Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Phật giáo Nam tông trong đời sống văn hóa tinh thần người Khmer huyện Giồng Riềng tỉnh Kiên Giang
lượt xem 22
download
Trên cơ sở nghiên cứu đối tượng, đề xuất các giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong ảnh hưởng của Phật giáo Nam tông đối với đời sống văn hóa tinh thần người Khmer Giồng Riềng, góp phần củng cố và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, đời sống tín ngưỡng tôn giáo nơi đây.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Phật giáo Nam tông trong đời sống văn hóa tinh thần người Khmer huyện Giồng Riềng tỉnh Kiên Giang
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ------------------------- NGUYỄN THỊ HOA NÂU PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƢỜI KHMER HUYỆN GIỒNG RIỀNG TỈNH KIÊN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC Hà Nội - 2020 -1-
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ------------------------- NGUYỄN THỊ HOA NÂU PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƢỜI KHMER HUYỆN GIỒNG RIỀNG TỈNH KIÊN GIANG Chuyên ngành: Tôn giáo định hƣớng ứng dụng Mã số : 60 22 03 09 (UD) LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG: NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN THỊ KIM OANH TS. VÕ MINH TUẤN Hà Nội - 2020 -2-
- LỜI CẢM ƠN Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn khoa học với đề tài “Phật giáo Nam tông trong đời sống văn hóa tinh thần người Khmer huyện Giồng Riềng tỉnh Kiên Giang” , tôi đã nhận đƣợc sự nhiệt tình giúp đỡ, hỗ trợ của nhiều ngƣời, nhiều tổ chức, đơn vị. Quan trọng hơn là tình cảm, sự động viên của ngƣời thân, gia đình, đồng nghiệp và quý thầy cô. Do đó, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn đến: Lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể, Huyện ủy, UBND huyện; Chƣ tôn đức lãnh đạo Hội ĐKSSYN huyện Giồng Riềng, Chƣ tôn Thƣợng tọa, Đại đức tăng, các vị Achar, Ban quản trị và tín đồ phật tử ở 14 chùa Phật giáo Nam tông trong huyện Giồng Riềng. Tất cả đã tận tình giúp đỡ tôi trong lúc đi sƣu tầm, tìm tƣ liệu, khảo sát thực tế. Công trình này không chỉ có ích và là tâm huyết của bản thân tôi, mà còn là lời tri ân của tôi đối với tất cả mọi ngƣời đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian viết luận văn. Xin gửi lời cảm ơn đến Bộ môn Tôn giáo học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập tại trƣờng. Đặc biệt là tôi xin dành sự kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến TS. Võ Minh Tuấn, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn tôi trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn khoa học này, thầy không chỉ là ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn cho tôi mà còn định hƣớng những vấn đề cần nghiên cứu, giúp tôi vƣợt qua những khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn của mình. Giồng Riềng, ngày 15 tháng 01 năm 2020 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hoa Nâu -3-
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Luận văn này đƣợc thực hiện sau quá trình học tập ở Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội và qua quá trình nghiên cứu, khảo sát tình hình thực tiễn trên địa bàn huyện Giồng Riềng, đặc biệt là tìm hiểu tại 14 chùa Phật giáo Nam tông trên địa bàn huyện. Các số liệu nghiên cứu, các nhận định, đánh giá, tài liệu nghiên cứu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và gắn liền với thực tiễn của Phật giáo Nam tông và ngƣời Khmer trên địa bàn huyện Giồng Riềng. Giồng Riềng, ngày 15 tháng 01 năm 2020 Ngƣời cam đoan Nguyễn Thị Hoa Nâu -4-
- MỤC LỤC Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục Danh mục viết tắt PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở NAM BỘ VÀ KIÊN GIANG ................................................................................................... 7 1.1. Về Phật giáo Nam tông ở Nam bộ ....................................................... 7 1.1.1. Sự phân chia hệ phái Phật giáo và nguyên nhân ................................... 7 1.1.2. Lƣợc sử Phật giáo Nam tông ở Nam bộ................................................. 8 1.1.3. Đặc điểm Phật giáo Nam tông ở Nam bộ ............................................ 10 1.2. Về Phật giáo Nam tông ở Kiên Giang ............................................... 15 1.2.1. Khái quát về Phật giáo Nam tông ở Kiên Giang ................................. 15 1.2.2. Vai trò của Phật giáo Nam tông đối với ngƣời Khmer tỉnh Kiên Giang 18 Chƣơng 2. HUYỆN GIỒNG RIỀNG VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƢỜI KHMER NƠI ĐÂY......................................................................................... 21 2.1. Huyện Giồng Riềng và ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng ............. 21 2.1.1. Khái quát về huyện Giồng Riềng ......................................................... 21 2.1.2. Đời sống kinh tế, xã hội của ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng ........ 23 2.1.3. Đặc điểm đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng 26 2.2. Vai trò của Phật giáo Nam tông đối với ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng 31 2.2.1. Thời kỳ kháng chiến .............................................................................. 31 2.2.2. Thời kỳ thống nhất đất nƣớc và đổi mới .............................................. 32 2.3. Ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông đối với đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng ................................................... 32 1
- 2.3.1. Ảnh hƣởng đến tín ngƣỡng ................................................................... 32 2.3.2. Ảnh hƣởng đến giá trị và bản sắc văn hóa ........................................... 33 Chƣơng 3. PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƢỜI KHMER HUYỆN GIỒNG RIỀNG ............................................................................................................. 48 3.1. Đánh giá ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông đối với đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng và nguyên nhân ........ 48 3.1.1. Đánh giá ................................................................................................. 48 3.1.2. Nguyên nhân .......................................................................................... 50 3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực, hạn chế ảnh hƣởng tiêu cực của Phật giáo Nam tông tại huyện Giồng Riềng ...... 54 3.2.1. Về phía sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện .............................................. 54 3.2.3. Về phía các tổ chức chính trị - xã hội ................................................... 62 KẾT LUẬN .................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83 PHỤ LỤC 2
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VIẾT TẮT LÀ ĐỌC LÀ BHYT Bảo hiểm y tế CCB Cựu chiến binh CLB Câu lạc bộ CNTT Công nghệ thông tin CNVCLĐ Công nhân viên chức lao động DTTS Dân tộc thiểu số ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long ĐKSSYN Đoàn kết sƣ sãi yêu nƣớc GHPG Giáo hội Phật giáo HĐND Hội đồng nhân dân HTX Hợp tác xã KHKT Khoa học kỷ thuật LĐLĐ Liên đoàn lao động LHPN Liên hiệp phụ nữ LHTN Liên hiệp thanh niên MTTQ Mặt trận Tổ quốc Nxb Nhà xuất bản PGNT Phật giáo Nam tông PTDT Phổ thông dân tộc TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh TP. Rạch Giá Thành phố Rạch Giá UBMTTQ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa 3
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngƣời Khmer là một trong 54 dân tộc Việt Nam. Họ thƣờng sống tập trung ở các tỉnh, thành phố nhƣ Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau, Tây Ninh… Theo số liệu điều tra về Dân số và nhà ở năm 2009 [36, 51] dân số Khmer khoảng 1.260.640 ngƣời. Trong lịch sử, ngƣời Khmer đã có một thời kỳ ảnh hƣởng khá đậm nét văn hóa Bàlamôn giáo. Nhƣng ở Nam bộ thì Bàlamôn giáo không còn chỗ đứng trong tƣ tƣởng của ngƣời Khmer, mà thay vào đó là Phật giáo Nam tông. Do đó, hàng ngàn năm nay, Phật giáo Nam tông đã đồng hành với xã hội Khmer. Đây là một cộng đồng dân cƣ và tôn giáo tƣơng đối thuần khiết. Yếu tố tôn giáo mà chủ yếu là Phật giáo Nam tông đã chi phối rất lớn đến đời sống sinh hoạt, văn hóa của cộng đồng này. Ngay trong văn hóa, tƣ tƣởng, đƣờng lối tƣ duy, cách hành xử… cũng đều dựa trên giáo lý Phật giáo [3]. Đại bộ phận ở các phum, sóc1 ấp Khmer Nam bộ đều có chùa Phật giáo. Đặc biệt là gần 100% ngƣời Khmer đều theo đạo Phật. Khác với các tôn giáo khác, ngƣời Khmer vừa mới sinh ra đã là Phật tử. Tại Kiên Giang, huyện Giồng Riềng thuộc nông thôn, và tính đến năm 2018 thì ngƣời Khmer chiếm 17,2% dân số huyện. Toàn huyện có 27 ngôi chùa, trong đó có 14 ngôi chùa Nam tông Khmer chia thành hai phái: Thommayutt (Hoàng Gia) và Mohamikay (Bình dân) trong đó, 13 chùa thuộc chi Phái Mohamikay (Bình Dân) và 1 chùa theo phái Thommayutt (Hoàng Gia); có 172 vị chức sắc là ngƣời Khmer (2 Thƣợng toạ, 10 đại đức, 118 tì kheo, 42 sadi) và 14 Ban quản trị chùa với 192 vị chức việc; 33.982 phật tử 1 Tác giả sẽ giải thích về phum, sóc ở Chƣơng 2 1
- (nữ 16.608, nam 17.374, 100% khẩu dân tộc Khmer đều là tín đồ Phật giáo Nam tông, một số rất ít gần đây cải đạo) [56, 6]. Trong các năm gần đây, Phật giáo Nam tông huyện Giồng Riềng có những biến đổi sâu sắc, và ảnh hƣởng mạnh mẽ, cả tích cực lẫn tiêu cực, đến nhiều mặt trong đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer nơi đây. Việc nghiên cứu những ảnh hƣởng đó nhằm bảo tồn và phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của Phật giáo Nam tông đối với đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer Giồng Riềng. Bên cạnh đó, nhận thức rõ ảnh hƣởng và giá trị của Phật giáo Nam tông là cần thiết, góp phần quan trọng cho việc thực hiện các chủ trƣơng, chính sách về công tác dân tộc, tôn giáo và văn hóa; củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần lẩn vật chất đối với ngƣời Khmer. Do đó, tôi chọn đề tài “Phật giáo Nam tông trong đời sống văn hóa tinh thần người Khmer huyện Giồng Riềng tỉnh Kiên Giang” làm Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo của mình. Phật giáo Nam tông và ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng đã và đang là một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng các dân tộc, tôn giáo khác trên địa bàn huyện Giồng Riềng từ trƣớc năm 1988, tính đến nay chƣa có công trình nghiên cứu nào, cho nên việc thu thập các tài liệu, khảo sát thực tế, từ đó đi đến đánh giá các tác động của Phật giáo Nam tông trong đời sống văn hóa tinh thần nơi đây là cần thiết. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 2.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu đặc điểm, vai trò, và ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông trong đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer Giồng Riềng. 2.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Địa bàn huyện Giồng Riềng. 2
- - Về thời gian: Từ năm 1988 (năm thành lập huyện Giồng Riềng) đến nay, thuộc về thời kỳ đổi mới, có ảnh hƣởng sâu sắc đối với đời sống văn hóa tinh thần nói chung và đời sống tôn giáo nói riêng nơi đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trên cơ sở nghiên cứu đối tƣợng, đề xuất các giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông đối với đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer Giồng Riềng, góp phần củng cố và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, đời sống tín ngƣỡng tôn giáo nơi đây. 3.2. Nhiệm vụ Luận văn có ba nhiệm vụ sau: - Thứ nhất: Khái quát lịch sử du nhập Phật giáo Nam tông Khmer vào Nam bộ, trong đó có tỉnh Kiên Giang nói chung và huyện Giồng Riềng nói riêng. - Thứ hai: Khảo sát đặc điểm, vai trò, và ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông đối với đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer Giồng Riềng. - Thứ ba: Đề xuất các giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong ảnh hƣởng trên. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn đƣợc đặt trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, cùng các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về tôn giáo. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu sau đây: - Khảo sát: Thu thập các dữ liệu có liên quan đến đối tƣợng nghiên cứu trên địa bàn huyện Giồng Riềng. - Lịch sử và logic: Nghiên cứu lịch sử địa phƣơng và lịch sử Phật giáo Nam tông Khmer, từ đó rút ra logic hình thành, vận động và biến đổi. 3
- - Phân tích và tổng hợp: Trên cơ sở phân tích, phân loại đối tƣợng nghiên cứu để đi đến cái nhìn khái quát. 5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề dân tộc Khmer và Phật giáo Nam tông Khmer của các tác giả trong nƣớc. Lê Hƣơng (1970) với Sử Cao - Miên, viết về tôn giáo và tộc ngƣời Việt gốc Miên khá chi tiết, là nguồn tài liệu tham khảo quý giá đề cập trực tiếp đến phong tục đi tu của ngƣời Khmer. Viện Văn hóa, bộ phận thƣờng trú tại TPHCM (1988) với Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ, tổng hợp các báo cáo tham luận của nhiều ngƣời, trong đó có một số bài liên quan đến đề tài luận văn nhƣ: “Khái quát về ngƣời Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long” của Thạch Voi, “Phong tục lễ nghi của ngƣời Khmer Đồng bằng sông Cửu Long” của Thạch Voi - Hoàng Túc; “Nghệ thuật tạo hình của chùa Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long” của Lê Đắc Thắng. Đoàn Thanh Nô (2002) với Người Khmer ở Kiên Giang, khái quát về tộc ngƣời Khmer ở Kiên Giang, về dân số, tập quán cƣ trú lao động sản xuất, nét đẹp văn hóa truyền thống của ngƣời Khmer ở đây. Sơn Phƣớc Hoan chủ biên (1999-2000) với chuyên đề nghiên cứu khoa học Vai trò của chùa đối với đời sống văn hóa của đồng bào Khmer Nam bộ, đã khái quát về đời sống kinh tế, văn hóa xã hội của ngƣời Khmer và vai trò của ngôi chùa Khmer, đƣa ra một số giải pháp nhằm định hƣớng cho việc tiếp tục phát huy vai trò của ngôi chùa đối với đời sống văn hóa của ngƣời Khmer Nam bộ. Trần Văn Bổn (2002) với Phong tục và nghi lễ vòng đời người Khmer Nam Bộ, khái lƣợc về lịch sử vùng đất và cƣ dân Nam bộ cổ xƣa, về đời sống tinh thần ngƣời Khmer Nam bộ từ trƣớc đến nay gắn chặt với tôn giáo và ngôi 4
- chùa, về phong tục lễ nghi trong gia đình Khmer Nam bộ nhƣ: sinh đẻ và nuôi dạy con, cƣới, tang, và thờ cúng tổ tiên. Trần Văn Bính chủ biên (2004) với Văn hóa các dân tộc Tây Nam bộ - Thực trạng và Những vấn đề đặt ra, trong đó có bài “Tín ngƣỡng, tôn giáo của dân tộc Khmer, Chăm, và Hoa ở Việt Nam hiện nay” của Ngô Hữu Thảo. Trần Hồng Liên (2005) với Nam Bộ, Dân tộc và tôn giáo, tập hợp một số bài về ngƣời Khmer Nam Bộ của nhiều nhà nghiên cứu khoa học ở phía Nam đáng chú ý. Nguyễn Mạnh Cƣờng (2008) với Phật giáo Khơ Me Nam bộ, nói về lịch sử hình thành và phát triển của tộc ngƣời Khmer Nam bộ và quá trình du nhập Phật giáo Nam tông vào cộng đồng này, cơ cấu tổ chức của Phật giáo Nam tông Khmer qua các thời kỳ. Phan An (2009) với Dân tộc Khmer Nam bộ, nói về văn hóa ngƣời Khmer Nam bộ, đặc biệt nhấn mạnh về ngƣời Khmer ở hai tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Huỳnh Thanh Quang (2011) với Giá trị văn hóa Khmer vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, tập trung nghiên cứu những giá trị văn hóa Khmer ĐBSCL, thực trạng việc phát huy giá trị văn hóa Khmer thời gian qua, trên cơ sở đó đề xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm phát huy giá trị văn hóa Khmer ĐBSCL trong giai đoạn hiện nay. Phạm Thị Phƣơng Hạnh chủ biên (2011), Văn hóa Khmer Nam bộ - Nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam, gồm sáu phần, ở phần thứ hai nói về tín ngƣỡng tôn giáo và nêu khá chi tiết về Phật giáo Nam tông Khmer Nam bộ. Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. HCM và Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, nhiều tác giả (2014), Phật giáo nguyên thủy từ truyền thống đến hiện đại, gồm 80 bài tham luận đƣợc tuyển chọn từ Hội thảo khoa học chia làm ba phần, trong đó Phần một về Phật giáo nguyên thủy những vấn đề triết học và Phật học; Phần hai về Phật giáo 5
- nguyên thủy hội nhập và phát triển; Phần ba về Phật giáo nguyên thủy ở Việt Nam và Đông Nam Á. Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Học viện Phật giáo Nam tông Khmer, nhiều tác giả (2014), với kỷ yếu Hội thảo khoa học Phật giáo Nam tông Khmer đồng hành cùng dân tộc, tập hợp 85 bài tham luận của các tác giả, đƣợc chia thành ba chủ đề chính, trong đó chủ đề một về nguồn gốc, lịch sử và truyền thừa của Phật giáo Nam tông Khmer; chủ đề hai về những vấn đề triết học và Phật học trong kinh điển Phật giáo Nam tông; chủ đề ba về Phật giáo Nam tông Khmer hội nhập và phát triển. Đa số các công trình trên đều viết về ngƣời Khmer Nam bộ và ĐBSCL nói chung, còn riêng vấn đề “Phật giáo Nam tông trong đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng tỉnh Kiên Giang” thì chƣa có công trình nào nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Về mặt lý luận Luận văn góp phần bổ sung cho hiểu biết về Phật giáo Nam tông Khmer gắn liền với vấn đề lịch sử và địa chính trị của vùng đất phƣơng Nam, thông qua việc nghiên cứu Phật giáo Nam tông Khmer ở huyện Giồng Riềng. 6.2. Về mặt thực tiễn Luận văn giúp nâng cao nhận thức về vai trò của Phật giáo Nam tông trên địa bàn huyện Giồng Riềng, từ đó vừa góp phần đảm bảo quyền tự do tín ngƣỡng và sinh hoạt tôn giáo bình thƣờng của nhân dân, vừa góp phần định hƣớng quản lý nhà nƣớc về tôn giáo. Luận văn có thể là một nguồn tài liệu tham khảo cho những ngƣời có quan tâm đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Kết cấu của luận văn gồm 3 chƣơng, 7 tiết, không kể các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, và Phụ lục. 6
- Chƣơng 1 KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở NAM BỘ VÀ KIÊN GIANG 1.1. Về Phật giáo Nam tông ở Nam bộ 1.1.1. Sự phân chia hệ phái Phật giáo và nguyên nhân Phật giáo Nam tông Khmer (tiếng Pali: Dakkhinanikàya) là một trong bốn tên của hệ phái; tên thứ hai là hệ phái Đại tông (Mahànikàya); tên thứ ba là Thƣợng tọa bộ (Theravàda); tên thứ tƣ ngoại lai không đƣợc chính thức công nhận là hệ phái Tiểu thừa (Hinayàna) [13, 213]. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, Phật giáo vốn là một thể thống nhất, không có sự phân chia hệ phái. Chỉ đến khi Phật Thích Ca nhập Niết bàn, các đệ tử mới tập trung lại đọc tụng, ghi nhớ những điều Phật dạy, khi đó mới xuất hiện những quan điểm, hệ tƣ tƣởng khác biệt về việc thực hành giới luật. Bắt đầu vào lần kết tập kinh điển thứ hai đƣợc tổ chức tại thành Tì Xá Ly sau khi Phật nhập diệt hơn 100 năm để luận giải kinh điển, thực hành giới luật và tranh luận về 10 điều luật mới do một bộ phận tì kheo trẻ đƣa ra đã hình thành sự phân phái trong Phật giáo. 10 điều luật mới mà một bộ phận tì kheo trẻ đƣa ra và cho là hợp chính pháp, đó là: giáo diêm tịnh (đƣợc đem muối đựng trong sừng để bỏ vào các món ăn khi không đủ muối); lƣỡng chỉ sao thực tịnh (bóng nắng quá ngọ hai ngón tay vẫn đƣợc ăn); tụ lạc gian tịnh (trƣớc ngọ ăn rồi nhƣng đến làng khác vẫn đƣợc phép ăn); trụ xứ tịnh (ở đâu thì làm lễ Bá tát ngay ở đấy); tuỳ ý tịnh (quyết nghị đã đƣợc Đại hội dù ít dù nhiều cho thông qua đều có giá trị thi hành); cửu trú tịnh (noi theo điều lệ, tập quán); sinh hoà hợp tịnh (đƣợc uống sữa pha nƣớc sau giờ ngọ); thuỷ tịnh (rƣợu mới lên men đƣợc pha với nƣớc 7
- uống trị bệnh); bất ích lũ Ni sƣ đàn tịnh (đƣợc dùng toạ cụ không viền, kích thƣớc lớn hơn mẫu định); thụ súc kim ngân tiến định (đƣợc nhận tiền vàng bạc cúng dàng). Các vị tì kheo lớn tuổi không chấp nhận, chủ trƣơng giữ nguyên điều Đức Phật dạy, tôn trọng lối truyền thừa. Các vị tì kheo trẻ không chịu, vì cho rằng có một số vấn đề đặt trong sự phát triển của xã hội không còn phù hợp nữa, nên thấy cần thiết phải sửa đổi một số điểm khi ghi vào kinh sách nên chủ trƣơng hành đạo theo tinh thần “Khế lý - khế cơ”, phù hợp với căn cơ, hoàn cảnh từng thời kỳ, từng vùng, miền của chúng sinh. Các vị sƣ có quan điểm khác nhau sau nhiều ngày tranh luận đã không tìm đƣợc tiếng nói chung, không thống nhất đƣợc quan điểm nên cuối cùng đã hình thành hai phái: Những vị sƣ chủ trƣơng giữ nguyên giới luật chiếm số ít và là những vị cao tuổi, ngồi bên trên để chủ trì Pháp hội nên đƣợc gọi là phái Thƣợng tọa bộ. Những vị sƣ trẻ chiếm số đông nên gọi là phái Đại chúng bộ. Sau đó phái Đại chúng bộ truyền lên phía Bắc sang Trung Quốc… đƣợc gọi là Phật giáo Bắc tông hay Bắc truyền. Phái Thƣợng tọa bộ truyền về hƣớng Nam, phát triển xuống Srilanca, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào… nên đƣợc gọi là Phật giáo Nam tông hay Nam truyền. Phật giáo hệ Nam tông nghiêm trì giữ theo giới luật nguyên thủy và đọc tụng chủ yếu 5 bộ kinh khởi đầu, do đó Phật giáo Nam tông cũng đƣợc gọi là Phật giáo nguyên thủy [67]. 1.1.2. Lược sử Phật giáo Nam tông ở Nam bộ Phật giáo Nam tông đƣợc truyền vào Việt Nam theo con đƣờng của các nhà truyền giáo từ Ấn Độ đi theo đƣờng biển tới Srilanca, Myanmar, Thái Lan tới vùng sông Mê Công (Campuchia) và vào vùng các tỉnh ĐBSCL (phía Nam) của Việt Nam, đƣợc đông đảo ngƣời dân đặc biệt là đồng bào dân tộc Khmer đón nhận, trở thành tôn giáo của ngƣời Khmer, do đó gọi là Phật giáo Nam tông Khmer. (Ở Việt Nam còn có Phật giáo Nam tông của ngƣời Kinh, ở đây xin không đề cập vì ngoài khuôn khổ đối tƣợng nghiên cứu). 8
- Phật giáo Nam tông đã có mặt ở Đồng bằng sông Cửu Long từ rất sớm (vào khoảng thế kỷ thứ IV). Đến thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đại bộ phận các Phum (xóm), Sóc (nhiều xóm hợp thành) của ngƣời Khmer đều có chùa thờ Phật. Tính đến tháng 6/2010, Phật giáo Nam tông Khmer đã có 452 ngôi chùa với 8.574 vị sƣ (=19,3% tổng số sƣ trong cả nƣớc) [6], tập trung chủ yếu ở 9 tỉnh/thành ĐBSCL (Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau) [6]. Một số cộng đồng Khmer huyện Giồng Riềng còn đƣợc gọi là ấp. Ấp có đông ngƣời Khmer đều có chùa thờ Phật. Phật giáo Nam tông Khmer là tôn giáo truyền thống mang tính biệt truyền trong cộng đồng dân tộc Khmer ở Tây Nam bộ, đƣợc hầu hết ngƣời Khmer tin theo [30]. Phật giáo Nam tông trao truyền giới luật theo giáo lý biệt truyền của hệ phái, cùng tồn tại và phát triển cùng các tôn giáo khác, nhƣng vẫn giữ vững đƣợc tính cách riêng biệt của mình, không chỉ là một tôn giáo mà nó còn mang đậm tính chất dân tộc, gắn liền với vòng đời mỗi ngƣời Khmer từ khi sinh ra cho đến lúc mất đi. Chính đặc điểm này đã tạo cho văn hóa Phật giáo Nam tông Khmer mang một nét khác biệt so với các tông phái Phật giáo khác. Tính đến tháng 6-2010, Phật giáo Nam tông Khmer đã có 452 ngôi chùa với 8.574 vị sƣ (chiếm 19,3% tổng số sƣ trong cả nƣớc) [6, 2] tập trung chủ yếu ở ĐBSCL. Điều này cho thấy Phật giáo Nam tông Khmer đã có sức ảnh hƣởng sâu đậm đối với đời sống của ngƣời Khmer [30]. Ngƣời Khmer đã tiếp thu Phật giáo Nam tông đƣợc truyền từ Ấn Độ qua các con đƣờng khác nhau. Phật giáo Nam tông của ngƣời Khmer đƣợc gọi là Theravada. Mặc dù lai tạp cả tín ngƣỡng dân gian và những tàn dƣ của Bàlamôn giáo, nhƣng Phật giáo Nam tông vẫn là tín ngƣỡng chính thống của ngƣời Khmer nƣớc ta [21, 64]. Trƣớc năm 1975, cùng với phong trào kháng chiến chống Mỹ, Hội ĐKSSYN Phật giáo Nam tông Khmer đƣợc thành lập. Nhiệm vụ của Hội lúc ấy là tuyên truyền vận động, tập hợp, đoàn kết các nhà sƣ có tinh thần yêu 9
- nƣớc vào tổ chức, nhằm đầu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nƣớc. Sau giải phóng, Hội ĐKSSYN Phật giáo Nam tông Khmer tiếp tục duy trì hoạt động để phục vụ cho việc tuyên truyền, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nƣớc và công cuộc xây dựng đất nƣớc. Từ năm 1981 đến nay, các hệ phái Phật giáo, bao gồm cả Phật giáo Nam tông Khmer, thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam [51, 492-493]. Nhƣ đã đề cập ở trên, Phật giáo Nam tông có vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống văn hóa tinh thần Khmer, là hồn cốt văn hóa của họ. Nói cách khác, văn hóa Khmer chính là văn hóa Phật giáo Nam tông. Chúng ta có thể thấy ảnh hƣởng của Phật giáo trên hầu hết các phƣơng diện đời sống của ngƣời Khmer, từ các nghi lễ, phong tục tập quán đến kiến trúc, hội họa, sân khấu, văn học... [54, 61]. Những năm gần đây, Phật giáo vẫn tiếp tục có vai trò quan trọng trong đời sống của cộng đồng Khmer, các tập tục trƣớc đây về cơ bản vẫn đƣợc duy trì, tuy nhiên đã có ít nhiều thay đổi. Nhiều nam thanh thiếu niên Khmer không muốn đi tu, mà muốn đi học để có cơ hội phát triển bản thân; thời gian tu của sƣ sãi thƣờng ngắn hơn hẳn trƣớc đây, nhiều trƣờng hợp chỉ mang tính hình thức; do đó có sự suy giảm đáng kể số lƣợng sƣ sãi ở các chùa. Vấn đề cải đạo cũng đã xuất hiện ở một số địa phƣơng. Ở Sóc Trăng và Trà Vinh hiện nay có hiện tƣợng ngƣời Khmer theo đạo Tin Lành nhƣng vẫn đi chùa [2]. 1.1.3. Đặc điểm Phật giáo Nam tông ở Nam bộ Có thể khẳng định rằng giáo lý Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc tông về cơ bản không có gì đối lập nhau. Bởi vì giáo lý đạo Phật đƣợc chia ra làm hai truyền thống: Nguyên thủy và Phát triển. Việc sử dụng từ ngữ Nguyên thủy và Phát triển thể hiện tính cốt lõi nhất quán, xuyên suốt của giáo lý đạo Phật, mà phần gốc, rễ là Nguyên thủy; phần thân ngọn cành lá là Phát triển. Những tƣ tƣởng của Phật giáo Phát triển mang tính kế thừa và bổ sung giáo lý Nguyên thủy, giáo trị của giáo lý Phát triển nằm ở chỗ vẫn giữ đƣợc nền tảng của giáo lý Nguyên thủy. 10
- Giáo lý Nguyên thủy và Phát triển có những điểm tƣơng đồng thể hiện rất rõ ràng và cơ bản nhƣ: Cả hai đều nhìn nhận Ðức Phật là bậc Ðạo sƣ, đều chấp nhận và hành trì giáo lý Tứ thánh đế, Bát chính đạo, Duyên khởi...; đều chấp nhận Tam pháp ấn Khổ, Không, Vô ngã; đều chấp nhận con đƣờng tu tập Giới - Ðịnh - Tuệ, đều từ chối về một đấng tối cao sáng tạo và ngự trị thế giới. Với Phật giáo Nam tông, giáo lý sơ khởi là giáo lý hƣớng dẫn thực hành nên phù hợp với đồng bào dân tộc . Phật giáo Nam Tông thực hành những nguyên lý căn bản nhất từ Tam tạng Kinh điển Pāḷi truyền lại. Không màu mè, không cầu kỳ, không uyên thâm khó hiểu, các hình thức truyền đạt giáo lý và thực hành các nghĩ lễ tôn giáo đều gần gũi với đời sống Phật tử và tu sĩ. Ngƣời tiếp nhận không cần có trình độ cao. Phật giáo Nam tông ngăn cấm việc biết, bàn, đến gần… đối với tu sĩ. Ví dụ cấm ngƣời tu hành đến gần phụ nữ, không đi chung đƣờng một mình với phụ nữ, không nhìn thẳng vào mặt phụ nữ… Hệ giá trị của Phật giáo Nam tông Khmer là một hệ thống các tiêu chí, chuẩn mực giúp tín đồ lựa chọn và định hƣớng hành động trong đời sống tôn giáo, là động lực tinh thần liên kết mọi tín đồ đồng thuận, tự nguyện tuân thủ. Hệ giá trị đó có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của cộng đồng ngƣời Khmer Nam bộ. Quan niệm về “nghiệp chƣớng/nhân quả” (karma) và “phận/pháp” (dharma) có vị trí trung tâm. Quan niệm về nhân quả trong Phật giáo Nam tông cho rằng mỗi ngƣời từ khi sinh ra và lớn lên cho đến lúc chết đi đều phải chịu trách nhiệm đối với hành động của mình; thân phận, địa vị, hoàn cảnh của mỗi ngƣời ở kiếp này là kết quả của kiếp trƣớc; để có quả tốt (nghiệp chƣớng) tốt phải gieo nhân tốt, nổ lực làm việc tốt, tích phƣớc để kiếp sau có thân phận và cuộc sống tốt đẹp hơn. Quan niệm về nhân quả cho rằng mỗi ngƣời phải chịu trách nhiệm đối với hành động của mình; thân phận, địa vị của mỗi ngƣời ở kiếp này là kết quả của các kiếp trƣớc; để có nghiệp chƣớng tốt, phải sống tuân theo phận/pháp – thực hiện vai trò của mình với nỗ lực cao nhất, tích phƣớc để 11
- kiếp sau có thân phận tốt đẹp hơn [39]. Ngoại trừ các nhà sƣ và những ngƣời đã kinh qua thời gian tu tại chùa, hầu hết ngƣời Khmer ít hiểu về kinh Phật. Vì vậy, để làm phƣớc, tích đức, cách tốt nhất đối với họ là tổ chức, tham gia các nghi lễ, phục vụ các nhà sƣ, nhà chùa [68, 1091] Một điều đáng lƣu ý, đối với phần lớn tín đồ Phật giáo, lên Niết bàn là mục đích quá xa vời nên phần lớn họ cố gắng hành thiện để kiếp sau có cuộc sống tốt đẹp hơn [62]. Trong hầu hết các phum, sóc của ngƣời Khmer đều có chùa. Ban đầu, chùa đƣợc xây cất đơn giản với các vật liệu nhƣ gỗ, tre, lá dừa nƣớc. Qua thời gian, nhờ sự đóng góp của các Phật tử, chùa đƣợc xây dựng lớn hơn với vật liệu kiên cố hơn. Phần lớn Phật tử là nông dân nghèo, nên đóng góp của họ cho ngôi chùa rất hạn hẹp, vì vậy có chùa đƣợc xây dựng trong một thời gian dài, có khi lên đến hàng chục năm. Hầu hết ngƣời Khmer đều muốn chùa của họ khang trang, đẹp đẽ bởi nó là bộ mặt của phum, sóc, là niềm tự hào của họ. Việc đóng góp xây dựng chùa cũng là cách thiết thực để tích đức cho Phật tử và gia đình họ. Do đó nhiều gia đình Khmer dù nghèo khó vẫn gắng đóng góp sức ngƣời sức của cho việc xây dựng, trùng tu chùa. Không ngạc nhiên khi thấy nhiều vùng Khmer nghèo khó, nhà cửa đơn sơ, nhƣng có chùa to lớn lộng lẫy [1, 437-438]. Chùa không chỉ là nơi thờ cúng tu hành tôn nghiêm mà còn là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế của cộng đồng phum, sóc. Mỗi ngƣời Khmer dù đi tu hay không, đều tự coi mình là tín đồ. Việc đóng góp cho chùa, chăm lo cho các nhà sƣ đƣợc coi là bổn phận, trách nhiệm của họ. Ngƣời Khmer tu để trả nghĩa cho cha mẹ ông bà, tu để học chữ, để lấy chức sắc. Họ quan niệm tu để tích đức, làm phƣớc; tu càng lâu, phúc đức càng cao [21, 64]. Phật giáo Nam tông Khmer có hệ thống tổ chức riêng, khác với Phật giáo của ngƣời Việt và ngƣời Hoa láng giềng. Gắn liền với ngôi chùa, hiện thân trực tiếp của Phật giáo là tầng lớp sƣ sãi. Đây là tầng lớp xã hội đặc biệt, bao gồm sƣ sãi, đang tu hành trong các chùa Khmer. Ngƣời Khmer coi ngƣời 12
- tu hành là hiện thân của Phật, là tầng lớp trí thức đại diện cho dân tộc mình [21, 64-65]. Ở chùa, ngoài các vị sƣ chuyên lo liệu các công việc liên quan đến tôn giáo, còn có tổ chức tín đồ đƣợc gọi là Ban quản trị chùa (Knas Kamaka wat), bao gồm chủ chùa – trƣởng ban quản trị chùa (nhom wat), thầy phụ trách nghi lễ (acha wat) và một số thành viên chuyên trách các công việc khác nhau (thông thƣờng ban quản trị có khoảng tám ngƣời). Họ là những ngƣời sùng đạo biết cách tổ chức nghi lễ, am hiểu phong tục tập quán. Chủ chùa thƣờng là ngƣời khá giả trong cộng đồng, gia đình trong sạch. Ban quản trị chùa có nhiệm vụ thay mặt nhà chùa, làm các công việc nhƣ tổ chức nghi lễ, quản lý ruộng đất nhà chùa, nhận các đồ hiến tặng, sửa sang, xây mới, trùng tu cơ sở vật chất của chùa. Chùa cũng thông qua ban quản trị chùa để góp phần vào việc quản lý phum, sóc. Bên cạnh các nhà sƣ và ban quản trị chùa còn có một số vị acha. Họ vốn là những nhà sƣ học hành giỏi, sau khi hoàn tục, đƣợc nhà chùa và bà con tín đồ tín nhiệm mời vào giảng dạy và tham gia thực hiện một số nghi lễ trong chùa. Trong các cộng đồng ngƣời Khmer còn có tổ chức tín đồ gọi là wên (vên, vênh). Để cho việc thực hiện mối quan hệ giữa nhà chùa và tín đồ đƣợc thuận tiện và chặt chẽ, các hộ Khmer theo từng khu vực cƣ trú nhất định đƣợc tổ chức thành một wên. Đứng đầu mỗi wên là một chủ wên (mê wên) giúp việc cho ban quản trị chùa. Có trƣờng hợp chủ wên cũng đồng thời là một thành viên trong ban quản trị chùa. Mỗi chùa tùy theo số lƣợng tín đồ mà có số lƣợng wên nhiều hay ít. Việc phân chia tín đồ theo các wên giúp chùa thuận lợi trong việc tổ chức quyên góp, nhận cơm từ các hộ gia đình. Các wên thay phiên nhau chuẩn bị cơm và thức ăn để dâng cúng chùa trong một số ngày nhất định. Ngoài ra các wên còn tham gia công việc của chùa và công việc chung của cộng đồng. Wên là cầu nối giữa chùa và cộng đồng. 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Hoạt động từ thiện xã hội của một số tôn giáo ở tỉnh Kiên Giang hiện nay (qua nghiên cứu Phật giáo và Công giáo)
125 p | 111 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Giá trị của giáo lý Phật giáo trong việc thực hiện luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam hiện nay
108 p | 66 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Phật giáo tỉnh Bến Tre thế kỷ XVIII - XIX
145 p | 50 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Vai trò của tôn giáo trong xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang hiện nay
104 p | 71 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn nước Cộng hóa dân chủ nhân dân Lào hiện nay
98 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Hôn nhân và gia đình người Chăm Bani hiện nay (Qua khảo cứu tại tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Bình Thuận)
102 p | 40 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Hoạt động phước thiện của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (qua nghiên cứu tại 3 tỉnh: An Giang, Đồng Tháp và Thành phố Hồ Chí Minh)
85 p | 37 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội hiện nay
94 p | 41 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
104 p | 114 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên hiện nay
91 p | 68 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Tổ chức Islam ở Hà Nội - Lịch sử và thực trạng
145 p | 43 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Vai trò của tín ngưỡng, tôn giáo đối với đời sống cộng đồng phụ nữ ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang hiện nay
96 p | 84 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Hôn nhân của người Công giáo tại giáo xứ Bình Hải, tỉnh Nam Định hiện nay
107 p | 54 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo tỉnh Lào Cai (thông qua nghiên cứu các cơ sở Phật giáo tiêu biểu; tổ chức và hoạt động của Giáo hội địa phương)
90 p | 70 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Hoạt động bảo vệ môi trường tự nhiên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Phước hiện nay
111 p | 98 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Một số đặc trưng tu tập của Hệ phái Khất sĩ từ khởi nguyên cho đến nay
95 p | 95 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Đời sống tôn giáo giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Giáo phận Long Xuyên - thị trấn Hòn Đất, huyện Hòn Đất tỉnh Kiên Giang
111 p | 31 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn