intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Phật giáo tỉnh Bến Tre thế kỷ XVIII - XIX

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:145

51
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học "Phật giáo tỉnh Bến Tre thế kỷ XVIII - XIX" trình bày các nội dung chính sau: Khái quát địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội Bến Tre thế kỷ XVIII - XIX và Phật giáo tỉnh Bến Tre thế kỷ XVIII; Phật giáo tỉnh Bến Tre thế kỷ XIX; Đặc thù, thành tựu, hạn chế và việc khắc phục hạn chế, phát huy những tích cực của Phật giáo tỉnh Bến Tre trong thế kỷ XVIII, XIX.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Phật giáo tỉnh Bến Tre thế kỷ XVIII - XIX

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI QUẢNG TRỌNG MẢNH (Thích Xương Tâm) PHẬT GIÁO TỈNH BẾN TRE THẾ KỶ XVIII - XIX LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC HÀ NỘI, 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI QUẢNG TRỌNG MẢNH (Thích Xương Tâm) PHẬT GIÁO TỈNH BẾN TRE THẾ KỶ XVIII - XIX Ngành : Tôn giáo học Mã số : 8.22.90.09 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN HỒNG DƯƠNG HÀ NỘI, 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi là Quảng Trọng Mảnh (tên thường gọi theo Phật giáo: Thích Xương Tâm), người thực hiện luận văn này. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, chưa được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Những trích dẫn cần thiết trong luận văn và nguồn gốc văn bia cùng các bản dịch văn bia được tôi chú thích rõ ràng và trung thực. Tác giả luận văn Quảng Trọng Mảnh
  4. LỜI CẢM ƠN Người viết luận văn thành thật tri ân Chư Tôn giáo phẩm, Đại đức Tăng, Ni trụ trì các tự viện tỉnh Bến Tre, các bậc tiền bối, những nhà nghiên cứu đã dày công tạo nền tảng, để người viết luận văn có đủ tâm huyết thực hiện công trình nghiên cứu khoa học, hầu giúp cho thế hệ mai sau được biết phần nào về quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo tỉnh Bến Tre, chí ít là biết được vài sự kiện, con người Phật giáo trong lịch sử phát triển tỉnh nhà. Cuối cùng, em thành thật tri ân quý Thầy, Cô, những ân nhân Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam suốt thời gian qua đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ để em hoàn thành công trình nghiên cứu “Phật giáo tỉnh Bến Tre thế kỷ XVIII - XIX”. Kính chúc quý thầy, cô thành tựu sự nghiệp, an lành trong cuộc sống. Bến Tre, ngày 04 tháng 4 năm 2021 Học viên Quảng Trọng Mảnh
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA XÃ HỘI BẾN TRE THẾ KỶ XVIII - XIX VÀ PHẬT GIÁO TỈNH BẾN TRE THẾ KỶ XVIII ....................................................................................... 7 1.1. Khái quát địa lý, kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội Bến Tre thế kỷ XVIII - XIX .............................................................................................................. 7 1.2. Toát yếu về Phật giáo, Phật giáo Việt Nam thời kỳ đầu và Phật giáo tỉnh Bến Tre thế kỷ XVIII ............................................................................ 14 Chương 2. PHẬT GIÁO TỈNH BẾN TRE THẾ KỶ XIX ........................ 30 2.1. Nguồn gốc hình thành ngôi chùa và hình thức thờ cúng của các ngôi chùa trong thế kỷ XIX tại Bến Tre............................................................... 30 2.2. Nguồn gốc truyền thừa và hoạt động tín ngưỡng của Tăng, Ni, Phật tử tỉnh Bến Tre thế kỷ XIX .............................................................................. 44 2.3. Cách thức tu học của Tăng, Ni, Phật tử ................................................ 50 Chương 3. ĐẶC THÙ, THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ VIỆC KHẮC PHỤC HẠN CHẾ, PHÁT HUY NHỮNG TÍCH CỰC CỦA PHẬT GIÁO TỈNH BẾN TRE TRONG THẾ KỶ XVIII, XIX ....................................... 55 3.1. Một số đặc thù ....................................................................................... 55 3.2. Một số thành tựu nổi bật ....................................................................... 67 3.3. Những mặt hạn chế ............................................................................... 72 3.4. Khắc phục hạn chế và phát huy những tích cực của một số Tăng sĩ trẻ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. .................................................................. 74 KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BTS : Ban Trị sự ĐĐ : Đại đức GHPGVN : Giáo hội Phật giáo Việt Nam GT : Giáo thọ H : huyện HT : Hoà thượng NS : Ni sư PG : Phật giáo SC : Sư cô SCN : sau Công nguyên T : tỉnh TCN : trước Công nguyên TK : Thế kỷ TT : Thượng toạ VND : Việt Nam đồng
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phật giáo từ khi được du nhập vào Việt Nam đến nay đã luôn đồng hành cùng mọi thăng trầm của dân tộc. Là một thực thể sống động, Phật giáo Việt Nam cũng có khi thịnh, lúc suy, tuy nhiên mạch ngầm trí tuệ, từ bi, dũng mãnh vẫn là suối nguồn âm ỉ chảy trong mạng mạch văn hóa dân tộc, trở thành thành tố không thể thiếu trong việc định hình bản sắc và sức sống của dân tộc Việt. Tại vùng đất Bến Tre cũng vậy, từ khi có mặt đến nay, Phật giáo đã ghi dấu ấn vào công cuộc kiến thiết và góp phần tạo dựng nên giá trị và sức mạnh của Phật giáo Bến Tre. Đặc biệt, nhờ những thể nền mà Phật giáo Bến Tre xác lập từ thế kỷ XVIII - XIX, tại đây đã trở thành mảnh đất hun đúc, khơi nguồn nên một thời đại hồi sinh Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ XX mà Tổ Lê Khánh Hoà người đi đầu trong Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam, góp phần làm rạng danh Phật giáo nước nhà, đồng hành cùng sự phát triển của Phật giáo thế giới. Từ Bến Tre, ngọn lửa chấn hưng do Tổ Lê Khánh Hòa khởi thắp, phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam được mở rộng ra khắp cả ba miền Bắc, Trung, Nam kỳ. Đây cũng là thời kỳ dân tộc sống trong lầm than, nô lệ nhưng nhờ những mạch nguồn văn hóa tôn giáo mà Phật giáo là một tiêu biểu đã đồng hành cùng dân tộc đi qua năm tháng cam go đến bến bờ độc lập, tự do. Vì vậy, “Ôn cố, tri tân” là việc làm cần thiết không chỉ minh định những thành tựu, những đóng góp to lớn của Phật giáo Bến Tre trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, bảo tồn, phát huy nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc mà còn tìm ra những nguyên nhân để phát huy tính tích cực và khắc phục những hạn chế của Phật giáo Bến Tre trong hiện tại và tương lai, nhằm góp phần giúp Phật giáo tỉnh Bến Tre tiếp tục phát triển trong công cuộc phụng đạo, giúp đời. Trong thời gian qua, tuy có những công trình nghiên cứu về Phật giáo tỉnh Bến Tre nhưng những công trình này chỉ tập trung vào từng nét riêng biệt mà chưa thống kê, bao quát các phương diện của Phật giáo tỉnh Bến Tre. Vì vậy, 1
  8. công trình này hướng đến việc hoàn thành nghiên cứu chuyên biệt về Phật giáo tỉnh Bến Tre từ thời kỳ đầu du nhập đến hết thế kỷ XIX. Qua đó, cũng nhằm góp phần giáo dục tinh thần phụng đạo, yêu nước cho thế hệ trẻ hiện nay và mai sau. Từ những lý do trên, người viết luận văn chọn đề tài “Phật giáo tỉnh Bến Tre thế kỷ XVIII - XIX” làm luận văn Thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu Phật giáo là một đề tài luôn được giới Trí thức, các nhà Học giả quan tâm, là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống thường nhật. Vì thế Phật giáo từ khi có mặt tại vùng đất Bến Tre đến nay tuy không nhiều nhưng cũng đã có những nhà trí thức, học giả tìm hiểu, ghi chép. Năm 1965, Huỳnh Minh biên soạn “Kiến Hòa xưa và nay” có đề cập đến Phật giáo. Tuy nhiên, tác giả chỉ đề cập đến một vài ngôi chùa và vài vị Tăng tại tỉnh Bến Tre phần lớn là trong thế kỷ XX, như: 100 tượng Phật chùa Trà Nồng; 5 tượng Phật cổ với chùa Linh Phước; Hòa thượng Chơn Tịnh với chùa Hội Tôn; Thượng tọa Giác Nhiên, sư Từ Huệ, 02 Tịnh Xá Ngọc Trước với phái Du tăng Khất sĩ; Hòa thượng Hoằng Khai với chùa Hội Phước; chùa Vạn Quốc ngôi Tổ đình Ni giới tại Bến Tre. Tuy nhiên, một số mục đã nêu ra cũng chỉ là một số mẫu chuyện truyền thuyết, không thể hiện đầy đủ những thông tin cần thiết về nghiên cứu một tôn giáo tại địa phương và đã phạm một số lỗi về tính chính xác của thông tin v.v... Năm 2001, Thạch Phương, Đoàn Tứ và nhiều học giả khác, biên soạn “Địa chí Bến Tre”, đã dành một chương đề cập đến tín ngưỡng, tôn giáo ở Bến Tre trong đó có đề cập đến Phật giáo. Tác giả của Địa chí viết về đạo Phật tại tỉnh Bến Tre vỏn vẹn chỉ có 4 trang (933-937), nội dung đề cập sơ lược về ngôi chùa đầu tiên của Bến Tre là chùa Hội Tôn, kế đến là 4 ngôi chùa khác, trong đó nói nhiều về Hòa thượng Lê Khánh Hòa với chùa Tuyên Linh. Sau cùng là Phật giáo tham gia hoạt động cách mạng. Tuy nội dung chỉ có 4 trang nhưng đã chứa một số thông tin chưa chính xác về Phật giáo. Năm 2001, Hoà thượng Thích Hoằng Đạt và ông Trần Thanh Bảo biên 2
  9. soạn “Lịch sử những ngôi chùa Phật huyện Châu Thành – tỉnh Bến Tre”, nhằm từng bước thực hiện công trình nghiên cứu Phật giáo tỉnh Bến Tre. Nội dung tập sách ghi chép về quá trình hình thành, phát triển các ngôi chùa, hoạt động Phật sự của Tăng, Ni, Phật tử, tiểu sử và sự truyền thừa của các vị Tăng, Ni Phật giáo trong huyện Châu Thành. Có thể nói tác phẩm này đã nói rõ nhất, đủ nhất về 1/9 Phật giáo tại tỉnh Bến Tre, vì thế tập sách chưa nói lên được hết diện mạo của Phật giáo tỉnh Bến Tre. Năm 2010 Hoà thượng Thích Hoằng Đạt viên tịch, công trình nghiên cứu trên tạm dừng đến nay chưa có người tiếp tục nghiên cứu. Năm 2011, Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bến Tre biên soạn “Truyền đăng tục diệm”, tập sách chỉ đề cập đến 07 Giới đàn truyền giới cho những người xuất gia chính thức trở thành tu sĩ Phật giáo tỉnh Bến Tre thời gian 1981-2011, tiểu sử 04 vị danh tăng đất Bến Tre (Tổ Lê Khánh Hòa, Hòa thượng Thích Hồng Liên, Hòa thượng Thích Giác Thanh, Hòa thượng Thích Thiện Tín) và một số bài viết về ý nghĩa, tầm quan trọng của giới luật Phật giáo trong đời sống tu sĩ. Năm 2017, Viện Nghiên cứu Tôn giáo và Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổ chức 02 lần Hội thảo Khoa học về “Hòa thượng Khánh Hòa với Phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam”, đã thu nhận 72 bài tham luận từ các vị Giáo phẩm Tăng, Ni Phật giáo, các vị Phó Giáo sư, Tiến sĩ, những nhà học giả, những nhà Nghiên cứu khắp nơi trên đất nước gửi đến. Tuy nhiên những tham luận trên chỉ tập trung nghiên cứu sâu về Phật giáo Việt Nam nói chung Phật giáo Bến Tre nói riêng trong Phong trào chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX, vì thế những bài nghiên cứu này chỉ nói đến một phần nhỏ của Phật giáo tỉnh Bến Tre trong thế kỷ XX. Ngoài những tác phẩm đã nêu, còn nhiều tác phẩm khác của những học giả, nhà nghiên cứu, nhà du lịch, nhà văn v.v... có đề cập đến một vài chi tiết có liên quan đến Phật giáo tại địa bàn tỉnh Bến Tre, như: Việt Nam danh lam cổ tự, Danh lam nước Việt tác giả Võ Văn Tường; Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam tác giả Nguyễn Duy Oanh; Chuyên Khảo về tỉnh Bến Tre người dịch Nguyễn Nghị - Nguyễn Thanh Long; Sổ tay hành hương đất phương Nam chủ 3
  10. biên Huỳnh Ngọc Trảng; Lược sử Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam tác giả Thích Huệ Thông; Vĩnh Long Phật giáo sử lược tác giả Trí Không, v.v... rất nhiều những tác phẩm đó có đề cập đến một vài chi tiết quan trọng có liên quan đến Phật giáo vùng đất Bến Tre đã góp phần tạo nên diện mạo của Phật giáo miền Tây Nam Bộ. Tuy nhiên, chỉ đề cập mà không nói rõ và phần nhiều là trong thế kỷ XX. Do vậy, việc nghiên cứu Phật giáo tỉnh Bến Tre thành một hệ thống khoa học, đầy đủ các phương diện là điều cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích: Luận văn nghiên cứu Phật giáo Bến Tre từ đầu thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX trên các phương diện cơ bản: nguồn gốc và hoạt động của các ngôi chùa, lịch sử truyền thừa tông phái và các hoạt động Phật sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Khái quát chung về địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội Bến Tre thế kỷ XVIII - XIX và Phật giáo tỉnh Bến Tre thế kỷ XVIII; - Làm rõ tình hình Phật giáo Bến Tre trong thế kỷ XIX trên các phương diện cơ bản: lịch sử hình thành và hoạt động của các ngôi chùa; nguồn gốc truyền thừa và tín ngưỡng, cách thức tu học của Tăng, Ni, Phật tử; - Một số nhận xét về đặc thù, thành tựu, hạn chế của Phật giáo tỉnh Bến Tre thế kỷ XVIII – XIX và cách khắc phục hạn chế của Tăng, Ni Phật giáo tỉnh Bến Tre cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Cơ sở tự viện, Tăng, Ni, Phật tử và những hoạt động của tín đồ Phật giáo trong tỉnh Bến Tre. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn khảo sát các cơ sở tự viện, Tăng, Ni, Phật tử, những tư liệu ghi chép và hiện vật lịch sử của Phật giáo tại tỉnh Bến Tre trong 200 năm (1700-1900). Thực tế, nghiên cứu tập trung vào 100 năm của thế kỷ XIX (1800-1900), gồm những hoạt động Phật giáo trong 47 ngôi chùa, còn lại là 100 năm trong thế kỷ XVIII, khi đó Phật giáo từ nơi khác mới truyền vào vùng đất Bến Tre nên những hoạt động ít ỏi chỉ diễn ra trong một vài ngôi chùa. 4
  11. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Vận dụng lý thuyết cơ cấu chức năng tôn giáo để làm rõ những chức năng xã hội của Phật giáo trong niềm tin, thực hành và cộng đồng. Cụ thể là, với cách tiếp cận lý thuyết cấu trúc chức năng tôn giáo sẽ thấy rõ tôn giáo là một tiểu hệ thống trong hệ thống xã hội, bao gồm các thành phần bên ngoài của tôn giáo như loại hình tôn giáo, hệ thống tôn giáo, các tôn giáo và các thành phần bên trong của mỗi tôn giáo như niềm tin, giáo lý, thực hành và cộng đồng tôn giáo. Tất cả các yếu tố này có liên hệ chặt chẽ với nhau và với môi trường xung quanh. Đối với luận văn, vận dụng cách tiếp cận này sẽ cho thấy toàn bộ lịch sử Phật giáo Bến Tre, từ sự hình thành, biến đổi và tương tác với bối cảnh chung của lịch sử Bến Tre và khu vực đến các chi tiết về ngôi chùa, cách thức thực hành, hoạt động thờ cúng, sự truyền thừa, đời sống của tăng ni, Phật tử cũng như vai trò của Phật giáo Bến Tre trong lịch sử. Tất cả gắn kết chặt chẽ với nhau, chi phối nhau và tác động đến các thiết chế xã hội, ảnh hưởng đến sự vận động và biến đổi của xã hội nói chung, tỉnh Bến Tre nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu sử học, khảo sát tài liệu lịch sử đã ấn hành và hiện vật lịch sử như tượng Phật, văn bia, pháp khí, đồ thờ cúng, ký chú trên hiện vật trang trí... tại 76 ngôi chùa thành lập thế kỷ XVIII, XIX trong địa bàn tỉnh Bến Tre, để thu thập những thông tin chính xác nhất về Phật giáo tỉnh Bến Tre trong thế kỷ XVIII - XIX. - Nghiên cứu “điền dã dân tộc học”, khảo sát tận nơi 76 ngôi chùa trong tỉnh và tìm hiểu những thông tin trên sách, trang thông tin điện tử 10 ngôi chùa ngoài tỉnh Bến Tre, để thu thập chứng cứ, thông tin từ thực tế địa phương. - Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh, khảo sát số liệu, dữ liệu, dữ kiện thông qua các tư liệu có sẵn như sách, báo, văn bia, ký chú trên hoành, phi, liễn đối. Từ đó tìm ra các yếu tố cần được giải quyết thông qua nghiên cứu của mình. 5
  12. - Sử dụng phương pháp “quan sát tham gia”, điều tra xã hội học qua bảng câu hỏi và phỏng vấn sâu các vị trụ trì, phật tử lớn tuổi tại 76 ngôi chùa thế kỷ XVIII - XIX trong tỉnh Bến Tre. - Sử dụng phương pháp so sánh để tìm ra những điểm giống và khác nhau giữa Phật giáo trong tỉnh và Phật giáo tỉnh bạn; giữa Phật giáo và các tôn giáo bạn vào thời điểm bấy giờ. - Áp dụng các lý thuyết văn hoá học và nhân học văn hoá để nhận diện các giá trị Phật giáo, sự tương tác giữa Phật giáo với các điều kiện môi trường (tự nhiên, chính trị - xã hội), phân tích chức năng xã hội của Phật giáo, phân tích sự biến đổi của Phật giáo tại tỉnh Bến Tre trong thế kỷ XVIII, XIX. Đặc biệt người viết luận văn là người đã từng sinh sống trong môi trường tôn giáo tại địa phương, nên việc tham gia, trãi nghiệm, tìm hiểu là việc hàng ngày, vì vậy người viết luận văn chỉ còn đến tận nơi khảo sát thu thập chứng cứ và vận dụng những phương pháp đã nêu làm rõ đối tượng nghiên cứu trong không gian, thời gian nhất định là sáng tỏ sự việc. 6. Ý nghĩa lý luận và khoa học của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn là nguồn tài liệu khoa học giúp cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bến Tre hoàn thành công trình nghiên cứu Lịch sử Phật giáo tỉnh Bến Tre. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những nhà nghiên cứu tiếp theo trong công việc học tập và nghiên cứu vùng đất Bến Tre nói chung, Phật giáo tỉnh Bến Tre nói riêng. 6.2. Ý nghĩa khoa học: Qua nghiên cứu đề tài có thể giúp cho Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bến Tre phát huy tốt những đặc thù và ưu điểm vốn có của Phật giáo tại địa phương, nhằm thực hiện phương châm “Đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội”, góp phần xây dựng xã hội lành mạnh, an vui, hạnh phúc trong thời đại mới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn kết cấu gồm: 3 chương, 9 tiết. 6
  13. Chương 1 KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA XÃ HỘI BẾN TRE THẾ KỶ XVIII - XIX VÀ PHẬT GIÁO TỈNH BẾN TRE THẾ KỶ XVIII 1.1. Khái quát địa lý, kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội Bến Tre thế kỷ XVIII - XIX 1.1.1. Khái quát địa lý tỉnh Bến Tre Địa danh Bến Tre: Địa danh Bến Tre hiện nay những nhà nghiên cứu trước năm 2010 đưa ra hai quan điểm: Quan điểm thứ nhất: Bến Tre trước kia là Sóc của người Khmer gọi là Srok kompong Trey hay Srok kompong Treay, gọi tắt là Srok Treay (Sóc Tre), từ trey hay treay có nghĩa là cá, như: Trey Prek - cá sông; Trey Sramot - cá biển; Trey Damrey - cá voi ... Như vậy, Sork kompong trey (treay) có nghĩa là Xứ Cá. Lý do xứ này trước kia có nhiều cá nên hiện nay còn nhiều địa danh liên quan đến cá như: cầu Cá Lóc, cầu Cá Trê, Cái Bông (cá lóc bông) ... Điều đó còn minh chứng qua nhiều câu ca dao: “Sông Bến Tre nhiều hang cá ngát …”; “Chợ Ba Tri thiếu gì cá biển …”… Nhưng về sau người Khmer gọi sai theo người Việt từ Srok Treay (xứ có nhiều cá) thành Bến Tre (bến có nhiều tre) [52]. Quan điểm thứ hai: Bến Tre ngày trước được người Khmer gọi là Sóc-tre (xứ tre), vì có nhiều giồng phủ đầy tre rải rác trong toàn tỉnh, ghe thuyền ghé đây chở tre, mà ra danh từ Bến Tre. Đặt tên địa danh tương tự như đây có rất nhiều như: Chợ Bến Tre, rạch Bến Tre, Giồng Tre ... [50, tr. 13]. Qua khảo cứu sách Chân Lạp Phong Thổ Ký, Gia Định Thành Thông Chí và Địa Chí Bến Tre, người viết luận văn thấy rằng: Thứ nhất, từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XIII, người Chân Lạp đã dần dần từ bỏ vùng đất Thủy Chân Lạp trở thành hoang phế trong đó có đất Bến Tre ngày nay. Thế kỷ XIII đến thế kỷ XVII văn hóa một thời rực rỡ của vùng đất này đã trở thành rừng vắng hoang vu “nhiều con đường giốc đầy tre chạy dài hàng trăm lí” [34, tr. 80]. Với chính sách 7
  14. Nam tiến của các chúa Nguyễn, đầu thế kỷ XVIII người dân nơi khác dần dần đến đây khai hoang cư trú trên những giồng cao [43, tr. 445]. Tháng 11 năm 1779, lần đầu tiên vùng đất Bến Tre ngày nay có tên tổng “Tân An” một trong 3 tổng thuộc châu Định Viễn, dinh Long Hồ [56, tr. 25] và một phần đất thuộc dinh Trấn Định [56, tr. 27], phủ Gia Định. Suốt thời gian từ năm 1780 đến 1866 vùng đất Bến Tre ngày nay dầu có thay đổi, thêm, bớt địa danh nhưng không có một địa phương nào có tên là “Bến Tre”. Năm 1867, lần đầu tiên vùng đất Bến Tre ngày nay có tên Sở tham biện “Bến Tre” (arrondissement Bentre), hạt Bến Tre. Năm 1900 hạt Bến Tre đổi thành tỉnh Bến Tre [56, tr. 28], vùng đất cù lao An Hoá vẫn còn là 2 tổng (Hoà Quới, Hoà Thanh) thuộc huyện Kiến Hoà, phủ Kiến An, tỉnh Mỹ Tho [56, tr. 29]. Năm 1945, tỉnh Bến Tre đổi thành tỉnh Đồ Chiểu. Năm 1956, chính quyền Sài Gòn đổi tỉnh Đồ Chiểu thành tỉnh Kiến Hoà. Tháng 02 năm 1976, tỉnh Kiến Hoà đổi lại thành tỉnh Bến Tre, tên này sử dụng cho đến ngày nay [56, tr. 31]. Thứ hai, các nhà nghiên cứu trước đây cho rằng từ Bến Tre bắt nguồn từ Sóc-tre của người Khmer là Xứ Cá thì chưa chắc xứ Bến Tre đã nhiều cá hơn Đồng Tháp, Cà Mau. Cũng vậy, cho rằng ở đây có nhiều tre nên ghe người buôn tre đến mua bán đông thành bến thì chưa chắc người buôn bán tre đã nhiều hơn những người buôn bán hải sản như cá, tôm, cua, dừa, tràm, mắm… Thứ ba, ngày nay những lũy tre không còn do thời gian, nhu cầu phát triển kinh tế, nhu cầu đời sống ... người dân đã thay những luỹ tre thành những bờ dừa, tuy nhiên khắp tỉnh những nơi giồng cao vẫn còn những bờ tre rải rác, nhất là vùng Ba Tri, Mỏ Cày, Thạnh Phú, Giồng Trôm. Qua những chứng cứ trên, người viết luận văn cho rằng: Từ “Bến Tre” không phải của người Khmer, người Kinh hay người Hoa đặt cho, mà năm 1867 người Pháp đã căn cứ vào Chân Lạp Phong Thổ Ký của Chu Đạt Quan và Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức mà đặt tên “hạt Bến Tre”, đến năm 1900 hạt Bến Tre đổi thành tỉnh Bến Tre. Địa lý: Tỉnh Bến Tre là một trong 13 tỉnh/thành của Đồng Bằng sông Cửu 8
  15. Long hiện nay, có hình rẻ quạt, được hợp thành bởi ba cù lao lớn (Bảo, Minh, An Hoá) do phù sa của bốn nhánh sông Cửu Long (Tiền Giang, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên) bồi tụ nên, đầu nhọn nằm ở thượng nguồn, các nhánh sông lớn giống như nan quạt xoè rộng ở phía Đông, diện tích tự nhiên 2.315,01 km2. Phía Đông giáp biển Đông chiều dài bờ biển 65 km, phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Long và phía Nam giáp tỉnh Trà Vinh sông Cổ Chiên là ranh giới, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang sông Tiền là ranh giới. Đường bộ từ trung tâm thành phố Bến Tre đến Thành phố Hồ Chí Minh dài 86 km [56, tr. 23]. Địa hình giao thông: Bến Tre là một tỉnh hạ nguồn sông Mê Kông, 9 cửa (Cửu Long) chảy ra biển Đông trong đó 4 cửa nằm trên địa bàn tỉnh Bến Tre, từ 9 cửa sông này có một hệ thống kênh, rạch chằng chịt đan xen vào nhau chảy khắp ba dải cù lao, rất thuận tiện cho thuỷ lợi và giao thông đường thuỷ nối liền từ Thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh Miền Tây. Ngoài giao thông đường thuỷ còn có hệ thống giao thông đường bộ nối các huyện với nhau, tạo nên giao thông thuận tiện đi khắp tỉnh cho đến các tỉnh lân cận như Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh [40]. Quá trình hình thành, thay đổi địa danh, địa giới tỉnh Bến Tre qua các thời kỳ: Lãnh thổ Bến Tre hình thành vào giai đoạn sau cùng của quá trình bồi tụ Đồng bằng sông Cửu Long và quá trình phân nhánh của sông Cửu Long [65, tr. 98]. Cách nay khoảng 4.500 năm, đất Bến Tre lộ lên trên mực nước biển [65, tr. 99]. Để có một địa hình trọn vẹn ba dải cù lao như ngày nay, tỉnh Bến Tre đã trải qua nhiều lần thay đổi địa danh, ranh giới với các tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long, cụ thể như sau: Thế kỷ thứ I - VII, là một phần đất thuộc vương quốc Phù Nam, người Trung Quốc gọi là nước Diệu Nghiêm. Thế kỷ thứ VII - XIII, thuộc vùng Thuỷ Chân Lạp của người Khmer [44]. Thế kỷ thứ XIII - XVIII, người Khmer của Vương quốc Chân Lạp bỏ vùng Thuỷ Chân Lạp thành hoang phế [33][34, tr. 80][76, tr. 345]. Năm 1757, vùng đất Bến Tre (Cù lao Minh và một phần lớn cù lao Bảo) ngày nay mới được sáp nhập vào dinh Long Hồ, phủ Gia Định. Năm 1779, vùng đất Bến Tre ngày nay lần đầu tiên có tên tổng Tân An, châu Định Viễn, dinh 9
  16. Long Hồ [56, tr. 25], gồm cù lao Minh và phần lớn cù lao Bảo; cù lao An Hoá là một phần đất tổng Kiến Hoà, huyện Kiến Khương, phủ Kiến An, dinh Trấn Định [56, tr. 27], thuộc phủ Gia Định. Năm 1808, tổng Tân An thăng lên thành huyện Tân An. Năm 1823, huyện Tân An chia làm huyện Bảo An (cù lao Bảo) và huyện Tân Minh (cù lao Minh) thuộc phủ Hoằng An, tỉnh Vĩnh Long [56, tr. 26]. Năm 1851 phủ Hoằng An đổi tên thành phủ Hoằng Trị [56, tr. 27]. Năm 1867, phủ Hoằng Trị đổi tên là hạt Bến Tre. Năm 1900 hạt Bến Tre đổi thành tỉnh Bến Tre [56, tr. 28], vùng đất cù lao An Hoá gồm 2 tổng (Hoà Quới, Hoà Thanh) thuộc huyện Kiến Hoà, phủ Kiến An, tỉnh Mỹ Tho [56, tr. 29]. Năm 1948, Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ quyết định cắt cù lao An Hoá thuộc tỉnh Mỹ Tho và 6 xã phần trên của cù lao Minh (từ sông Ba Lai đến sông Tiền Giang) thuộc tỉnh Vĩnh Long nhập vào tỉnh Bến Tre, từ đó tỉnh Bến Tre gồm 3 cù lao (Bảo, Minh, An Hoá) như hình thể tỉnh Bến Tre ngày nay [56, tr. 30]. Dân cư tỉnh Bến Tre Nguồn gốc dân cư: Theo ghi chép của Chu Đạt Quan, Lê Quý Đôn, Trịnh Hoài Đức thì phần đất Bến Tre sau gần 1.000 năm người Phù Nam và Khmer bỏ hoang phế (thế kỷ VIII – XVII) [34, tr. 80], đến giữa thế kỷ XVII thì lưu dân các nơi như người Minh Hương từ Trung Quốc, người Việt từ miền Bắc - miền Trung Việt Nam, binh lính, người trốn lính, tù nhân bị lưu đày, người có tội với triều đình, người có tiền của muốn lập nghiệp mới,... lần lượt đến định cư. Họ di cư đến Bến Tre chủ yếu bằng đường biển [76, tr. 345]. Buổi đầu họ sinh sống ở những giồng đất cao ráo, dân cư mỗi ngày thêm đông, lập nên những làng, thôn, trại [37, tr. 4]. Chỉ hơn 100 năm sau, vùng đất hoang vu đầy dã thú, cuối vùng sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên đã trở thành nơi sản xuất gạo, dừa, trái cây ngon nổi tiếng, thu hút số lượng người di cư đến càng nhiều vào thế kỷ XIX. Nguyễn Duy Oanh cho biết thống kê dân số tỉnh Bến Tre trong các năm 1859, 1879, 1899, 1929 như sau: 10
  17. Năm Dân số trong tỉnh Người Việt Người Hoa 1859 110.000 109.500 1879 163.000 161.000 2.000 (có 800 người Minh Hương) 1899 217.000 213.000 3.650 (có 1.150 người Minh Hương) 1929 315.500 309.000 6.500 (có 1.500 người Minh Hương) [53, tr. 47] Năm 2001, Thạch Phương - Đoàn Tứ cho biết: Năm 1983-1984, khảo sát 281 gia phả thành văn và những chuyện khẩu truyền, Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh với Sở Văn hoá - Thông tin Bến Tre ghi nhận: Số người định cư trước thế kỷ XVIII chiếm 3,6 %, trong thế kỷ XVIII chiếm 32,5 %, trong thế kỷ XIX chiếm 63,9 %. Nghiên cứu qua 112 gia phả cho thấy nguồn gốc cộng đồng dân di cư Bến Tre đa số người Miền Trung Việt Nam, đặc biệt từ phía Nam đèo Hải Vân trở vào: Gia đình quê gốc Số gia Gia đình quê gốc Số gia thuộc tỉnh đình thuộc tỉnh đình Quảng Ngãi 38 Nghệ An 5 Quảng Nam 19 Miền Bắc (không rõ tỉnh) 4 Thừa Thiên, Quảng Trị 17 Miền Trung (không rõ tỉnh) 4 Bình Định 11 Hà Đông 3 Quảng Bình 09 Nam Định 2 [56, tr. 247] Qua hai bảng thống kê trên cho thấy số dân cư trong địa bàn tỉnh Bến Tre ngày nay lúc đó không có người Khmer. Đặc điểm dân cư: Bến Tre là vùng Địa linh nhân kiệt, thông minh trong cuộc sống, cần cù trong lao động, bất khuất trong chiến đấu, gắn liền với tên tuổi nhiều nhân vật lịch sử - văn hóa mà dấu ấn để lại là những di tích, đền thờ, mộ cổ ... nổi bật như: Võ Trường Toản (? - 1792), một nhà giáo nổi tiếng, bậc thầy của nhiều danh nhân như: Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định ... [56, tr. 1149]; 11
  18. Phan Thanh Giản (1796-1867), vị Tiến sĩ đầu tiên của đất Nam kỳ [56, tr. 1150]; Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), một ngôi sao sáng trong nền văn học yêu nước ở Miền Nam nửa sau thế kỷ 19 [56, tr. 1156]; Nguyễn Thị Kim Ngân (1954-hiện nay), nữ Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của Việt Nam [19]; Nguyễn Thị Định (1920- 1992), Nữ tướng tài giỏi đầu tiên của Việt Nam [56, tr. 1232]; Sương Nguyệt Ánh (1864-1921), chủ bút tờ báo phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam (Nữ giới chung) [56, tr. 1169]; Phan Văn Trị (1830-1910), cuộc bút chiến của ông có thể xem như một trong những cuộc đấu tranh tư tưởng lớn nhất trong lịch sử văn học nước nhà [56, tr. 1159]; Trương Vĩnh Ký (J.B.Petrus Ký: 1837-1898) tác giả của hơn 100 tác phẩm về văn học, Khoa học tự nhiên, Khoa học xã hội [56, tr. 1163]; Hoà thượng Lê Khánh Hoà (1877-1947) người đầu tiên khởi xướng phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX [56, tr. 1179]… Câu chuyện ông Thái Hữu Kiểm đầu thế kỷ XIX đi kiện ông Cả Hạt có ông Trần Văn Tới theo làm chứng [54, tr. 225] tạo nên hình tượng Ông già Ba Tri tiêu biểu cho người Bến Tre cương trực, tôn trọng đạo lý - tình nghĩa, chống lại cường quyền, bảo vệ lẽ phải [26]. 1.1.2. Khái quát kinh tế - chính trị tỉnh Bến Tre Kinh tế: Bến Tre là một tỉnh nông nghiệp chiếm khoảng 65-70%, công nghiệp còn nhỏ lẻ và dịch vụ chưa phát triển [76, tr. 117]. Mạng lưới thương mại tập trung ở thành phố, các thị trấn và các chợ. Hoạt động xuất nhập khẩu có nhiều tiến bộ. Tiềm năng du lịch phong phú, từ du lịch sinh thái đến du khảo các di tích văn hoá lịch sử [76, tr. 140]. Chính trị: An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn và tuyến biên giới biển được giữ vững ổn định. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện nghiêm túc, quyết liệt ở các ngành, các cấp. Hoạt động liên kết, hợp tác và đối ngoại được quan tâm, với sự chú trọng hợp tác phát triển với các tỉnh, thành phố trong khu vực. Hoạt động ngoại giao nhân dân được tăng cường [20]. Tuy nhiên cũng có một số vấn đề nhỏ lẻ nhưng giải quyết kéo dài không dứt điểm, như: tranh chấp đất đai, trộm cắp, cướp giật, ma tuý, tai nạn giao thông [75, tr. 9]. 12
  19. 1.1.3. Khái quát Tín ngưỡng - tôn giáo tỉnh Bến Tre Tín ngưỡng: Đại đa số cư dân Bến Tre có nguồn gốc từ các tỉnh miền Trung Việt Nam di cư vào, họ bao gồm nhiều thành phần khác nhau, đông đảo nhất là nông dân nghèo khổ vì không chịu nổi cảnh áp bức, chiến tranh liên miên Trịnh - Nguyễn, rời bỏ quê hương đi tìm vùng đất tự do sinh sống; đông đảo thứ hai là những binh lính, tù nhân bị đày xa xứ. Ngoài những thành phần trên còn có những người có vật lực, vào vùng đất mới để khai phá, tạo sản nghiệp mới. Tuy được thiên nhiên ưu đãi, nhưng đất Bến Tre có những khó khăn, khắc nghiệt không ít. Những lưu dân đầu tiên vừa tiếp thu các luồng tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo khác mà họ đã tiếp nhận trên đường đi qua, vừa chống chọi với thú dữ, với thiên nhiên khắc nghiệt, nên việc cầu khẩn các thần linh che chở và nhiều loại hình tập tục tín ngưỡng, tôn giáo có điều kiện nảy sinh, phát triển [55]. Khảo sát thực địa sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo tại các cơ sở tôn giáo, đình, đền, phủ, miếu cho thấy 3 loại hình rõ rệt: Tín ngưỡng gia đình (thờ cúng tổ tiên, các vị gia thần... ); tín ngưỡng cộng đồng (Ngọc Hoàng thượng đế, Thành hoàng bổn cảnh, Thần nông, Thổ địa, Thiên hậu Thánh mẫu, Liễu Hạnh Thánh mẫu, Chúa xứ Thánh mẫu, Ngũ hành nương nương, Thần hổ, Thần rái, Thần cá... ); tín ngưỡng khác (các vị danh nhân, anh hùng dân tộc, Tổ nghề, liệt sĩ... )[49]. Ngay từ khi hình thành, các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo sớm chứa đựng những giá trị văn hóa tâm linh nhằm củng cố tính đoàn kết, tạo ra sự thông cảm, tạo ra sức mạnh tổng hợp đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Giá trị văn hóa truyền thống trong tín ngưỡng được phản ánh qua hệ thống các thần thoại, truyền thuyết, thần tích, nghi lễ, phong tục và lễ hội. Những giá trị này mang đậm tính giáo dục và trở thành hệ thống văn hóa vật thể và phi vật thể, gắn chặt với đời sống cộng đồng, thích ứng tốt với những thay đổi của xã hội trên vùng đất mới [49]. Tôn giáo: 16 tôn giáo [7] được Chính phủ Việt Nam cấp phép hoạt động thì tại Bến Tre đã có 12 tôn giáo, gồm 210.413 người [74], hầu như các tôn giáo phổ biến ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đều có mặt ở Bến Tre, trong đó có 13
  20. hai Trung ương đạo là Cao Đài Ban Chỉnh và Cao Đài Tiên Thiên. Xét về mặt ảnh hưởng cũng như số lượng tín đồ, thì đáng chú ý nhất là 3 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Cao đài giáo [56, tr. 932]. Nguyễn Duy Oanh cho biết, năm 1903 toàn tỉnh Bến Tre có 114 Hòa thượng [53, tr. 53] tính đến năm 1945 có hơn 100 ngôi chùa [53, tr. 55], số lượng tín đồ rất nhiều nhưng không thể thống kê được [53, tr. 53]; năm 1882, Công giáo tại họ đạo Cái Mơn có khoảng 3.000 tín đồ [53, tr. 49] đến năm 1930 toàn tỉnh có 49 họ đạo và 12.205 tín đồ [53, tr. 53]; Cao đài giáo đến năm 1930 có trên 20.000 tín đồ [53, tr. 57]. Ngoài ra, trước năm 1867, Bến Tre có 70 trường Nho giáo đặt tại tư gia hoặc tại chùa dạy chữ Hán và lễ nghĩa [53, tr. 53], hiện nay Nho giáo không còn nhưng lễ nghi theo quan điểm Nho giáo còn ảnh hưởng khắp người dân. Trong lịch sử dân tộc tôn giáo đã từng có sự đồng hành giữa đức tin tôn giáo và lòng yêu nước, tư tưởng này được xây dựng trên cơ sở nhận thức đặc điểm văn hoá Việt Nam. Các tín ngưỡng tôn giáo có lịch sử hình thành, phát triển và có đặc điểm riêng với xu hướng hoà đồng, tồn tại đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau. Sự đồng hành ấy đã góp phần to lớn tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong suốt cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước [77, tr. 13]. 1.2. Toát yếu về Phật giáo, Phật giáo Việt Nam thời kỳ đầu và Phật giáo tỉnh Bến Tre thế kỷ XVIII 1.2.1. Toát yếu về Phật giáo và Phật giáo Việt Nam thời kỳ đầu 1.2.1.1. Toát yếu về Phật giáo Phật giáo còn gọi là Đạo Phật. Tuy hai từ thường được sử dụng để chỉ cho một tôn giáo hiện thực, nhưng hai từ trên có hai nghĩa khác nhau. Đạo Phật: Theo Hoà thượng Thích Thiện Hoa, tín đồ Phật giáo quan niệm “Đạo Phật” là con đường đưa đến Giác ngộ, là việc làm của người hiểu biết, là lẽ tất nhiên không còn luận bàn [29, tr. 14]. Phật giáo: Theo Nguyễn Văn Minh: “Định nghĩa của Durkheim: “Tôn giáo là một hệ thống có tính chất gắn bó của những niềm tin và thực hành liên quan đến các điều thiêng liêng, nghĩa là tách biệt, cấm đoán, các niềm tin và thực 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2