intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:103

25
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn bổ sung đầy đủ hơn bức tranh chung về Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở Hà Tiên. Từ đó làm rõ một số biểu hiện sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng bản địa nơi đây. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ LÊ TÔ NAM SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG BẢN ĐỊA Ở THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC Hà Nội - 2020 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ LÊ TÔ NAM SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG BẢN ĐỊA Ở THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY Chuyên ngành: Tôn giáo học Mã số: 60 22 03 09 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG: NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. ĐỖ QUANG HƢNG TS. NGUYỄN HỮU THỤ Hà Nội - 2020 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trên bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Lê Tô Nam 3
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1. KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG BẢN ĐỊA Ở THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG ................................... 7 1.1. Khái lƣợc chung về đặc điểm Phật giáo ở thị xã Hà Tiên ................. 7 1.1.1. Khái lược về vùng Hà Tiên trong lịch sử ........................................ 9 1.1.2. Sự du nhập và phát triển của Phật giáo ở Hà Tiên ........................ 13 1.2. Khái lƣợc về tín ngƣỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang . 21 1.2.1. Đặc điểm tín ngưỡng ở thị xã Hà Tiên, Kiên Giang ..................... 22 1.2.2. Một số loại hình tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang . 22 Tiểu kết chƣơng 1....................................................................................... 30 Chương 2. BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG BẢN ĐỊA Ở THỊ XÃ HÀ TIÊN HIỆN NAY .............................. 31 2.1. Biểu hiện qua truyền thuyết, bài trí tƣợng thờ và nghi lễ trong chùa . 31 2.1.1. Về những câu chuyện truyền thuyết, truyện truyền miệng ở Hà Tiên ................................................................................................... 31 2.1.2. Sự dung thông giữa Phật giáo với tín ngưỡng qua thờ cúng ........ 38 2.2. Qua thực hành một số nghi lễ Phật giáo và tín ngƣỡng .................. 45 2.2.1. Những biểu hiện tín ngưỡng ở một số nghi lễ của Phật giáo ........ 45 2.2.2. Những biểu hiện của Phật giáo ở các nghi lễ tín ngưỡng ............. 47 2.3. Một số giá trị và vấn đề đặt ra của sự dụng hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên ................................................... 48 2.3.1. Một số giá trị của sự dụng hợp đem lại cho tâm linh bản địa ....... 48 4
  5. 2.3.2. Một số vấn đề đặt ra trong sự dung hợp........................................ 58 2.3.3. Một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị sự dung hợp của Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay. .................................................................................................. 65 Tiểu kết chƣơng 2....................................................................................... 71 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 73 PHỤ LỤC 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Niềm tin tín ngưỡng và tôn giáo ở Hà Tiên đã có từ rất lâu đời nay, ít nhất từ thế kỷ I sau Công nguyên. Trải qua nhiều thăng trầm của thời gian, tín ngưỡng và một số tôn giáo ngoại nhập đã có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống văn hóa, chính trị, xã hội và giao thương nơi này. Phật giáo trước khi du nhập vào Hà Tiên thì đã có tín ngưỡng trước đó hình thành và phát triển từ lâu. Hà Tiên có phong cảnh tươi đẹp với nhiều loài chim thú, sản vật giá trị thương phẩm cao, đã thu hút nhiều dân tộc tề tựu về đây an cư lập nghiệp, lập làng lập ấp, hình thành nhiều vương triều với những triều đại được duy trì bền bỉ. Các triều đại cũng mang theo tín ngưỡng và tôn giáo của mình vào nơi này, mặc cho có nhiều cuộc chiến tranh vừa cục bộ vừa lâu dài, ít nhiều ảnh hưởng đến sự tồn vong của các triều đại, sự thực hành tâm linh. Phật giáo du nhập rõ nét vào Hà Tiên từ sau đợt kết tập kinh đển đầu tiên vào thế kỷ IV, tín đồ Phật giáo và hàng giáo phẩm tích cực đóng góp công sức cho công cuộc chấn hưng đại cuộc, các hoạt động từ thiện nhân đạo, truyền bá chữ Phạn, dạy học chữ “Hán”, chữ “Pali” và sau này là chữ quốc ngữ với sự duy trì và đóng góp không ngừng nghỉ của các dân tộc anh em gồm Kinh, Hoa, Khmer, Chăm, Philippin, Malaysia và Ấn Độ. Nơi đây, từ dung hợp đã tiếp biến khai sáng một hệ phái mới của Phật giáo (Minh Đăng Quang – Hệ Khất Sĩ) và là nơi phát tâm hình thành một tôn giáo mới nội sinh (Ngô Minh Chiêu - Đạo Cao Đài). Điểm đến của nhiều người có vai trò to lớn như: Mạc Cửu – Khai trấn, lập chùa Tam Bảo; Mạc Thiên Tích – Giữ biên cương, lập Tao Đàn Chiên Anh Các; Đông Hồ - Thi sĩ, người đầu tiên truyền bá chữ Quốc Ngữ vào Hà Tiên,… 1
  7. Kể từ khi có mặt trên vùng đất này, các loại hình tín ngưỡng và Phật giáo không ngừng phát triển và có chỗ đứng khá vững chắc, tác động sâu rộng đến đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, đạo đức, lối sống. Các mưu đồ chính trị muốn lợi dụng vấn đề dân tộc và Phật giáo để chống phá ta ít khi thực hiện được. Vấn đề tín ngưỡng và Phật giáo có đặc điểm như thế nào, quá trình này diễn ra qua các giai đoạn lịch sử có những đặc điểm gì nổi bật; sự tác động của tín ngưỡng và Phật giáo đối với đời sống cư dân nơi đây ra sao; sự dung hợp giữa tín ngưỡng với Phật giáo như thế nào? Đây là những vấn đề cần làm rõ. Tuy nhiên, cho đến nay, những nội dung nêu trên chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ. Sự hiểu biết về các lĩnh vực trên của một số cư dân ở tỉnh Kiên Giang nói chung và cư dân ở thị xã Hà Tiên nói riêng còn hạn chế. Vì vậy, việc nghiên cứu về các lĩnh vực này có ý nghĩa không chỉ về khoa học mà còn về thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Với những lý do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay làm đề tài luận văn thạc sĩ Tôn giáo học. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nghiên cứu và chỉ ra sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn có hai nội dung: Khái lược chung về Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang và chỉ ra những biểu hiện của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay. 2.1. Những công trình nghiên cứu về tộc người, văn hóa, tín ngưỡng ở Kiên Giang, Hà Tiên Các công trình nghiên cứu có đề cập về vùng Tây Nam bộ và tỉnh Kiên Giang, Hà Tiên: Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) của 2
  8. Viện Dân tộc học Việt Nam (1984); Tôn giáo, tín ngưỡng các dân tộc Việt Nam của Nguyễn Văn Minh (2013); Lễ hội dân gian ở đồng bằng sông Cửu Long của Trần Văn Nam (2013); Chính sách tôn giáo và nhà nước pháp quyền của Đỗ Quang Hưng (2014); Chế độ Công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh của Nguyễn Đình Đầu (1992); Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim (2017); Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam Bộ của Trần Hồng Liên (2019); Đặc khảo về tín ngưỡng gia thần của Huỳnh Ngọc Trảng và Nguyễn Đại Phúc (2013); Đại Nam nhất thống chí của Trần Xán, Lưu Đức Xứng và Cao Xuân Dục (2012); Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo của Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (2003); Nói về miền Nam, cá tính miền Nam và thuần phong mỹ tục Việt Nam của Sơn Nam (2014); Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam của Sơn Nam (2015); Đại Nam Nhất thống chí, Văn hóa Tùng thư (1959). Các công trình giới thiệu trực tiếp về tỉnh Kiên Giang: Địa chí Kiên Giang; Người Khmer ở Kiên Giang của Đoàn Thanh Nô (2004); Di tích khảo cổ học Nền Chùa của Sở Văn hóa - thể thao và du lịch tỉnh Kiên Giang (2009). Những công trình này phản ánh khá sâu sắc và chi tiết về lịch sử, xã hội, thiên nhiên, con người, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của vùng Tây Nam bộ và Kiên Giang trong quá khứ cũng như hiện tại. 2.2. Những tư liệu liên quan đến đề tài Phật giáo và tín ngưỡng bản địa Tài liệu cụ thể của các cấp, các ngành, nhà nghiên cứu và cơ quan chuyên môn trong tỉnh: Báo cáo tổng hợp thực trạng tôn giáo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang của Ban Tôn giáo tỉnh Kiên Giang (2017); Tập Văn kiện Đại hội đại biểu Phật giáo tỉnh Kiên Giang lần thứ IV (nhiệm kỳ 2017-2022) của Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Kiên Giang (2017); Báo cáo công tác tôn giáo trên địa bàn thị xã Hà Tiên của UBND thị xã Hà Tiên (2017); Sách Nghiên cứu Hà Tiên của Trương Minh Đạt (2016); Sách Lược sử những ngôi chùa ở Kiên Giang của Thượng tọa Thích Giác Phước (2002); Luận văn Thạc 3
  9. sĩ về Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang của Trần Ngọc Quyên (2017); Tập hợp tài liệu do các cơ sở thờ tự cung cấp; Các báo cáo của UBND một số phường, xã trong thị xã. Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực địa ở nhiều chùa, đình, miếu trên địa bàn thị xã Hà Tiên hiện nay như sau: (1) Các chùa: Phù Dung, Phật Đà, Thiên Trúc, Tam Bảo, Giải Thoát và tịnh xá Ngọc Hồ (phường Bình San); chùa Tiên Sơn, Mũi Nai, Xà Xía (xã Mỹ Đức); chùa Thanh Hòa (xã Thuận Yên); Tịnh xá Ngọc Đăng, Ngọc Tiên (phường Tô Châu). (2) Đình: Thần Thành hoàng Hà Tiên (phường Đông Hồ), đình Năm Ông (phường Bình San), đình Ông Bổn (xã Thuận Yên). (3) Miếu: Bà Thủy Long (phường Tô Châu), miếu Quang Thánh đế (phường Bình San), miếu Nam Hải - Tứ vị thần nữ (xã Thuận Yên). Nguồn tư liệu điền dã thực tế 09 trường hợp, trong đó có 04 nữ giới, tín đồ Công giáo 02 người, Phật giáo 03 người (01 ni cô), 04 người không theo tôn giáo (01 chức việc ở đình). Gia đình thờ cúng: Ông Trần Văn Nhiên - Số 266/7, đường Nam Hồ, Tô Châu; Bà Trần Thị Diễm Thanh - Số 197/6, đường Phương Thành, Bình San. Chủ phương tiện tàu cá: Ông Trần Vãn Ðệ - Chủ tàu KG-12324-TS, bà Lê Thị Nhớ - Chủ tàu KG-45463-TS; Chủ xe khách: ông Lê Thanh Thành - Chủ xe khách số 68H-025.03, bà Nguyễn Thị Gáo - Chủ xe khách số 68H-154.64, cùng nhiều bài phỏng vấn trực tiếp khác liên quan đến vấn đề này. Nguồn tài liệu này cho phép chúng tôi trình bày sâu sắc hơn những nghiên cứu của mình trong luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu và chỉ ra sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay. 4
  10. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Khái lược chung về Phật giáo và tín ngưỡng bản địa, chỉ ra những biểu hiện của sự dung hợp, những vấn đề đặt ra và một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị của sự dung hợp giữa phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng chính của luận văn là “Sự dung hợp của Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay”. Luận văn nghiên cứu trong phạm vi thị xã Hà Tiên, cơ cấu tổ chức từ cấp Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam thị xã cho đến Ban Trị sự chùa, Gia đình Phật tử, tổ chức từ thiện xã hội Phật giáo; các đình miếu, đời sống tín ngưỡng và thực hành tín ngưỡng của nhân dân Hà Tiên. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Lý thuyết nghiên cứu Luận văn sử dụng lý thuyết Thực thể tôn giáo. Với lý thuyết này, luận văn tiếp cận hai nội dung: (1) cộng đồng (quá trình hình thành, phát triển, hệ thống tổ chức, chức sắc, chức việc, người tu hành, tín đồ); (2) nghi lễ và thực hành nghi lễ (tập trung vào các cuộc lễ hội diễn ra trong năm). 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo và công tác tôn giáo. Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là tôn giáo học, xã hội học. Đồng thời cũng áp dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành gồm: sử học, dân tộc học, triết học, văn hóa học. Quá trình thực hiện đã thực hiện các phương pháp chuyên môn như: Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh, điền dã, phỏng vấn sâu. 6. Đóng góp của luận văn 5
  11. Luận văn bổ sung đầy đủ hơn bức tranh chung về Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở Hà Tiên. Từ đó làm rõ một số biểu hiện sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng bản địa nơi đây. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo hỗ trợ cho việc áp dụng trong thực tế và công tác giảng dạy chuyên ngành Tôn giáo học và các bộ môn khoa học xã hội khác có liên quan. Luận văn còn là cứ liệu khoa học giúp cho chính quyền địa phương hiểu rõ hơn về Phật giáo và tín ngưỡng bản địa Hà Tiên, từ đó đề ra những giải pháp quản lý nhà nước về tôn giáo phù hợp với sự tồn tại của nó ở Kiên Giang. Trên cơ sở nâng cao nhận thức về “Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay”, giúp cho công tác quản lý xã hội, quản lý tín ngưỡng, tôn giáo, nhất là Phật giáo ở tỉnh Kiên Giang được chặt chẽ hơn, các chính sách pháp luật được thực thi đầy đủ, sự quan tâm tích cực của chính quyền đối với Phật giáo và tín ngưỡng bản địa, để Phật giáo và tín ngưỡng tiếp tục phát triển đồng hành cùng dân tộc, xây dựng một xã hội hòa bình, tốt đẹp, cùng tiến bộ. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 2 chương 05 tiết. 6
  12. Chƣơng 1 KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG BẢN ĐỊA Ở THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG 1.1. Khái lƣợc chung về đặc điểm Phật giáo ở thị xã Hà Tiên Trang wedsite Wikipedia tiếng Việt, bài viết về Hà Tiên có ghi: Hà Tiên là thành phố nằm ở phía Tấy Bắc của tỉnh Kiên Giang, thuộc vùng Kinh tế trọng điểm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long và nằm trong vùng tam giác vàng của tỉnh: Rạch Giá - Hà Tiên - Phú Quốc. Phía Bắc giáp với Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài 13,7km, phía Đông giáp với huyện Giang Thành, phía Nam giáp với huyện Kiên Lương, phía Tây giáp với Vịnh Thái Lan với đường bờ biển dài 26 km. [Phụ lục 1, tr.80] Hà Tiên có 7 đơn vị hành chính với 5 phường (Bình San, Đông Hồ, Mỹ Đức, Pháo Đài, Tô Châu) và 2 xã (Thuận Yên, Tiên Hải). Thành phố Hà Tiên là một dải đất hẹp nằm ven biển, với đầy đủ các dạng địa hình: vũng, vịnh, đồng bằng, núi, sông, hang động, hải đảo...tạo nên nhiều cảnh quan đẹp. Được ví như Vịnh Hạ Long thu nhỏ. Vũng Đông Hồ là cửa đỗ ra biển của hai con sông, sông Giang Thành từ Campuchia và kênh Vĩnh Tế chảy vê cho lượng nước ngọt quanh năm; Cửa sông Tô Châu từ kênh Hà Tiên - Rạch Giá chảy xuống, rất thuận tiện cho vận tải và du lịch đường sông nước. Các ngọn núi trên địa bàn thành phố hầu hết đều là những thắng cảnh như: núi Tô Châu, núi Đá Dựng, núi Bình San, núi Thạch Động, núi Đề Liêm... Ven biển Hà Tiên có nhiều bãi biển đẹp như: bãi biển Lộc Trĩ (bãi biển Mũi Nai). Ngoài khơi có quần đảo Hải Tặc với nhiều đảo đẹp, có tiềm năng du lịch, tuy còn hoang sơ nhưng rất triển vọng phát triển du lịch biển 7
  13. đảo. Nhiều thi sĩ đã xướng họa diễn tả cảm xúc, nổi tiếng có Tao đàn Châu Anh Các với 10 bài vịnh Thập cảnh Hà Tiên. Lượng nắng trung bình từ 6,5 đến 7,5 giờ/ngày. Năng lượng bức xạ trung bình 150 - 160 kcal/cm² năm. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27 °C (thấp nhất là 23,9 °C vào khoảng tháng 12 - tháng 1; cao nhất là 30,20C vào tháng 4 - 5. Độ ẩm trung bình 81,9%. Mùa mưa thường từ tháng 5 đến tháng 10. Lượng mưa lớn, trung bình 2.118 mm/năm. Diện tích tự nhiên năm 2015 là 10.048,83 ha (đất nông - lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản là 7.472,7 ha (chiếm 74,36 %) với nhiều diện tích có độ phèn mặn cao, đất phi nông nghiệp là 2.373 ha, đất chưa sử dụng chủ yếu là bãi bồi, núi đá không có cây cối chiếm 2,02%). Kể từ năm 2000- 2001, Hà Tiên có 13 trường, gồm 1 trường mầm non và 12 trường thuộc ngành giáo dục phổ thông (7 trường tiểu học, 3 trường Trung học cơ sở, 1 trường Phổ thông Trung học, 1 trung tâm giáo dục kỹ thuật hướng nghiệp dạy nghề), tỷ lệ con em đến trường hàng năm trên 99% trẻ em. Một bệnh viện tại trung tâm thành phố quy mô 60 giường bệnh, 100% xã phường có trung tâm y tế và khu dân cư có y tế thôn bản. Thế mạnh kinh tế của Hà Tiên là biên giới giáp Campuchia trên bộ lẫn trên biển, Hà Tiên cách tỉnh lị Kampot 60km và cảng Kep 20km; Đường biển và hàng không đi các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á; đấu nối với các khu du lịch, nghĩ dưỡng trong vùng. Trong đó có hoạt động tâm linh rất phát triển. [37] Theo Báo cáo Tổng hợp thực trạng Tôn giáo trên địa bàn Kiên Giang (2017) cho biết: Trên địa bàn thị xã Hà Tiên có 14 chùa, 01 đền thờ, 01 giáo xứ, 02 giáo họ, 04 đình, 03 miếu, 01 am. Có đa dạng tín ngưỡng và nhiều tôn giáo được duy trì gồm Phật giáo, Công giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Phật đường Nam tông Minh sư đạo và Tịnh độ cư sĩ [2]. Với 20.266 tín đồ, 19 8
  14. cơ sở thờ tự, 299 chức sắc, nhà tu hành, chức việc, 01 đơn vị gia đình phật tử với 150 đoàn sinh và 8 cơ sở tín ngưỡng, dân gian. [23, tr. 39] Phật giáo có 03 hệ phái (Nam tông, Bắc tông và Khất sĩ), 12 chùa (bắc tông 6, nam tông 3, khất sĩ 3), có 24 chức sắc, 78 chức việc, có 8.113 tín đồ. Tổ chức có Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam thị xã, 12 Ban Trị sự chùa, 01 Gia đình Phật tử, 01 tổ chức từ thiện xã hội.[Phụ lục 2, tr.83] Tín ngưỡng có 01 đền thờ, 04 đình, 03 miếu, 01 am. Đối tượng thờ cúng là ông trời, thổ thần, hải thần, nhân thần, thần hỗ [Phụ lục 2, tr.85]. Đa số người Hà Tiên tin tưởng vào các loại hình tín ngưỡng, từ nơi thờ tập trung ở đình miếu cho đến trong gia đình, trên phương tiện kinh doanh cho đến cập đường lộ. Điểm đáng chú ý là ngôi đình thành hoàng làng Hà Tiên thờ cả ba ông cháu gồm Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích và Mạc Tử Sanh; nhà nào cũng có ban thờ thông thiên bên ngoài và thờ tổ tiên, thần tài, thổ địa, ông táo bên trong; trên phương tiện lớn thường có bàn thờ các vị thần phù trợ tránh tai họa.[Phụ lục 2, tr.82] Trong khuông khổ đề tài luận văn này, là người hoạt động hành chính, xin dùng khái niệm được trích trong Luật Tín ngưỡng tôn giáo được thể hiện tại Khoản 5, Điều 2, Chương I như sau: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.” [14]. Với nhận thức như vậy, luận văn khái lược chung về Phật Giáo ở Hà Tiên như sau. 1.1.1. Khái lược về vùng Hà Tiên trong lịch sử Như đã biết, vùng Hà Tiên xưa kia là một phần của các vương quốc cổ, nằm về phía Đông của các vương quốc này, trong vùng biển Vịnh Thái Lan nhiều rừng núi, hải đảo và sản vật quí. Theo sách Lịch sử thế giới trung đại (quyển II) nêu rõ: “Người dân xưa đã có điều kiện để sinh sống bằng lượm hái, săn bắn, đánh cá, trồng trọt, do đó mà không ngừng tiến triển. Đây là một 9
  15. trong những quốc gia đóng góp tích cực vào nền văn hóa lâu đời, vào vận mệnh lịch sử ở Đông Nam Á” [18, tr.219] nói chung, mảnh đất Hà Tiên xưa nói riêng. Vào thế kỷ I sau công nguyên, Hà Tiên là vùng hạ của tiểu quốc Ba Nam xưa, đây là một trong những tiểu quốc lớn mạnh và quan trọng của vương quốc Phù Nam vào thế kỷ I. Ba Nam là tên một quả núi (thực ra là một gò núi nhỏ ở bờ trái hạ lưu sông Mê Kông), còn gọi là Ba Phnom (Nam hay Phnom là núi; Ba hay là dmâk, dalmâk (đặc mục) là người đi săn), về sau gọi theo chữ Phạn trong các bi ký, Vyâdhapura, cũng chỉ là sự dịch nghĩa: Xứ sở của những người đi săn [18, tr.221]. Tên Phù Nam (hay Bạt Nam) là chuyển âm - Đây chắc là nơi sinh sống thuận tiện, nên dân cư sớm tập trung đông đúc. Tiểu quốc Ba Nam sớm hình thành, phát triển nhanh, mạnh nên khiến cho các tiểu quốc khác (vốn có quan hệ thân tộc) càng phải kết thân và thần phục. Ba Nam trở nên có địa vị lãnh đạo, tiêu biểu cho các tiểu quốc khác, mà tên của nó là đại diện cho sự thống nhất của các quốc gia sơ kỳ của người Khmer: Quốc gia Phù Nam. [18] Những nhà nước hình thành trên lãnh thổ, trong đó có vùng đất này đã được các tài liệu cổ gọi bằng những tên gọi khác nhau, từ Phù Nam, Thủy Chân Lạp, cho đến Việt Nam ngày nay, đã phản ảnh những bước phát triển trong quan hệ xã hội, chính trị của các tộc người anh em. Tên gọi Phù Nam xứng đáng là tên chính thức của vương quốc bởi vì thường được nhắc tới trong văn bia của các đời vua và từ một câu chuyện thần thoại truyền thống, phản ánh tính chất phát triển liên tục của lịch sử vùng này. “… Ở phía nam quận Nhật Nam, trên bờ phía tây đại dương, rộng 3.000 lý, có một con sông từ phía tây chạy ra bể. Vua nước ấy là một nữ hoàng, tên là Liễu Diệp. Sau có một ngýời ở cõi ngoài tên là Hỗn Điền đêm mộng thấy thần ban cho cái cung và bảo đi thuyền ra bể. Sáng sớm, Hỗn Điền đến đền thờ thần, bắt được một 10
  16. cái cung ở gốc cây, rồi đi thuyền đến nước Phù Nam. Liễu Diệp đem quân ra đánh. Hỗn Điền giương cao cái cung, từ xa bắn một phát, xuyên qua vỏ thuyền, thẳng tới trúng phải một người. Liễu Diệp cả sợ, xin hàng. Hỗn Điền bắt làm vợ. Rồi ông ta cai trị nước, truyền cho con cháu…”. [18, tr.222] “Quốc gia Phù Nam duy trì đến năm 550 thì suy lụi dần rồi bị vua Chen-la (Thủy Chân Lạp) đánh bại lên nắm bá quyền, chuyển sang một thời kỳ mới, “Tài liệu xưa ghi chép lại như sau: “Chân Lạp ở phía tây Lâm Ấp. Nguyên trước đây là thuộc quốc của Phù Nam…”, “Tổ tiên đã dần dần làm cho nước trở nên hùng cường. Chi-tơ-ra-sê-na chiếm được Phù Nam và bắt thần phục. Ông ta mất, con là I-sa-na-sê-na nối nghiệp…”. [18, tr.226] Đánh dấu khởi đầu cho thời kỳ Ăng-co là khi ”Campuchia lâm vào tình trạng chia rẽ và ngưng trệ do chế độ thống trị của người Gia-va gây nên. Trong nước có nhu cầu khôi phục sự thống nhất và tự chủ... Giay-a-vác-man II, vốn thuộc hoàng tộc Cam-pu-chia, đã phải bỏ chạy sang Gia-va khi nước nhà có tranh chấp nội bộ và ngoại xâm, đã nhân cơ hội này trở về nước, tập hợp lực lượng đấu tranh và lên ngôi vua năm (năm 802).“[18, tr.230-231], đánh dấu một thời kỳ huy hoàng trong giai đoạn lịch sử kéo dài từ năm 802 đến năm 1.434 (hơn 1000 đền đài được xây dựng, nổi tiếng và được UNESCO công nhận phế tích Angkor là di sản thế giới). “Từ nữa thế kỷ XV, Cam-pu-chia bước vào thời kỳ suy thoái nhanh chóng... Vương quốc của người Thái - Thống nhất vào giữa thế kỷ XIV - đã mạnh lên, dồn dập tấn công, cướp phá và lấn đất của Cam-pu-chia trong nữa sau thế kỷ XV và suốt thế kỷ XVI.“ [18, tr.246] “Đầu thế kỷ XVII, trước sự uy hiếp dữ dội của người Thái, Cam-pu- chia hướng tới kết thân và dựa vào người Việt. Năm 1.622, vua Campuchia tăng thêm quan hệ hòa hiếu và kết hôn với một công chúa người Việt.“ [18, 11
  17. tr.247]. Tuy nhiên, chỉ yên ổn hơn 30 năm thì nội bộ quý tộc lại tranh giành gây mâu thuẫn trong hoàng gia, một bên theo Xiêm, một bên theo Việt. Trong quyển Chế độ Công đền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh, Nguyễn Đình Đầu đã dẫn lại bài Mạc Cửu và Chúa Nguyễn ở Hà Tiên của Trần Kinh Hòa, trong tạp chí Văn hóa Á Châu, Và Phan Khoang, sđd, tr.423: “Nguyên Mạc Cửu là người châu Lôi tỉnh Quảng Đông, trước làm chủ thuyền buôn, kinh doanh lớn, thường lui tới Lữ Tống (đảo Lu-Zon của Phi-lip-pin), Chà Và (đảo Java của In-đô-nê-xi-a), Chân Lạp (Cam-pu-chia và Nam bộ ngày nay). Khi thấy nhà Minh hết hy vọng phục hưng đất nước từ tay thống trị người Mãn Thanh, Mạc Cửu sang ở hẵn Chân Lạp, khoảng năm 1680, và được nhận làm quan tại triều. Song chính quyền Chân Lạp lúc đó thường chia rẽ cạnh tranh nhau và bị nước Xiêm can thiệp dòm ngó, nên Mạc Cửu xin tới lập nghiệp trên cửa biển Pe1am (tức Phương Thành) thuộc tỉnh Kham (ta gọi là Màng Khảm). Nơi đây thường có người buôn bán ngoại quốc tụ họp và chung quanh đã có lưu dân lác đác tới khẩn hoang. Mạc Cửu mở một sòng bạc để lấy sâu, mở phố xá, xây thành trên bờ biển và chiêu tập thêm lưu dân tới ở các nơi Phú Quốc, Lũng Kỳ (còn gọi Trũng Kè, Lũng Cả, Réam), Cần Bột (Campốt), Rạch Giá, Luống Cày, Hương Úc (tức Vũng Thơm hay Kompong-som) và Cà mau để lập thành 7 xã thôn. Tương truyền rằng ở Phương Thành có tiên thường hiện ra trên sông, nên mới đặt tên là Hà Tiên" [8], sau này có ý kiến cho rằng Mạc Cửu đặt tên Hà Tiên là do nổi nhớ mong quê hương mà thành. Nguyễn Đình Đầu cũng dẫn ở đoạn tiếp theo từ Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu, Nguyễn Bá Trác phụng biên tập, Khải Định năm thứ 10 (1925) ấn hành, Bửu Cầm... Trương Bửu Lâm phiên địch, Sài Gòn 1963, tr.303: “Tuy nhiên bọn cướp biển và chính quyền Xiêm thường tới đốt phá và quấy nhiễu Hà Tiên, nên muốn được sinh tồn, Mạc Cửu xin thần phục Chúa Nguyễn. 12
  18. Chúa Nguyễn Phúc Chu chấp thuận, trao cho Mạc Cửu chức Tổng binh và ấn thụ để tiếp tục cai quản Hà Tiên. Từ đó, tức năm 1708, Hà Tiên thuộc bản đồ Việt Nam, tuy ruộng đất thì đã do lưu dân khẩn hoang từ lâu trước nữa".[8] Mặc dù có nhiều biến cố tan tóc do quân Xiêm xâm lược gây nên vào thời đại dòng họ Mạc cai quản (1718, 1771 và 1833), nhưng các dân tộc anh em gồm Kinh, Hoa, Khmer, Philippin ở Hà Tiên vẫn tái lập, duy trì và phát triển vững bền cho đến ngày nay. 1.1.2. Sự du nhập và phát triển của Phật giáo ở Hà Tiên - Sự du nhập và phát triển "... người Ấn Độ - có lẽ đã đến đây từ đầu công nguyên - đã tham gia một phần tích cực vào sự phát triển kinh tế, văn hóa và chính trị của các quốc gia Phù Nam. Những người Ấn này có thể với những lý do và thời gian khác nhau, nhưng đa số chắc là thương nhân, những người tu hành, đã đến đây làm ăn sinh sống, truyền bá tôn giáo, đã gắn bó và đồng hóa với dân địa phương [18, tr.223]. Về tôn giáo, nếu thời kỳ này chưa ăn sâu trong xã hội, thì ít nhất triều đình Phù Nam cũng đã tin theo đạo Phật. Bia Võ Cảnh đã nói lên điều đó [18, tr.224]. Sau thời kỳ kết tập kinh điển lần đầu vào thế kỷ IV, Phật giáo mới thật sự khởi sắc phát triển mạnh mẽ, Hệ phái Phật giáo Nam tông chính thức truyền thừa từ Ấn Độ sang, nhiều người kể từ đây vừa tin theo tín ngưỡng vừa tin theo đạo Phật. Đến thế kỷ XVII bắt đầu có sự bám rễ của hệ phái Phật giáo Bắc tông. Nhiều tư liệu chứng minh rằng, có nhiều vị sứ giả, nhà nghiên cứu phía Bắc đã đi qua đây và để lại nhiều tư liệu lịch sử có giá trị, rất tiếc không ai ở lại xây dựng niềm tin tôn giáo của mình ở nơi đây. Mạc Cửu là người đã dừng chân lập trấn và mang theo tín ngưỡng Trung Quốc và Phật giáo Bắc tông vào nơi này. Cũng cùng thời kỳ này, có tài liệu minh chứng sự có mặt của một linh mục Công giáo đã có mặt tại đây nhưng không rõ đã làm gì và không có 13
  19. dấu tích để lại, Công giáo chỉ khởi sắc từ những năm 1960 về sau. Đến đầu thế kỷ XX dần xuất hiện các tôn giáo nội sinh là Phật giáo Hòa Hảo, Cao đài, Phật đường Nam tông Minh sư đạo, Tịnh độ cư sĩ. Riêng Phật giáo, các di tích để lại từ thời cận đại đến nay cho thấy Phật giáo ở Hà Tiên trong thế kỷ XVII có thể hình thành hai chùa, đó là chùa Thiên Trúc và chùa Phù Dung. Sang thế kỷ XVIII xuất hiện hai chùa, là chùa Tam Bảo và Tiên Sơn. Từ thế kỷ XX xuất hiện đông đảo các chùa khác và các tôn giáo khác. Ở ngôi Thiên Trúc Tự, vào những năm 1960-1963, dưới thời trụ trì Pháp Kiên, trong lúc trùng tu lại ngôi chùa đã tìm thấy một số viên gạch ghi ký tự Khmer số 1616 dưới Bồ Đoàn, nơi pho tượng Phật lớn ngồi. Tượng Phật Lớn bên trong ngôi Chính điện là Phật Thích Ca ngồi trên Bồ Đoàn có gương mặt, dáng ngồi giống như các tượng Phật của Thái Lan được bảo tồn trong viện Bảo tàng tại Bangkok. Những người hiểu biết cho hay: Thời Mạc Thiên Tích có hai vị hoàng tử Xiêm lưu vong tại Việt Nam, lưu ở xứ Hà Tiên một thời gian rồi trở về nước phục vị. Sau đó các vị hoàng tử cùng các nghệ nhân người Xiêm đã trở lại Hà Tiên tạo tác pho tượng Phật ở Chùa Hang (Hải Sơn Tự - thuộc xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang), sau đó là pho tượng Phật Lớn tại Thiên Trúc Tự. Bức tượng cao 2,6m, thân tượng ngồi kiết già từ gối trái sang gối phải 1,9m. Một bia đá Si- Ma với đường nét hoa văn theo Thái Lan, các chùa Nam tông trong vùng không có bia đá này. [11, tr.4] Từ các di chỉ trên, có thể suy đoán chùa này đã được thành lập từ trước năm 1616, vì người Khmer và Mã Lai ở đây đầu tiên và luôn hành đạo với đạo Phật (phái Nam tông). Nếu đúng là như thế thì đây là ngôi cổ tự đầu tiên ở xứ Hà Tiên, theo hệ phái Phật giáo Nam tông có ảnh hưởng văn hóa Thái Lan. Tuy nhiên, trải qua trên 400 năm, thời gian ấy khá dài so với nhiều thế 14
  20. hệ trụ trì chưa rõ tung tích, nhiều thời gian bị bỏ hoang phế, ngôi Thiên Trúc Tự chưa tìm được tư liệu chứng minh nhiều giai đoạn phát triển hưng thịnh của chùa, rất cần có sự nghiên cứu sâu thêm để chứng minh lịch sử diễn ra. Niên đại ngôi chùa cổ thứ hai có thể là chùa Phù Dung ở núi Đề Liêm, trước tháp hòa thượng Ấn Đàm mất năm 1662. Hiện tại nơi này còn nền chùa cũ, đã khai quật được lư đồng, chén cổ, kè đá ghi thời Mạc Cửu. Qua ba lần bị giặc Xiêm tàn phá, ngôi cổ tự đã bị hoang phế và bỏ hoang cho đến ngày nay chỉ còn thấy nền chùa. Nói “Tiêu tự thần chung - Tiếng chuông tĩnh mịch” là tiếng chuông từ chùa này vọng ra hướng Bắc có hào quân sự, có chợ nhỏ ghe tàu từ đầm Đông Hồ vào hướng Rạch Ụ. Năm 1846, sau khi khi đánh đuổi quân Xiêm, Tổng đốc An Hà là Doãn Uẩn đã xin triều đình cho cất lại ngôi chùa khác, vì ở chùa cũ không còn tiền nhân, chẳng ai trông coi nữa. Tổng đốc Doãn Uẩn cùng nhân dân xã Mỹ Đức, huyện Hà Châu lập ngôi chùa mới ngay tại nền dinh thự của ông Mạc Thiên Tích ở phía bắc núi Bình San, và ông đã lấy chữ đầu của Phù Dung và chữ giữa của Chiên Anh Các ghép lại đặt tên ngôi chùa mới là Phù Anh. Không lâu sau, đối chiếu với úy của vua Thiệu Trị thì chữ Dung bị phạm úy tên của vua nên đổi lại là Cừ, trở thành tên Phù Cừ. Theo Đại Nam nhất thống chí: “Chùa Phù-cừ. Ở chân núi Phù-cừ xã Mỹ-đức huyện Hà Châu,…; năm Thiệu Trị thứ 6 (1856), nhân dân tỉnh hạt xây sửa lợp ngói, …, theo núi dựng nhà, án tuệ nghiêm trang, cửa thiền tịch mịch, cũng là 1 nơi danh thắng.” [17, tr.107] Ngôi chùa cổ thứ ba, chính là ngôi chùa Tam Bảo của gia đình họ Mạc. Năm 1730, “Ở huyện Hà Châu; nguyên xưa Mạc-cửu làm Thống-Binh ở Hà- tiên lập ra; mẹ ông là Thái phu-nhân hơn 80 tuổi mộ Phật đến ở, sau bà tọa- hóa (mất) ở trước bàn Phật. Mạc-cửu nhân đó đúc tượng bằng đồng để thờ trong chùa, nay vẫn còn” [17, tr.107]. Cũng như lịch sử thăng trầm của Hà Tiên, có nhiều giai đoạn gặp chiến tranh gián đoạn, “Đến đời Gia Long 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2