intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn thạc sĩ nông nghiệp: Đánh giá năng suất, chất lượng, khả năng thích ứng của các giống cà chua lai quả nhỏ mới với điều kiện vụ thu đông và vụ xuân hè

Chia sẻ: Le Dang Hai | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:147

139
lượt xem
34
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài: tuyển chọn được các tổ hợp lai cà chua quả nhỏ có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt, năng suất, chất lượng cao, có khả năng chống chịu sâu bệnh để giới thiệu cho thử nghiệm sản xuất ở vụ thu đông và vụ xuân hè.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn thạc sĩ nông nghiệp: Đánh giá năng suất, chất lượng, khả năng thích ứng của các giống cà chua lai quả nhỏ mới với điều kiện vụ thu đông và vụ xuân hè

  1. 1. MỞ ĐẦU 1.1 Đặt vấn đề Cây cà chua (Lycopersicon esculentum Mill) thuộc họ cà (Solanaceae)  có nguồn gốc từ  phía Nam nước Mỹ, là loại rau phổ  biến trên thế  giới và  được nhiều người  ưa chuộng. Cà chua có giá trị  dinh dưỡng rất lớn. Quả  cà chua được sử  dụng  ở  nhiều phương thức khác nhau: có thể  dùng làm  salat, chế  biến các món ăn, làm quả  tươi  ở  các món tráng miệng, cà chua  đóng hộp nguyên quả, tương cà chua,… Là loại rau quả dễ sử dụng, cà chua đã trở thành món ăn thông dụng   của nhiều nước trên thế  giới trên 150 năm qua [Fao, 2005]. Mặt khác, cà  chua còn là một mặt hàng rau tươi có giá trị xuất khẩu vào loại lớn trên thị  trường thế  giới. Châu Á là thị  trường đứng đầu về  diện tích trồng và sản  lượng, trong đó đứng thứ nhất ở Châu Á đó là Trung Quốc. Ở Việt Nam, cây cà chua đã được trồng từ rất lâu và là cây trồng chủ  lực của ngành nông nghiệp.  Ở  nước ta việc phát triển cà chua còn có ý  nghĩa quan trọng về  mặt luân canh, tăng vụ, và tăng năng suất trên đơn vị  diện tích, do đó cà chua là loại rau được khuyến khích phát triển. Phần lớn  diện tích trồng cà chua tập trung tại các tỉnh Đồng bằng sông Hồng như Hà  Nội, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, Hưng Yên, Hà Tây, Nam Định…   Hiện nay có một số giống chịu nhiệt mới lai tạo chọn lọc có thể  trồng tại  miền Trung, Tây Nguyên và Nam bộ  nên diện tích gieo trồng ngày càng  được mở  rộng. Nhiều giống cà chua lai chất lượng tốt được phát triển  mạnh ở Đà Lạt, Lâm Đồng. Những năm gần đây, giống cà chua mini đã xuất hiện và có sức hút  đối với thị  trường người tiêu dùng. Đây là giống cà chua chất lượng cao,  1
  2. phục vụ ăn tươi là chính (salat), đặc biệt giống này phù hợp cho công nghệ  đóng hộp nguyên quả. Thịt quả  dày, mịn, chắc, khô ráo, khẩu vị  ngọt có  hương thơm, quả  cứng, chịu đựng được vận chuyển xa, bảo quản được   dài ngày. Những giống cà chua này thường bắt gặp  ở  các vùng núi cao và   ven biển miền Trung. Quả  có lượng axit cao, hạt nhiều nhưng khả  năng  chống chịu khá nên được sử dụng làm vật liệu tạo giống. Cà chua quả nhỏ  dễ trồng, trồng được nhiều vụ trong năm, sai quả với giá bán cao gấp 2 – 3  lần cà chua thông thường nên hiệu quả  đưa lại thường rất cao. Tuy nhiên  những nghiên cứu về giống cà chua quả nhỏ và số lượng mẫu giống này ở  nước  ta  chưa   nhiều,  trên  thị  trường   có  một  số   ít  các  giống  như:  VR2,  TN061, giống lai F1 TN040, giống lai F1 thúy hồng 1657, giống lai F1   HT144… Với mục tiêu đa dạng hoá sản phẩm, đáp  ứng được nhu cầu và thị  hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng, phục vụ ăn tươi và chế  biến, bổ  sung thêm vào nguồn giống cà chua trong nước những giống cà chua cho   năng suất cao, chất lượng tốt, có khả  năng chống chịu với các điều kiện  bất thuận của môi trường, tiếp tục hướng nghiên cứu của các đề  tài đi   trước, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:   “Đánh giá năng suất, chất lượng, khả  năng thích  ứng của các   giống cà chua lai quả nhỏ mới với điều kiện vụ Thu Đông và vụ  Xuân   Hè” 1.2 Mục đích – Yêu cầu của đề tài 1.2.1 Mục đích của đề tài Tuyển chọn được các tổ  hợp lai cà chua quả  nhỏ  có khả  năng sinh   trưởng, phát triển tốt, năng suất, chất lượng cao, có khả  năng chống chịu  sâu bệnh để  giới thiệu cho thử  nghiệm sản xuất  ở  vụ  Thu  Đông và vụ  2
  3. Xuân Hè. 1.2.2 Yêu cầu của đề tài ­ Đánh giá khả  năng sinh trưởng và một số  đặc điểm hình thái, cấu   trúc cây của các tổ  hợp lai cà chua nhỏ  trồng trong vụ  Thu Đông và vụ  Xuân Hè. ­ Đánh giá khả  năng ra hoa, đậu quả, các yếu tố  cấu thành năng  suất và năng suất của các tổ  hợp lai cà chua nhỏ  trồng trong vụ  Thu   Đông và vụ Xuân Hè. ­ Đánh giá một số đặc điểm hình thái quả và một số chỉ tiêu về chất  lượng quả của các tổ hợp lai cà chua quả nhỏ trồng trong vụ Thu Đông và  vụ Xuân Hè. ­ Đánh giá khả  năng chống chịu của các tổ  hợp lai với điều kiện   nhiệt độ cao của môi trường thông qua khả năng ra hoa, đậu quả trong vụ  Thu Đông và vụ Xuân Hè. ­ Đánh giá tình hình nhiễm bệnh virus trên đồng ruộng theo các triệu   chứng quan sát trên cây qua các lần theo dõi trong vụ Thu Đông và vụ Xuân  Hè. 3
  4. 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 2.1 Nguồn gốc, phân loại, giá trị của cây cà chua 2.1.1 Nguồn gốc, phân bố của cây cà chua Cà   chua   có   nguồn   gốc   từ   Nam   Mỹ,   dọc   theo   bờ   biển   Thái   Bình  Dương, từ quần đảo galapagos tới Chi Lê (Nguyễn Văn Hiển, 2000)[18].  Dấu vết di truyền  ở  cà chua cho thấy nguồn gốc của cà chua là cây  thân thảo xanh nhỏ, với sự đa dạng về loài ở cao nguyên của peru. Các nhà   nghiên cứu có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của cây cà chua trồng.  Tuy nhiên nhiều tác giả  khác nhận định  L.esculentum var. cerasiforme  (cà  chua anh đào) là tổ  tiên của loài cà chua trồng. Theo các nghiên cứu của  jenkins (1948), có thể  dạng này được chuyển từ  peru và ecuado tới nam  mehico [18].  Lịch sử  phát triển và du nhập cà chua vào các nước và khu vực trên  thế  giới là khác nhau. Nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng nhà thám hiểm  Tây Ban Nha, cortez, có thể  đã là người đầu tiên vận chuyển cà chua quả  nhỏ  màu vàng đến Châu Âu, sau khi ông bị  bắt  ở  thành phố  Aztec của  Tenochititlan vào năm 1521 (thuộc thành phố MeHiCo ngày nay).  Năm 1544, Andrea Mattioli nhà dược liệu học người Italia mới đưa   ra những dẫn chứng xác đáng về sự tồn tại của cây cà chua trên thế giới và  được ông gọi là "pomidoro", sau đó được chuyển vào tiếng Italia với cái tên  "tomato". Người Pháp gọi cà chua là "pommedamour" (quả táo tình yêu). Ở  Anh, phải đến đầu những năm thập niên 1590, quả cà chua mới được công  nhận là không có độc dược Ở Trung Đông, cà chua được giới thiệu bởi John barker, lãnh sự Anh  4
  5. tại Aleppo vào giai đoạn từ  1799 đến 1825.  Ở  Bắc Mỹ, cà chua được du  nhập vào từ  năm 1710. Chúng được trồng và phát triển mạnh  ở  California  và Florida. Trường Đại học California đã trở  thành một trung tâm lớn về  nghiên cứu cà chua sau đó. Vào thế kỷ 18, cà chua được đưa vào Châu Á nhờ các lái buôn người   Châu  Âu và  thực  dân  Hà  Lan, Bồ   Đào Nha,  Tây Ban  Nha.   Đầu  tiên  là   Philippin, đảo Java và Malaysia, sau đó đến các nước khác và trở  nên phổ  biến[51]. Cà chua du nhập vào Việt Nam từ  thời thực dân Pháp chiếm đóng,  tức là khoảng 100 năm trước đây, và được người dân thuần hóa trở  thành   cây bản địa. Từ  đó cùng với sự  phát triển của xã hội, cây cà chua đã và   đang trở thành một cây trồng có giá trị kinh tế và giá trị sử dụng cao ở Việt  Nam. Có thể nói trong rất nhiều năm cà chua đã được coi như là cây thuốc   và cây cảnh, mãi đến cuối thế kỷ 18 đầu thế  kỷ  19 cà chua mới được liệt  vào cây rau thực phẩm có giá trị và từ đó nó được phát triển mạnh. 2.1.2 Phân loại Cà  chua   thuộc   chi  Lycopersicon  Tourn,   họ   cà   (Solanaceae).   Chi  Lycopersicon  Tourn   được   phân   loại   theo   nhiều   tác   giả:   Muller   (1940),   Daskalov   và   Popov   (1941),   Luckwill   (1943),   Lehmann   (1953),   Brezhnev  (1955, 1964), Zhucopski (1964). Ở Mỹ thường dùng phân loại của Multer. Ở  Châu Âu, Liên Xô cũ thường dùng phân loại của Brezhnev. Với cách phân  loại của Brezhnev (1964) [18], chi Lycopersicon Tourn gồm 3 loài thuộc 2 chi  phụ: ­ Subgenus 1 – Eriopersicon. Chi phụ này gồm các loài dại, cây dại 1  năm hoặc nhiều năm, gồm các dạng quả  có lông, màu trắng, xanh lá cây  5
  6. hay vàng nhạt, có vệt màu atoxian hay xanh thẫm. Hạt dày không có lông,  màu nâu. Chi phụ này gồm 2 loài và các chi phụ. 1. Lycopersicon peruvianum mill 1a. L.peruvianum var.  Cheesmanii riloey và var. Cheesmanii f. minor  C. H.  Mull (L. etc. var. minor Hook) 1b. L. peruvianum var. dentantum Dun 2. Lycopersicon hirsutum humb. et. Bonpl 2a. L. hirsutum var. glabratum C. H. Mull 2b. L. hirsutum var. glandulosum C. H. Mull ­ Subgenus 2 – Eulycopersicon. Các cây dạng một năm, quả không có lông,  màu đỏ hoặc vàng, hạt mỏng, rộng… chi phụ này gồm một loài. 3. Lycopersicon esculentum Mill. Loài này gồm 3 loài phụ a)  L.esculentum  Mill. Ssp. Spontaneum  Brezh: Cà chua dại, bao gồm các  dạng sau: ­ L. esculentum var. pimpinellifolium Mill (Brezh) ­ L. esculentum var.racemigenum (Lange), (Brezh) b)  L. esculentum  Mill.  Ssp. Subspontaneum: cà chua bán hoang dại, gồm 5   dạng sau: ­ L. esculentum var. cersiforme (A Gray) Brezh: cà chua anh đào ­ L. esculentum var. pyriforme (C. H. Mull) Brezh: cà chua dạng lê ­ L. esculentum var. pruniforme Brezh: cà chua dạng mận ­ L. esculentum var. elongatum Brezh: cà chua dạng quả dài ­ L. esculentum var. succenturiatum Brezh: cà chua dạng nhiều ô hạt c) L. esculentum Mill. Ssp. Cultum: cà chua trồng, có 3 dạng sau: ­ L. esculentum var. vulgare Brezh 6
  7. ­ L. esculentum var. validum (Bailey) Brezh ­ L. esculentum var. grandiflium (Bailey) Brezh 2.1.3 Giá trị dinh dưỡng và giá trị y học Cà chua là loại rau ăn quả có giá trị dinh dưỡng rất lớn.  Trong quả cà  chua chín chứa nhiều loại chất dinh dưỡng có giá trị  cao như: các dạng   đường dễ tiêu, chủ yếu là glucoza và fructoza; các loại vitamin cơ bản cần   thiết cho con người như vitamin A, B1, B2, B6,... Mặt khác trong quả cà chua  còn chứa một hàm lượng axit như oxalic, malic, nicotinic, citric,... và nhiều  chất khoáng như  K, P, Na, Ca, Mg, S, Fe,... là những chất có trong thành   phần của máu và xương. Quả tươi còn góp phần làm tăng bề mặt tiếp xúc   giữa thức ăn và lông nhung trong ruột, qua đó giúp cho quá trình tiêu hoá,  hấp thụ thức ăn được dễ dàng.  Bảng 2.1. Thành phần hóa học của 100g cà chua Thành phần Quả chín tự nhiên Nước ép tự nhiên Nước 93,76g 93,9g Năng lượng 21kcal 17kcal Chất béo O,33g 0,06g Protein 0,85g 0,76g Carbohydrates 4,46g 4,23g Chất xơ 1,10g 0,40g Kali 223mg 220mg Phot pho 24mg 19mg Magie 11mg 11mg Can xi 5mg 9mg Vitamin C 19mg 18,30mg 7
  8. Vitamin A 623IU 556IU Vitamin E 0,38mg 0,91mg Niacin 0,628mg 0,67mg Nguồn: USDA Nutrient Data Base [73] Bên cạnh đó, cà chua còn rất có giá trị trong y học. Theo Võ Văn Chi  (1997), cà chua có vị  ngọt, tính mát, có tác dụng tạo năng lượng, tăng sức  sống, làm cân bằng tế  bào, giải nhiệt, chống hoại huyết, kháng khuẩn,  chống độc, kiềm hóa máu có dư  axit, hòa tan ure, thải ure, điều hòa bào  tiết, giúp tiêu hóa dễ  dàng các loại bột và tinh bột. Dùng ngoài để  chữa  bệnh trứng cá, mụn nhọt, viêm tấy và dùng lá để  trị  vết đốt của sâu bọ.  Chất tomarin chiết xuất từ lá cà chua khô có tác dụng kháng khuẩn, chống   nấm, diệt một số  bệnh hại cây trồng[16]. Cà chua có thể  giúp bảo vệ  những người nghiện thuốc lá khỏi nguy cơ bị bệnh phổi (các nhà khoa học   thuộc Đại học Y khoa Jutendo Nhật Bản). Đặc biệt lycopen trong quả  cà   chua có tác động mạnh đến việc giảm sự phát triển nhiều loại ung thư như  ung thư tiền liệt tuyến, ung thư ruột kết, ung thư trực tràng và nhồi máu cơ  tim,...[22]. Là một thành phần tạo nên màu đỏ của quả cà chua, lycopen còn   có tác dụng  giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Hàm lượng chất này  nhiều hay ít phụ thuộc vào độ  chín của quả  và chủng loại cà chua. Đây là  một số  chất oxi hóa tự  nhiên mạnh gấp 2 lần so với beta­caroten và gấp   100 lần so với vitamin E. Ngoài ra nếu sử  dụng nhiều cà chua thì tỉ  lệ  oxi  hóa làm hư các cấu trúc sinh hóa của ADN giảm xuống thấp nhất[2]. 2.1.4 Giá trị kinh tế Cà chua có thể dùng để  ăn tươi, nấu nướng, vừa là nguyên liệu cho   công nghiệp chế biến với các loại sản phẩm khác nhau. Do đó, đối với các  nước trên thế giới nói chung, đặc biệt là các nước nhiệt đới nói riêng, trong  8
  9. đó có Việt Nam, thì cây cà chua là một trong những cây trồng mang lại hiệu   quả kinh tế rất cao và là mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Theo fao (1999) Đài Loan hằng năm xuất khẩu cà chua tươi với tổng  trị giá là 952000 USD và 48000 USD cà chua chế biến. Lượng cà chua trao   đổi trên thị  trường thế  giới năm 1999 là 36,7 tấn trong đó cà chua được  dùng ở dạng ăn tươi chỉ 5 – 7%. Ở Mỹ (1997), tổng giá trị sản xuất 1 ha cà   chua cao hơn gấp 4 lần với lúa nước, 20 lần so với lúa mỳ[22]. Ở  Việt Nam, mặc dù cà chua mới được trồng khoảng trên 100 năm  nay nhưng nó đã trở thành một loại rau phổ biến và được sử dụng rộng rãi,  diện tích trồng hàng năm biến động từ 12 – 13 nghìn ha. Theo số liệu điều  tra của phòng nghiên cứu thị trường Viện nghiên cứu rau quả, sản xuất cà  chua   ở   Đồng  bằng  sông   Hồng  cho  thu  nhập  bình  quân   42  –  68,4  triệu  đồng/ha/vụ  với mức lãi thuần 15 – 25 triệu đồng/ha, cao gấp nhiều lần so   với trồng lúa. 2.2 Tình hình nghiên cứu và sản xuất cà chua trên thế giới 2.2.1 Tình hình sản xuất cà chua trên thế giới Bảng 2.2: Tình hình sản xuất cà chua trên thế giới Diện tích Năng suất Sản lượng Năm (1000 ha) (tấn/ha) (1000 tấn) 2000 4020,120 27,0936 108919,744 2001 4010,508 26,6721 106968,784 2002 4147,368 27,7616 115137,624 2003 4188,111 28,1991 118101,131 2004 4494,277 28,0963 126272,827 2005 4554,099 27,8562 126859,933 2006 4683,942 27,7720 130082,781 2007 5121,977 26,0172 133259,909 2008 5227,883 24,7996 129649,883 9
  10. Nguồn FAO,2009 Trên thế  giới cà chua là cây rau quan trọng, xếp thứ 2 sau khoai tây.  Những năm gần đây, tình hình sản xuất cà chua trên thế  giới vẫn tiếp tục   gia tăng, tuy nhiên xuất hiện xu hướng không ổn định và chững lại. Mặc dù  diện tích trồng cà chua hàng năm trên thế  giới tăng lên xong năng suất và  sản lượng cà chua lại giảm xuống rõ rệt. Theo thống kê mới nhất của FAO (2009), diện tích cà chua trong  những năm gần đây tăng lên rõ rệt. Từ  4020,120 ha năm 2000 đã tăng lên  5227,883 ha năm 2008. Trong khi đó năng suất và sản lượng cà chua lại có  xu hướng giảm đi. Năng suất cà chua năm 2000 trên thế  giới đạt 27,09   tấn/ha, thì đến năm 2008 năng suất cà chua chỉ đạt 24,8 tấn/ha. Sản lượng  cà chua cũng theo đó mà giảm theo. Từ  108919,744 tấn năm 2000 giảm  xuống còn 129649,883 tấn năm 2008. Bảng 2.3: Sản lượng cà chua của thế giới và 10 nước đứng đầu ĐVT: 1000 tấn Quốc gia 1995 2000 2003 2005 Thế giới 87592,093 108339,598 116943,619 124426,995 Trung Quốc 13172,494 22324,767 28842,743 31644,040 Mỹ 11784,000 11558,800 10522,000 11043,300 Thổ Nhĩ Kỳ 7250,000 8890,000 9820,000 9700,000 Ấn Độ 5260,000 7430,000 7600,000 7600,000 Italy 5182,000 7538,100 6651,505 7087,016 Ai Cập 5034,179 6785,640 7140,195 7600,000 Tây Ban Nha 2841,100 3766,328 3947,327 4651,000 Braxin 2715,016 2982,840 3708,600 3396,767 Iran 2403,367 3190,999 4200,000 4200,000 Mêhico 2309,968 2086,030 3148,136 2800,115 10
  11. Hy Lạp 2064,160 2085,000 1830,000 1713,580 (Nguồn FAO Database Static 2006) Cà chua được sản xuất chủ  yếu  ở  các nước ôn đới và á nhiệt đới.  Trong đó đứng đầu về diện tích trồng cà chua là khu vực Châu Á, với diện  tích gieo trồng là 2563,991 ha. Theo số liệu FAO (2002), diện tích trồng cà  chua trên thế giới đạt xấp  xỉ 3,6 triệu ha, sản lượng 98,62 triệu tấn. Trong   đó, các nước Châu Á chiếm 44%, Châu Âu 22%, Châu Mỹ  15%, Châu Phi   12% và các khu vực khác chiếm 7%. Tuy nhiên, xét về lĩnh vực xuất khẩu,  Châu Âu luôn là khu vực xuất khẩu cà chua lớn nhất ở tất cả các dạng sản  phẩm (tuơi, đóng hộp, cô đặc…). Xuất khẩu cà chua cô đặc  ở  Châu Âu  chiếm tới 56% lượng xuất khẩu trên toàn thế giới. 4 quốc gia trên thế giới   đứng đầu về  chế  biến cà chua phải kể  đến đó là Hoa Kỳ, Italia, Tây Ban   Nha và Thổ  Nhĩ Kỳ. Sản lượng cà chua  ở  Châu Á và Châu Phi cao nhưng  do chất lượng không đồng đều nên chủ yếu được tiêu thụ tại chỗ. Theo FAO (2005), hiện nay trên thế  giới có hơn 150 nước trồng cà  chua. Trong đó, Trung Quốc là nước có sản lượng cà chua lớn nhất và cũng   là nước duy trì được tình trạng ổn định về  sản xuất cà chua. Năm 2006 là   năm trên thế  giới có sự  biến động về  nguồn cung  ứng cà chua. Trong khi   tại Hy Lạp_một trong những nước cung  ứng cà chua lớn cho EU, do điều  kiện thời tiết không thuận lợi nên sản lượng cà chua của nước này giảm 1   triệu tấn so với dự  báo. Tại Hoa Kỳ  nguồn cung  ứng cà chua cũng giảm  13% so với năm 2005. Thì khi đó sản lượng cà chua của Trung Quốc vẫn   duy trì trong năm 2006. Nguồn cung  ứng cà chua trên thế  giới thiếu hụt  đượng nhiên đã thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc tăng tới 4,71% so với   năm trước, đạt 630 triệu kg. Lượng cà chua xuất khẩu của Trung Quốc sang  thị trường Hoa Kỳ trong năm 2006 đạt 9,44 triệu kg, tăng 735,5% so với năm  11
  12. 2005 với lợi nhuận thu được từ  hoạt động xuất khẩu cà chua là 5,01 triệu   USD, tăng 933,2% so với năm trước đó. Đứng sau Trung Quốc về sản lượng  cà chua đó là Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ,… Tại Châu Á, Đài Loan là một trong số ít nước có nền công nghiệp chế  biến cà chua sớm nhất. Ngay từ  năm 1918, nước này đã phát triển cà chua  đóng hộp. Năm 1931, mặc dù sản xuất cà chua của Nhật Bản tăng lên nhưng  sản phẩm cà chua chế  biến của Đài Loan vẫn được thị  trường Nhật Bản  chấp nhận và nổi tiếng  ở  Nhật. Năm 1967 Đài Loan chỉ  có 1 công ty chế  biến cà chua là công ty liên doanh giữa Đài Loan và Nhật Bản. Đến năm  1976 tại Đài Loan đã có hơn 50 nhà máy sản xuất cà chua đóng hộp (Yu  Kang Mao, 1979) [16]. Thái Lan là một nước  ở  khu vực Đông Nam Á có khí hậu nhiệt đới   với sự  đa dạng các chủng loại rau quả. Song gần đây, Thái Lan cũng bắt  đầu tập trung vào các sản phẩm chế  biến có giá trị  cao. Một trong những  sản phẩm đó là cà chua cô đặc. Năm 1991 sản lượng cà chua của Thái Lan  đạt 171,9 ngàn tấn (Farming Japan Vol 31/5/1997) [48]. 2.2.2 Tình hình nghiên cứu cà chua trên thế giới Lịch sử công tác chọn tạo giống cà chua trên thế giới bắt đầu ở Châu   Âu, và đã có những tiến bộ trong 200 năm trở  lại đây. Những người Italia   được cho là những người đầu tiên phát triển các giống cà chua mới, họ  chọn các giống có sự khác nhau về tính trạng quả, chủ yếu là màu sắc quả.  Năm 1836, 23 giống cà chua được giới thiệu, trong đó giống Trophy  được coi là giống có chất lượng tốt nhất. Năm 1886, Liberti Hyde Bailey ở  trường Nông nghiệp Michigan (Mỹ) đã bắt đầu tiến hành chương trình thử  nghiệm chọn lọc phân loại giống cà chua trồng trọt. A.W. Livingston là  một trong những người Mỹ  đầu tiên nhận thức được việc phải chọn tạo  12
  13. giống cà chua. Từ  năm 1870 đến năm 1893 ông đã giới thiệu 13 giống cà  chua được chọn lọc theo phương pháp chọn lọc cá thể. Năm 1900, Moore  và Simon đã chọn tạo được giống cà chua “Xẻ  khoan”. Tiếp đó, vào năm   1908, G.W.Midleton chọn được mẫu giống cà chua “Chân thiện mỹ” từ  giống   “Xẻ   khoan”.   Năm   1914,   B.Geoft   chọn   được   mẫu   giống   Cooper  Specisl có loại hình sinh trưởng vô hạn, thích hợp cho việc trồng dày và sử  dụng máy khi thu hoạch. Cũng vào năm 1914, các nhà khoa học đã phát   hiện ra gen sp_gen xác định tập tính sinh trưởng hữu hạn  ở giống Florida.  Nhờ  phát hiện ra loại gen này mà hàng loạt các tính trạng di truyền đơn  giản đã được chú ý trong quá trình cải tiến giống và thay đổi kỹ  thuật   trồng, bên cạnh đó việc áp dụng gen sp trong quá trình lai tạo với mục đích  giảm bớt công lao động cho việc tỉa cành. Đến cuối thế kỷ XIX, đã có trên   200 dòng, giống cà chua được giới thiệu rộng rãi (Theo Tạ Thu Cúc, 2000)   [23]. Nhìn chung, trước năm 1925 việc cải tiến giống cà chua được thực  hiện bằng cách chọn tạo các kiểu gen ngay từ  bản thân các giống, từ  các   đột biến tự nhiên, lai tự do hoặc tái tổ hợp bản thân các biến thể di truyền   tồn tại trong tự nhiên. Hiện nay các nhà khoa học đang tập trung nghiên cứu tạo ra giống cà   chua chịu điều kiện nhiệt độ nóng ẩm ở các nước nhiệt đới. Vì nhiều công  trình   nghiên   cứu   của   Trung   tâm   nghiên   cứu   và   phát   triển   rau   Châu   Á  (AVRDC) cho thấy những giống cà chua chọn tạo trong điều kiện ôn đới  không thích hợp với điều kiện nóng  ẩm vì sẽ  tạo những quả  kém chất  lượng như  màu đỏ  nhạt, nứt quả, vị  nhạt hoặc chua… (Kuo và cs, 1998)  [51]. Theo ý kiến của Anpachev (1978), Iorganov (1971), Phiên Kỳ  Mạnh  (1961) (dẫn theo Kiều Thị Thư, 1998) [6] thì xu hướng chọn tạo giống cà  chua mới là: 13
  14. + Tạo giống chín sớm phục vụ cho sản xuất vụ sớm + Tạo giống cho sản lượng cao, giá trị  sinh học cao, dùng làm rau  tươi và nguyên liệu cho chế biến đồ hộp. + Tạo giống chín đồng loạt thích hợp cho cơ giới hoá. + Tạo giống chống chịu sâu bệnh.  Cho đến nay các nhà khoa học trên toàn thế  giới vẫn đang tiếp tục  tiến hành các nghiên cứu và thử  nghiệm để  tạo ra các giống cà chua mới  nhằm đáp  ứng cho sự đòi hỏi ngày càng khắt khe của con người, phục vụ  tốt nhất cho nhu cầu của con người. A. Một số nghiên cứu về giống cà chua quả nhỏ trên thế giới Nhiều nghiên cứu thử  nghiệm giống cà chua quả  nhỏ  đã được tiến  hành   ở   AVRDC­TOP,   trường   Đại   học   Kasetsart,   phân   viện   Kamphaeng  Saen, Thái   Lan.  Trong  đó   nhiều mẫu  giống  được   đánh giá  cao  có  chất  lượng rất tốt kết hợp với đặc tính chịu nóng, năng suất cao và chống chịu   bệnh như: các giống cà chua lai Anh Đào CHT104, CHT92, và CHT105 có   năng suất cao, chống chịu bệnh tốt, màu sắc đẹp, hương vị ngon, quả chắc   (Wangdi 1992) (Trích dẫn theo Trần Thị Minh Hằng, 1999) [30]; các giống  PT4225, PT3027, PT4165, PT4446, PT4187, PT4121 vừa cho năng suất cao,  vừa có chất lượng tốt, hàm lượng chất khô cao, màu sắc đỏ đều, quả chắc,  chống bệnh và chống nứt quả (Chu Jinping, 1994) [45]; Giống FMTT3 cho   năng suất 66,75 tấn/ha, chất lượng quả  tốt, hàm lượng chất hoà tan cao  (5,380Brix), quả chắc, tỷ lệ quả nứt thấp (5,79%) (Kang Gaoquiang, 1994)   [49]. Giống cà chua Anh Đào CHT267 và CHT268 có năng suất cao (52,3  tấn/ha và 46,63 tấn/ha), hàm lượng chất hoà tan cao (6,6 – 6,7 0Brix) và hàm  lượng đường cao, hương vị rất ngon và rất ngọt, rất thích hợp cho ăn tươi  14
  15. (Zhu Guopeng 1995) (Trích dẫn theo Trần Thị Minh Hằng, 1999)[30]. Năm 1995 – 1996, 11 giống cà chua quả nhỏ được đánh giá trong thí  nghiệm   đồng   ruộng   của   ARC   –   AVRDC   có   trụ   sở   tại   Kamphaengsaen  Campus, Đại học Kasetsart, Nakhon Pathorn, Thái Lan. Giống CH156 đã  cho năng suất cao nhất đạt 44,53 tấn/ha.  Ảnh hưởng của côn trùng đến  khối lượng quả thấp nhất ở CH155 là 7,47g/cây. Giống CH151, CH153 và  CH156 có khả năng bảo quản cao trong điều kiện phòng lạnh [55] Theo Dr.G.Kuo (1998) [51], giống cà chua ăn tươi mini màu đỏ, trồng  trong vụ  xuân cho năng suất đạt 42,1 – 45,8 tấn/ha, độ  Brix 6,48 – 6,83,  trồng trong vụ hè thu đạt năng suất 17,7 – 2 tấn/ha, độ Brix 5,25 – 5,85. Đó   là   các   giống   CHT1126,   CHT1127   và   CHT1120.   Các   giống   CHT1190,  CHT1200   và   CHT1201   vừa   có   độ   Brix   trên   6,25   vừa   có   hàm   lượng  Betacarotene, Lycopene khá cao. Điều này rất có ý nghĩa trong dinh dưỡng   con người. Tháng 12/2002 CHT1127 đã được hiệp hội Nông nghiệp Đài   Loan đặt tên là giống Tainan ASVEG­No11 [39]. Theo báo cáo tổng kết nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu và phát  triển rau Châu Á (AVRDC) (2002), (2003) [40, 41] đã nghiên cứu, đánh giá  8 giống cà chua quả  nhỏ  (Cherry tomato) như  CLN2545, CLN254DC,…  năng suất 15 tấn/ha, 20 giống cà chua chất lượng cao phục vụ  chế  biến   (Processing tomato) như  CLN2498­68, CLN2498­78,… đạt năng suất trên  55 tấn/ha và 9 giống cà chua phục vụ   ăn tươi  nấu chín như: Taoyuan,  Changhur, Hsinchu2,… năng suất đạt 70 tấn/ha. Năng   suất   cà   chua   sẽ   giảm   đáng   kể   nếu   bị   nhiễm   virus   xoăn   lá  (ToLCV) vào thời gian ra hoa. Năm 2002, 2003, 5 giống cà chua lai quả nhỏ  màu đỏ, kháng virus xoăn lá (ToCLV) là CHT1312, CHT1313, CHT1372,  CHT1374, CHT1358 và giống đối chứng Tainan­ASVEG No.6 đã được tiến  15
  16. hành   thử   nghiệm,   đánh   giá   ở   4   địa   điểm   (AVRDC,   Annan,   Luenbey,   Sueishan). Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm virus của giống đối chứng là rất  cao (74 – 100% năm 2002 và 86,5% ­ 100% năm  2003) [39, 41]. Dựa trên kết quả  nghiên cứu của PYTs, năm 2003 Đài Loan đã đưa   vào sản xuất giống cà chua lai quả  nhỏ  CHT1200 – được phát triển bởi  AVRDC và CHT1200  đã chính thức  được   đặt tên là Hualien – ASVEG   No.13.   CHT1200   có   quả   màu   vàng   cam   khi   chín,   giàu   β­carotene  (2,8mg/100g), quả dạng oval, chắc, tỷ lệ nứt quả thấp, có khả năng kháng  ToMV và nấm héo rũ Fusarium chủng 1 và 2 [41] Để tuyển chọn giống cà chua lai quả nhỏ triển vọng cho sản xuất vụ  hè, Trung tâm nghiên cứu và phát triển rau Châu Á đã tiến hành thí nghiệm  với 5 giống cà chua lai quả nhỏ có khả  năng kháng virus ToLCV, quả khi   chín có màu đỏ là CHT1312, CHT1313, CHT1358, CHT1372, CHT1374 và  giống đối chứng là Tainan­ASVEG No.6. Thí nghiệm được tiến hành từ  tháng 6/2002 đến 24/6/2004 (với nhiệt độ  ngày đêm là 28,1 0C/19,60C và  tổng lượng mưa là 210mmm). Thí nghiệm được bố  trí theo kiểu RCBD   với 4 lần nhắc lại. Kết quả cho thấy gi ống CHT1372 đạt năng suất cao   nhất 54,5 tấn/ha, tiếp  đến là CHT1312 và CHT1358 với năng suất lần  lượt là 53,6 tấn/ha và 53,3 tấn/ha, trong khi đó đối chứng Tainan­ASVEG  No.6 chỉ  đạt 28,2 tấn/ha. Các giống CHT này đều có tỷ  lệ  nhiễm virus   xoăn lá (ToLCV) thấp (2,6 – 7,8%), trong khi 99% gi ống  đối chứng bị  nhiễm sâu bệnh. CHT1358 có quả nhỏ nhất (11,8g/quả) nhưng lại có khả  năng cho thu quả dài nhất và độ Brix đạt 8,18 [42]. Tháng 12/2004, dựa trên kết quả nghiên cứu của PYTs, Đài Loan đã  đưa vào sản xuất giống cà chua lai quả nhỏ CHT1201 – được phát triển bởi   AVRDC và CHT1201 đã chính thức được đặt tên là Hualien­ASVEG No.14.  16
  17. Đây là giống cà chua có hàm lượng  β­carotene cao (2,7mg/100g), quả  khi  chín có màu vàng cam, quả thuôn dài, quả chắc tỷ lệ nứt quả thấp và kháng  ToMV và Fusarium chủng 1 và 2 [42]. Tháng 01 năm 2007 dòng cà chua quả  nhỏ  màu vàng CHT1417 đã   được công nhận là giống mới và được đặt tên là “Hualien Asveg 21”. Đây  là giống sinh trưởng vô hạn, quả dạng oval khi chín có màu vàng cam, khối  lượng trung bình quả  đạt 13,5g/quả. Độ  Brix đạt 7,3, quả  chắc, hương vị  tốt, tỷ  lệ  nứt quả  thấp. Giống mới này có khả  năng kháng virus xoăn lá  (ToLCV)   (với   gen  Ty­2),  khảm   lá  (với   gen   Tm­2a)   và   vi   khuẩn  héo   rũ  chủng 1 và 2 (với gen 1­1 và 1­2). Giống thích hợp trồng trong vụ xuân và  vụ hè muộn [58]. Nhiều nghiên cứu thử nghiệm về cà chua quả nhỏ cũng đã được tiến  hành  ở  Châu Phi. Theo chương trình cải thiện giống cà chua cho vùng núi  Châu Phi, AVRDC­RCA đã lựa chọn 26 dòng cà chua quả nhỏ thụ phấn tự  do để  đánh giá các yếu tố  cấu thành năng suất, từ  đó xác định tiềm năng  thích nghi của các dòng cà chua này trước khi đưa ra phổ biến. 26 dòng cà   chua này đã được đánh giá  ở  vụ  thu năm 2000 và năm 2001. Năm 2000,  dòng CLN1555­106­4 và CLN1561­124­2 cho số quả trên cây tương đối cao  (251 quả/cây năm 2000 và 149 quả/cây năm 2001). Dòng CLN1555­106­4,   CLN1561­124­2, CLN155­104­4, CLN1558­100­10 có tiềm năng cao với hệ  thống canh tác ở vùng núi Châu Phi [38]. Năm 2003, để đánh giá so sánh về  năng suất, chất lượng của các dòng cà chua quả  nhỏ  với các dòng cà chua   fresh­market, 14 dòng cà chua thụ phấn tự do và hai dòng cà chua lai F1 đã  được đánh giá về năng suất, chất lượng dưới điều kiện tự nhiên ở Arusha.   Kết quả  cho thấy giữa các dòng cà chua quả  nhỏ, quả  của CLN1558A có  pH thấp nhất và phần trăm của citric, malic, tartaric và axit acetic là cao  17
  18. nhất. Các dòng lai CHT154, CHT155 cho quả nhỏ nhất và năng suất thấp  nhất, năng suất cao nhất là của CLN2070B. Hàm lượng các chất hoà tan   của các dòng cà chua quả nhỏ, đặc biệt là của các dòng cà chua quả nhỏ lai   là vượt trội hơn hẳn so với các dòng cà chua ăn tươi (fresh­market). Kết   quả  từ nghiên cứu này cho thấy, cà chua quả  nhỏ  có các đặc tính về  chất   lượng tương tự  hoặc tốt hơn rất nhiều so với dòng cà chua ăn tươi. Mặc   dù sản lượng trái cây có thể  thấp hơn, người tiêu dùng vẫn có thể  ưu tiên  lựa chọn cà chua quả nhỏ làm cây trồng có giá trị ở Đông Phi [42]. Một trong các xu hướng của các nhà nghiên cứu khoa học đó là tạo ra  các giống cà chua chịu nhiệt. Các nghiên cứu đã chỉ  ra rằng các giống cà   chua ôn đới không phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới. Chọn tạo   giống cà chua có khả  năng sinh trưởng bình thường và ra hoa đậu quả   ở  điều kiện nhiệt độ cao, có ý nghĩa vô cùng lớn trong cung cấp cà chua tươi   quanh năm. Một trong những mục tiêu của dự  án phát triển cà chua của  Trung tâm rau Châu Á (VARDC, 1986) đối với giống cà chua đó là: Chọn   giống năng suất cao, thịt quả  dày, màu sắc thích hợp, khẩu vị  ngon, chất   lượng cao, chống nứt quả, đậu quả tốt ở điều kiện nhiệt độ và ẩm độ cao,  tiến hành chọn giống chống chịu. Từ  năm 1972, Trung tâm rau Châu Á (AVRDC) đã bắt đầu chương  trình lai tạo giống mới với mục đích tăng cường sự  thích  ứng của những   loại rau này với vùng nhiệt đới nóng  ẩm. Giai đoạn đầu tiên của chương   trình này (1973 – 1980) tập trung phát triển các dòng lai tạo có tính chịu nóng   tốt và chống chịu bệnh héo xanh vi khuẩn, hai tính trạng quan trọng nhất này  cần phải có trong các giống mới để  thích  ứng với vùng nhiệt đới [59, 60].   Dòng triển vọng nhất cho vùng nhiệt đới này là “pioneering” đã được phổ  biến qua hàng loạt các chương trình hợp tác phát triển cây rau ở nhiều quốc   18
  19. gia [53, 54] Nhiều nghiên cứu về  chọn lọc các giống cà chua chịu nóng đã được  tiến hành  ở   Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc và Mỹ  cũng như  một số  nước   khác trên thế giới. Để  chọn tạo giống cà chua chịu nhiệt, các nhà chọn giống trên thế  giới đã sử  dụng nguồn gen của các loài hoang dại làm nguồn gen chống  chịu với cá điều kiện bất thuận bằng nhiều con đường khác nhau như  lai  tạo, chọn lọc giao tử dưới nền nhiệt độ cao và thấp, chọn lọc hợp tử (phôi  non), đột biến nhân tạo,… bước đầu đã thu được những thành công nhất  định. Dưới tác động của nhiệt độ cao, khả năng hạt phấn của cà chua giữ  được sức sống đi vào thụ  tinh là khác nhau và phụ thuộc vào kiểu gen [6].  Ở nhiệt độ 20 – 210C hạt phấn nảy mầm và sinh trưởng ống phấn với tốc  độ lớn nhất. Dưới tác động của nhiệt độ 400C – 450C trong thời gian 4 giờ  thì hoa bị hỏng, làm giảm rất mạnh tỷ lệ đậu quả.  Chọn lọc nhân tạo hạt phấn trên cơ  sở  đa dạng hoá di truyền của   chúng là một trong những phương pháp chọn giống. Nhiều nghiên cứu cho  thấy ở cà chua bằng cách chọn lọc hạt phấn với nhiệt độ cao, có thể nâng   cao sự chống chịu của giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng[6]. Trong nghiên cứu về  biến động của hạt phấn và tỷ  lệ  đậu quả  của  các kiểu gen cà chua dưới 2 chế độ nhiệt cao và tối ưu, Abdul và Stommel   (1995) [34] đã cho thấy:  Ở  nhiệt độ  cao các kiểu gen mẫn cảm nóng hầu   như không đậu quả, tỷ lệ đậu quả của các kiểu trên chịu nóng trong khoảng  45­65%. Như  vậy phản  ứng của hạt phấn khi xử  lý nóng phụ  thuộc vào   từng kiểu gen và chưa có quy luật chung để dự đoán trước về tỷ lệ đậu quả  19
  20. ở điều kiện nhiệt độ cao. Ở Ấn Độ trong điều kiện mùa hè, nhiệt độ ngày đêm là 400C/250C đã  xác định các dòng có tỷ  lệ  đậu quả  cao 60 – 83% là EC50534, EC788,  EC455, EC126755, EC276, EC10306, EC2694, EC4207 dùng làm các vật  liệu lai tạo giống chịu nhiệt [34]. Trong điều kiện nhiệt độ  ngày đêm là  35,90C/23,70C tại Tamil Nadu (Ấn Độ), 124 dòng cà chua đã được đánh giá  khả  năng chịu nhiệt trong đó 2 dòng là LE.12 và LE.36 có tỷ  lệ  đậu quả  cao. Khi lai chúng với nhau và với PKM thì con lai của tổ  hợp LE.12 x  LE.36 đã cho tỷ lệ đậu quả cao nhất (79,8%) [48]. Trường Đại học Nông nghiệp Punjab ở Ludhiana ­ Ấn Độ, năm 1981  đã chọn tạo ra giống Punjab chhuhara có năng suất cao (75 tấn/ha), với chất   lượng quả tốt, quả to trung bình, rất rắn chắc, không hạt, không chua, thịt  quả  dày, quả  chín đỏ  đều, đặc biệt quả  có thể  duy trì được chất lượng   thương phẩm trong thời gian dài ở điều kiện mùa hè, rất thích hợp cho thu   hoạch cơ  giới, vận chuyển và bảo quản lâu dài. Năm 1983, Viện nghiên  cứu Nông nghiệp Ấn Độ ở New Delhi chọn tạo ra giống Pusa Gaurav cũng  mang đặc điểm tương tự  Punjab chhuhana, thích hợp cho cả  ăn tươi lẫn  chế biến, chịu vận chuyển và bảo quản lâu dài (Sight, Checna 1989) (Trích  dẫn theo Kiều Thị Thư, 1998) [6]. Đánh giá 9 dòng cà chua về  khả  năng chịu nóng, Abdul Baki, (1991)  [44] đã rút ra những  ưu thế của nhóm chịu nóng ở  một loạt các tính trạng:  đậu quả, nở hoa, năng suất quả, số hạt/quả… Các dòng chọn lọc trong thí  nghiệm có tỷ lệ đậu quả và năng suất cao hơn giống chịu nóng (tương ứng   là 70% và 52%). Nhiệt độ cao làm giảm năng suất, độ nở hoa và tỷ lệ đậu  quả, đồng thời cũng làm tăng phạm vi dị dạng của quả như nứt quả, đốm  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2