần khác. Lí thuyết chung của ẩn dụ nằm trong những đặc điểm của sự xác lập khái quát có tính liên tưởng. Trong quá trình đó, những khái niệm trừu tượng hàng ngày như thời gian, trạng thái, nguyên nhân, kết quả hoặc mục đích ... đều trở nên có
  17. tính ẩn dụ. Hệ quả là ẩn dụ (tức là khái quát có tính liên tưởng) chính là tâm điểm tuyệt đối của ngữ nghĩa học trong ngôn ngữ thông tục tự nhiên, và việc nghiên cứu ẩn dụ văn học là một sự mở rộng của việc nghiên cứu ẩn dụ trong ngôn ngữ hàng ngày. Phép ẩn dụ được dùng đến hàng ngày (trong ngôn ngữ thường nhật) là một hệ thống khổng lồ gồm vô số những khái quát liên tưởng, và hệ thống này được sử dụng trong ẩn dụ văn học. Nhờ những kết quả thực chứng này, chữ ẩn dụ được dùng theo một cách khác trong những nghiên cứu về ẩn dụ hiện thời. chữ ẩn dụ lúc này có nghĩa là một khái quát có tính liên tưởng trong hệ thống khái niệm. Khái niệm sự diễn đạt có tính ẩn dụ được dùng để chỉ một biểu đạt ngôn ngữ (một chữ, một cụm từ, hoặc một câu) thực hiện được sự khái quát có tính liên tưởng. Với những tư tưởng chủ đạo này, Lakoff và Johnson được xem là người đặt cái mốc quan trọng cho sự phát triển của lí thuyết ẩn dụ trong ngôn ngữ học tri nhận. Ẩn dụ ý niệm ấn định mối quan hệ giữa những cặp tái hiện về mặt tinh thần (mental representations) , lí thuyết ẩn dụ ý niệm cho rằng ẩn dụ là hiện tượng được định hướng nghiêm ngặt. Ngoài ra, những ẩn dụ ý niệm tập trung phân tích mối quan hệ ý niệm nội tại (entrenched conceptual relationships) và cách chúng được gọt giũa, lựa chọn. Theo thời gian, ẩn dụ tri nhận được tiếp cận nghiên cứu ngày càng phổ biến và sâu sắc, cụ thể hơn trên phạm vi toàn thế giới. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, các nhà Việt ngữ học cũng đã đón nhận lí thuyết ngôn ngữ mới này và đã xuất hiện nhiều công trình, bài viết nghiên cứu những vấn đề về ngôn ngữ học tri nhận nói chung và vấn đề về ẩn dụ tri nhận nói riêng như: Lí Toàn Thắng trong công trình “Ngôn ngữ học tri nhận,từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt” đã trình bày những vấn đề cơ sở của ngôn ngữ học tri nhận và nghiên cứu những vấn đề liên quan đến ẩn dụ tri nhận như bài viết “Nghiên cứu trường hợp các ý niệm ra, qua, trên, dưới và bình diện nghĩa biểu hiện”, “Ngữ nghĩa của từ “cây” và sự phân loại dân dã thực vật ở người Việt”,[28]….Nguyễn Đức Dân nghiên cứu về “Những giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn dụ”, về “Tri nhận thời gian trong tiếng Việt” [4,tr.1-16]; Trần Văn Cơ với công trình “Khảo luận ẩn dụ tri nhận”đã bàn nhiều về bản chất, về các khái niệm của ẩn dụ dưới góc độ tri nhận luận và áp dụng vào nghiên cứu thơ ca trong bài viết “Nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận”[2, tr.26-42]; Nguyễn Đức Tồn bàn về “Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ tri nhận trong thành ngữ” [35, tr.20-27]; Nguyễn Lai đề cập đến vấn đề ẩn dụ ý niệm trong thơ ca qua bài viết “Suy nghĩ về ẩn dụ khái niệm trong thế giới thơ ca từ góc nhìn của ngôn
  18. ngữ học tri nhận”[15, tr.1-11]…. Và nhiều công trình, bài viết khác liên quan đến ẩn dụ tri nhận từ những vấn đề mang tính lí luận khái quát cho đến những vấn đề ứng dụng cụ thể. Đáng chú ý là những tư tưởng về ẩn dụ tri nhận của Lí Toàn Thắng trên cơ sở tiếp thu những quan điểm của các học giả nước ngoài “Từ góc nhìn tri nhận luận, ẩn dụ ý niệm là sự “chuyển di” hay một sự “đồ họa” cấu trúc và các quan hệ nội tại của một lĩnh vực hay mô hình tri nhận nguồn sang một lĩnh vực hay mô hình tri nhận đích…”[28] Bản thân thuật ngữ ẩn dụ ý niệm bao hàm rằng ẩn dụ nằm ngay ở tư duy của con người và biểu hiện lên bề mặt ngôn ngữ. Tư duy và sau đó là ngôn ngữ về cơ bản là các quá trình ẩn dụ gắn liền với kinh nghiệm cá nhân về các nền văn hóa. Một số lí thuyết thỏa đáng về hệ thống ý niệm của con người là phải giải thích được các ý niệm: (1) căn cứ vào đâu, (2) cấu trúc như thế nào, (3) có quan hệ với nhau như thế nào, và (4) được định nghĩa như thế nào. Chẳng hạn, cái tạo nên một mệnh đề ẩn dụ “TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH” không phải là các từ hay cụm từ cụ thể. Đó là một sự đồ chiếu xuyên suốt các phạm vi ý niệm, từ phạm vi nguồn của cuộc hành trình cho tới phạm vi đích của tình yêu. Ẩn dụ không phải chỉ là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là của tư duy và lí luận. Ngôn ngữ chỉ là thứ yếu, đồ chiếu mới chính là quan yếu vì nó chi phối việc sử dụng ngôn ngữ vùng nguồn và các cấu trúc suy ra về các khái niệm vùng đích. Đồ chiếu (đồ họa) mang tính chất quy ước, là một phần của hệ thống ý niệm của chúng ta. Nhờ vào việc “đồ họa” mà chúng ta có thể ý niệm hóa cái trừu tượng thành cái cụ thể. Nhờ đó cái trừu tượng trở nên rõ ràng dễ nắm bắt. Vì thế mà một khái niệm trừu tượng như tình yêu đã có thể được hình dung đầy đủ cả về hình thái và bản chất của nó bằng cuộc hành trình. Như vậy, chỗ của ẩn dụ không hề là ở trong ngôn ngữ mà là ở trong cái cách chúng ta khái quát hóa một hiện tượng tinh thần này bằng một hiện tượng tinh thần khác. Lí thuyết chung của ẩn dụ nằm trong những đặc điểm của sự xác lập khái quát có tính liên tưởng. Trong quá trình đó, chúng ta phải dựa vào những kinh nghiệm của mình về những con người, những sự vật và hiện tượng cụ thể thường nhật để ý niệm hóa các phạm trù trừu tượng. Vì thế, hầu hết ý niệm của con người được định hình và hiểu được chỉ trong khung ý niệm có được qua trải nghiệm của con người trong một nền văn hóa cụ thể. Hay nói cách khác là bản chất của ẩn dụ tri nhận có tính nghiệm thân. Vì vậy khi nghiên cứu ẩn dụ tri nhận trong một sáng tác nghệ thuật bằng ngôn từ của một người nào đó, chúng ta phải quan tâm
  19. đến những trải nghiệm của họ trước cuộc đời rộng lớn này bên cạnh những gì họ đã tiếp thu được từ nền văn hóa của không gian mà họ đã và đang sống. 1.2.2. Đặc điểm của ẩn dụ ý niệm Ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa phổ biến trong tất cả các ngôn ngữ. Đó là phép sử dụng từ ngữ ở nghĩa chuyển dựa trên cơ sở tương đồng giữa một thuộc tính nào đó của cái dùng để nói và cái muốn nói. Nói cách khác, ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi giữa hai sự vật có quan hệ tương đồng. Vì thế, ẩn dụ không chỉ là biện pháp làm giàu từ vựng mà còn làm cho nghĩa từ ngày càng đa dạng, tinh tế. Trong quan niệm truyền thống, ẩn dụ bao giờ cũng mang tính quy ước do được tạo thành trong một cộng đồng văn hóa-ngôn ngữ và được từ vựng hóa trong các hình thức từ ngữ. Các nhà phong cách học thường nói đến ẩn dụ như là một sự so sánh ngầm, tức là so sánh chỉ có một vế. Theo lí thuyết tín hiệu của F.de. Sausure thì mỗi tín hiệu ngôn ngữ bao giờ cũng có hai mặt: mặt âm thanh được gọi là cái biểu đạt và mặt ý nghĩa gọi là cái được biểu đạt. Hai mặt này gắn bó khăng khít với nhau như hai mặt của một tờ giấy. Nếu xem từ là một tín hiệu thì từ một tín hiệu đã có này muốn tạo ra một ẩn dụ người ta phải thiết lập thêm một cái được biểu đạt mới trên cơ sở của mối quan hệ vừa nêu. Trong thực tiễn hoạt động ngôn ngữ, khi tiến hành so sánh theo phương thức ẩn dụ, người viết chỉ nêu ra một vế còn ẩn đi một vế để người khác tự hiểu trên cơ sở liên tưởng dựa trên mối quan hệ giữa sự vật được nêu ra với cái ý nghĩa biểu trưng của nó như là một sự quy ước sẵn có. Với ẩn dụ tri nhận và ẩn dụ tu từ thì cả người sử dụng ngôn ngữ và người tiếp nhận văn bản cũng sử dụng sự liên tưởng nhưng với một thao tác tư duy trừu tượng hơn. Ở đó, sự liên tưởng là đường dây kết nối giữa cái vỏ vật chất âm thanh của ngôn ngữ với các sự vật, hiện tượng vô cùng vô tận của thế giới xung quanh. Tuy nhiên, khác với ẩn dụ tu từ, ẩn dụ ý niệm (hay ẩn dụ tri nhận) ngoài chức năng quy ước hóa, từ vựng hóa còn có chức năng ý niệm hóa, thể hiện cách tư duy, tri nhận về sự vật của người bản ngữ theo những phương thức nhất định. Bản thân thuật ngữ ẩn dụ ý niệm đã bao hàm rằng ẩn dụ nằm ngay ở tư duy của con người và biểu hiện lên bề mặt ngôn ngữ. Tư duy, sau đó là ngôn ngữ về cơ bản là các quá trình ẩn dụ gắn liền với kinh nghiệm cá nhân và các nền văn hóa. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cũng đã bàn luận nhiều đến quan hệ chiều sâu giữa tư duy trừu tượng hình thành trong ý thức con người và những điều mà họ quan sát được về thế giới xung quanh như: khoảng cách không gian, thời gian vật lý, quá trình vận động của các vật thể…được nhận thức và mô thức hóa thành các lược đồ và thể hiện dưới hình thức của các
  20. biểu thức ngôn ngữ theo thói quen về tâm lí, văn hóa của mỗi dân tộc cụ thể. Như vậy, có thể coi ẩn dụ tri nhận là con đường ý niệm hóa về sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan thông qua các từ, ngữ. Bởi thế, ẩn dụ tri nhận là một trong những hình thức ý niệm hóa, một quá trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành những ý niệm mới và nó chính là cơ sở để tri nhận những tri thức mới. Xét trong mối quan hệ với ẩn dụ ngôn từ, ẩn dụ ý niệm là những ý niệm trừu tượng trong khi đó ẩn dụ ngôn từ chỉ là những từ ngữ thể hiện các ý niệm mà thôi. Cho nên, khác với cách hiểu trong văn học truyền thống và trong tu từ học, theo thuyết này, ẩn dụ không chỉ được hiểu đơn thuần là loại cấu trúc " so sánh gồm có một vế" hay là "so sánh ngầm" ... mà chúng được hiểu như một cách thức tri nhận thế giới thông qua cách biểu đạt của tư duy lô gích được định hình trong ý thức của mỗi cộng đồng ngôn ngữ nhất định. Chẳng hạn, từ cơ sở thực tế là con người và đa số các loài động vật đều trong tư thế nằm khi ngủ và đứng thẳng khi thức nên xuất hiện ý niệm “Ý THỨC HƯỚNG LÊN, VÔ THỨC HƯỚNG XUỐNG”.Theo đó, ẩn dụ cơ bản là ý niệm được thể hiện chứ không phải là ngôn ngữ thể hiện. Ẩn dụ ý niệm là các ánh xạ có tính chất hệ thống giữa hai miền ý niệm: miền nguồn là một phạm trù trải nghiệm được ánh xạ hay phóng chiếu (đồ họa) vào miền đích, một phạm trù trải nghiệm khác. Như vậy, ẩn dụ không còn là vấn đề ngôn ngữ mà cơ bản là vấn đề tư tưởng và nhận thức. Cách nhìn ẩn dụ theo quan điểm này hoàn toàn khác với quan điểm cho rằng ẩn dụ chỉ là biểu hiện với thuộc tính ngôn ngữ, nghĩa là ngôn từ và vì thế mỗi từ ngữ riêng biệt phải có một ẩn dụ riêng biệt. Còn với ẩn dụ tri nhận, những từ ngữ ẩn dụ được con người sử dụng còn mang tính hệ thống, bởi vì các ý niệm về ẩn dụ đều mang tính hệ thống. Đến đây, chúng ta lại thấy một hệ luận nữa là các ẩn dụ ngôn từ gắn chặt với các ẩn dụ ý niệm một cách hệ thống. Hay nói một cách khác là mỗi ẩn dụ ý niệm bao hàm và chi phối một hệ thống các ẩn dụ ngôn từ. Ngoài ra, các ẩn dụ ý niệm cũng liên quan với nhau theo một hệ thống để tạo thành một cấu trúc tôn ti trong hệ thống, nhờ đó ẩn dụ tri nhận sẽ giúp con người hiểu sâu sắc hơn các tầng bậc ngôn ngữ cũng như chính bản thân mình. Lakoff và Jonhson trong công trình “Metaphors we live by” đã khái quát các đặc điểm cơ bản của ẩn dụ dưới góc nhìn tri nhận như sau: Thứ nhất, ẩn dụ chủ yếu thuộc về lĩnh vực tư duy và hành động và chỉ phát sinh trên lĩnh vực ngôn ngữ; Thứ hai, ẩn dụ có thể đặt cơ sở trên sự tương đồng dù trong nhiều trường hợp những tương đồng này dựa trên cơ sở các ẩn dụ thông thường mà không có cơ sở từ những
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2