Luận văn Thạc sĩ Triết học: Kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 11
download
Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về đạo đức, pháp luật, nhà nước pháp quyền, luận văn đi vào làm rõ tính tất yếu và thực trạng sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm kết hợp đạo đức và pháp luật một cách hiệu quả hơn. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ TRƢƠNG PHƢƠNG DUNG KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Triết học Hà Nội – 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ TRƢƠNG PHƢƠNG DUNG KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân Hà Nội – 2015
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Thúy Vân, người đã dành nhiều thời gian quý báu tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa Triết học - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gian Hà Nội đã góp ý tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài. Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ, động viên của bạn bè và những người thân trong gia đình. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 12 năm 2014 Học viên Trƣơng Phƣơng Dung
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, chưa từng được công bố. Các tài liệu sử dụng tham khảo đã được trích nguồn đầy đủ và chính xác. Xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Trƣơng Phƣơng Dung
- MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ........................................................... 8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ............................................................. 8 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................. 8 6. Đóng góp mới của luận văn ........................................................................ 9 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ........................................................................ 9 8. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 9 B. NỘI DUNG ................................................................................................ 10 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ............................................................... 10 1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nƣớc pháp quyền, đạo đức và pháp luật 10 1.1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ................................................................... 10 1.1.2.Một số vấn đề lý luận về đạo đức và vai trò của đạo đức trong xã hội. ......................................................................................................................... 18 1.1.3. Một số vấn đề lý luận về pháp luật và vai trò của pháp luật trong nhà nước và xã hội. ................................................................................................ 22 1.2. Tính tất yếu của việc kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay .................. 27 1.2.1. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật ............................................... 27 1.2.2. Sự cần thiết phải kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. .............................. 30 1.3. Nội dung kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. .................................................. 33
- CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY HIỆU QUẢ KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY37 2.1. Thực trạng kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. ..................................................... 37 2.1.1. Khái quát lịch sử kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội ở Việt Nam. ......................................................................................................... 37 2.1.2. Những kết quả đã đạt được và một số hạn chế tồn tại của việc kết hợp pháp luật và đạo đức trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. ....................................................................................... 43 2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay....... 69 2.2.1. Đổi mới, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đạo đức, của pháp luật cũng như ý nghĩa của sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. ...................................... 69 2.2.2. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với củng cố và phát triển các giá trị đạo đức tiến bộ trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. ............................................................... 71 2.2.3. Chú trọng việc giáo dục nâng cao đạo đức, ý thức pháp luật trong gia đình, nhà trường, xã hội. ................................................................................. 75 2.2.4. Đánh giá đúng vai trò của dư luận xã hội và dựa vào những luồng dư luận tích cực để góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội. ......................................................................................................................... 78 2.2.5. Tăng cường công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức; chú trọng giáo dục cải tạo khi xử lý người vi phạm pháp luật. ......................................................................................................................... 81 KẾT LUẬN .................................................................................................... 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT NNPQ : Nhà nước pháp quyền NNPQ XHCN : Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
- A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đạo đức và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội quan trọng trong iến trúc thượng tầng, có vai trò rất quan trọng đối với việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong xã hội Á Đông truyền thống, đạo đức vốn được xem là công cụ chủ yếu của các nhà cầm quyền dùng để điều chỉnh hành vi con người, nhằm đem lại sự ổn định cho xã hội. Dần dần, sự phát tiển của xã hội làm cho các quan hệ xã hội biến đổi ngày càng phong phú và phức tạp, mà nếu chỉ dựa vào đạo đức, trật tự xã hội hông được bảo đảm. Khi đó, pháp luật xuất hiện với chức năng điều chỉnh hành vi con người mang tính bắt buộc. Cả đạo đức và pháp luật đều có những thế mạnh và điểm yếu riêng. Tuy vậy, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, biện chứng, tác động, ảnh hưởng và bổ sung cho nhau. Thực tiễn quản lý xã hội của các quốc gia cho thấy hông thể tách rời mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, ngay cả hi xây dựng NNPQ: một nhà nước thượng tôn pháp luật, thì những qui phạm pháp luật vẫn phải luôn có mối quan hệ với các qui phạm đạo đức. Trong điều kiện Việt Nam xây dựng NNPQ, pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng, mọi hoạt động của nhà nước và công dân đều chịu sự điều tiết của pháp luật; sự bình đẳng trước pháp luật là quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Tuy nhiên, Việt Nam trong một thời gian dài chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Nho giáo, sự coi trọng đạo lý, ứng xử theo đạo lý đã trở thành truyền thống của dân tộc. Người Việt đã quen với lối ứng xử “trăm cái lý hông bằng tý cái tình”. Có thể nói, hiện nay thói quen xử sự theo đạo lý vẫn còn ngự trị trong lối sống của không ít người. Vì vậy, trong điều kiện xây dựng NNPQ, khi pháp luật đã trở thành phương tiện chủ yếu để nhà nước thực hiện chức năng quản lý thì đạo đức vẫn giữ một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chính trong nét đặc thù này, đặt ra yêu cầu nhận thức đúng đắn về vai trò, về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp 1
- luật; Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế làm gia tăng tính phức tạp trong các quan hệ xã hội và đời sống xã hội nói chung. Song song với những ảnh hưởng tích cực là không ít những ảnh hưởng tiêu cực như lối sống thực dụng, xa rời các giá trị truyền thống v.v… Trong điều kiện đó, để nhà nước điều hòa một cách có hiệu quả nhất các quan hệ xã hội thì cần phải kết hợp chặt chẽ pháp luật với việc phát huy các giá trị đạo đức. Chính vì thế, nghiên cứu sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong điều kiện Đổi mới, xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay là việc làm có ý nghĩa quan trọng và cần thiết, góp phần xây dựng một nhà nước pháp quyền Việt Nam có một môi trường pháp lý thực sự tôn nghiêm, bên cạnh việc giữ gìn và phát huy được các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài Kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay để viết Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một vấn đề đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Về phương diện lý luận, từ trước đến nay, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức đã thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học ở một số lĩnh vực như: Luật học, Đạo đức học và Triết học. Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu theo hai mảng sau: Nhóm công trình nghiên cứu về đạo đức, pháp luật, về vai trò của đạo đức và pháp luật trong xã hội gồm có: Lê Quang Thưởng (1994), Tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo đức truyền thống và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phan Văn Tỉnh (1994), Đạo đức truyền thống của dân tộc là môi trường thuận lợi của việc thực hiện pháp luật, Xã hội và Pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn 2
- Quốc Việt (2002), Bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu cấp khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Tuyết Ba (2002), Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, Tạp chí Triết học, số 5; Nguyễn Bình Đặng Lục (2005), Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Hoàng Thị Kim Quế (2007), Pháp luật và đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Minh Đoan (2009), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong đó, nổi bật là các công trình: Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam (Nxb Khoa học xã hội, 2000) của hai tác giả Vũ Khiêu và Thành Duy. Sách đề cập đến vấn đề pháp luật và đạo đức ở Việt Nam một cách tương đối toàn diện, theo tiến trình lịch sử của sự phát triển. Sách tập trung phân tích những nét đặc trưng của đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển của dân tộc Việt Nam, thứ triết lý được hình thành từ lâu đời trong lịch sử dân tộc và đang biến đổi do tác động của các nhân tố phát triển của xã hội hôm nay. Có thể nói, trong từng chương của cuốn sách đều đã đề cập đến vị trí, vai trò của đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển của dân tộc qua các giai đoạn lịch sử của nó. Tuy nhiên, cuốn sách không chỉ ra đặc điểm cũng như sự tương tác giữa pháp luật với đạo đức, hông đề cập một cách cụ thể vai trò của đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội. Tác giả Nguyễn Quốc Việt có đề tài nghiên cứu: “Bảo lưu những giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay” (Đề tài nghiên cứu cấp Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Đây là công trình tuy chỉ tiếp cận một khía cạnh của mối quan hệ giữa đạo đức với pháp luật, nhưng tác giả đã đề cập đến vấn đề rất có ý nghĩa trong điều kiện hiện nay của nước ta. Đó là việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo 3
- đức truyền thống của dân tộc trong điều kiện mới, cụ thể là trong quá trình cải cách, đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền, hợp tác và hội nhập quốc tế. Tác giả đã nêu ra và luận giải các vấn đề như sự cần thiết phải bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện pháp luật; thực trạng bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống ở nước ta hiện nay... Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất nhiều giải pháp bao gồm các phương pháp, cách thức bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Trong nội dung nghiên cứu này, phải kể đến công trình điển hình là cuốn sách Pháp luật và đạo đức của tác giả Hoàng Thị Kim Quế (Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007). Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu khá đồ sộ về pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng. Trong đó, tác giả đã đề cập một cách tương đối toàn diện các vấn đề như vị trí, vai trò của pháp luật và đạo đức trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội; sự thống nhất, sự khác biệt và sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức. Công trình cũng giới thiệu cho người đọc những nội dung cơ bản trong tư tưởng pháp luật và đạo đức ở phương Đông, phương Tây. Cuốn sách cũng đề cập đến thực trạng đạo đức, pháp luật trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Qua đó, tác giả đề xuất nhiều giải pháp nhằm tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp giáo dục thực hành đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả không luận giải các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nhận thức của con người... ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, và chưa phân tích mối quan hệ này trong điều kiện cụ thể xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Tiếp theo là cuốn Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội của tác giả Nguyễn Minh Đoan (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009). Đây là một cuốn sách viết về vai trò của pháp luật với nội dung khá rõ ràng và dễ hiểu. 4
- Trong đó, tác giả phân tích sâu sắc về vai trò của pháp luật đối với nhà nước, đối với đời sống kinh tế - xã hội, đối với đường lối, chính sách của Đảng... Thông qua bốn chương của cuốn sách, tác giả nhấn mạnh rằng, pháp luật là công cụ quản lý xã hội không thể thiếu, công cụ quản lý xã hội quan trọng, có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, tác giả cũng hẳng định pháp luật không phải là công cụ quản lý duy nhất, càng không phải là công cụ quản lý vạn năng. Thông qua luận giải của tác giả, người đọc có thể hình dung một cách rõ ràng về vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. Nhóm công trình nghiên cứu về sự kết hợp, mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong đời sống xã hội có các công trình: Triệu Vũ (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa đức trị và pháp trị trong quản lý xã hội, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 11; Trần Hậu Thành (1998), Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5; Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh (2000), Về quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 6; Hoàng Xuân Châu (2002), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học Đại học Quốc gia Hà Nội; Lương Hồng Quang (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh; hàng loạt công trình nghiên cứu chuyên sâu của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức như: Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7/ 1999; Hoàng Thị Kim Quế (chủ nhiệm) Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, 2002; Vấn đề kết hợp quản lý xã hội bằng pháp luật với giáo dục nâng cao đạo đức ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 12/2002; Nguyễn Thúy Hoa (2006), Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước tại Việt Nam hiện nay, Luận văn 5
- Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Tạ Thị Thu Đông (2012), Kết hợp đạo đức và pháp luật – cơ sở và giải pháp trong việc quản lý xã hội, xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay, Tạp chí Phát triển nhân lực, số 3; Nguyễn Văn Năm (2012), Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Đại học Luật Hà Nội. Xin điểm qua một số công trình nghiên cứu ở nội dung này như: Đề tài nghiên cứu: "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay" của tác giả Hoàng Thị Kim Quế (Đề tài Khoa học cấp Bộ, 2002). Đây là công trình nghiên cứu một cách khá toàn diện các vấn đề như vị trí, vai trò, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội; tác giả cũng bước đầu nghiên cứu những biểu hiện việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức ở một số lĩnh vực pháp luật cụ thể; trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Tác giả Lương Hồng Quang có đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002), và tác giả Tạ Thị Thu Đông có đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và pháp luật (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010) nghiên cứu về mối quan hệ giữa đạo đức, pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Những đề tài này đề cập một cách khá sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức và pháp luật; mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai tác giả đều có sự phân tích khá sâu sắc các quan điểm, tư tưởng của Hồ Chủ tịch và khẳng định, đạo đức là gốc, là cơ sở để xây dựng pháp luật tiến bộ, là nhân tố đảm bảo việc thực hiện pháp luật, là công cụ hỗ trợ cho pháp luật trong việc giữ gìn trật xã hội, thuần phong mỹ tục của dân tộc; ngược lại, pháp luật cũng có tác động mạnh mẽ đến đạo đức. Pháp luật ghi nhận và đảm bảo về mặt pháp lý các chuẩn mực đạo đức, là công cụ hữu 6
- hiệu hỗ trợ cho cái thiện đấu tranh thắng cái ác, tạo điều kiện để các giá trị đạo đức phát triển bền vững. Chính vì vậy, luận văn hẳng định, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội. Có thể nói, các luận văn đều đã đề cập trực diện nhiều khía cạnh trong mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Xuân Châu với đề tài Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Luận văn đã đề cập những khía cạnh của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Tuy nhiên luận văn hông đề cập một cách cụ thể quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Luận văn trình bày về những điểm tương đồng, khác biệt và sự tác động qua lại giữa pháp luật với đạo đức cũng như đề cập đến vai trò của pháp luật, đạo đức trong quản lý xã hội nhưng chưa chỉ ra đặc thù của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong giai đoạn hiện nay; chưa luận giải về sự cần thiết phải kết hợp giữa pháp luật với đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội. Nhìn chung, các công trình kể trên đã nghiên cứu về đạo đức và pháp luật, về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật nói chung, hay là mối quan hệ đạo đức và pháp luật trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Các tác giả đã nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt của đạo đức và pháp luật, sự ảnh hưởng qua lại một cách mật thiết giữa chúng; chỉ ra vai trò của đạo đức và pháp luật trong đời sống xã hội với tư cách là những phương tiện quan trọng điều chỉnh hành vi con người. Một số công trình nghiên cứu vấn đề kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội nói chung. Tuy nhiên, các công trình chưa đề cập một cách cụ thể sự kết hợp đạo đức với pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiên nay. Đây là hướng nghiên cứu mà tác giả luận văn muốn hướng đến. 7
- 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về đạo đức, pháp luật, nhà nước pháp quyền, luận văn đi vào làm rõ tính tất yếu và thực trạng sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm kết hợp đạo đức và pháp luật một cách hiệu quả hơn. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau: Một là, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền, về đạo đức và pháp luật, về mối quan hệ giữa đạo đức pháp luật. Hai là, làm rõ tính tất yếu và thực trạng của việc kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Ba là, bước đầu đề xuất một số giải pháp phát huy hiệu quả việc kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng: Sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam. - Phạm vi: Luận văn nghiên cứu sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam, từ thời kỳ Đổi mới đến nay, thể hiện trong các văn iện Đảng, trong hoạt động lập pháp và thực thi pháp luật trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan niệm của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về lý luận NNPQ XHCN, về pháp luật và đạo đức. Ngoài ra, luận văn còn tham hảo, sử dụng kết quả các công trình trong nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp đến nội dung của luận văn. 8
- - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp của phép biện chứng duy vật như: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống nhất logic – lịch sử, hái quát hóa… 6. Đóng góp mới của luận văn - Trên cơ sở lý giải sự cần thiết và thực trạng kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay, luận văn bước đầu đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng cho việc nâng cao hiệu quả của sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: Góp phần bổ sung và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo dùng trong công tác nghiên cứu những vấn đề liên quan, tiếp cận ở cả góc độ triết học, đạo đức và pháp luật. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. 9
- B. NỘI DUNG CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nƣớc pháp quyền, đạo đức và pháp luật. 1.1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam * Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử Tư tưởng về nhà nước pháp quyền được hình thành cách đây hơn hai nghìn năm. Lúc đầu đó chỉ là những ý tưởng, những quan niệm của các nhà tư tưởng về những yếu tố, những khía cạnh có tính đơn biệt của việc tổ chức quyền lực nhà nước, phát huy vai trò của pháp luật và giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật. Sau đó những ý tưởng này được phát triển thành tư tưởng có giá trị phổ biến của nhân loại. Nội dung chủ yếu của tư tưởng nhà nước pháp quyền là đề cao vai trò của pháp luật nhằm bảo vệ các giá trị xã hội như tự do, công bằng, bình đẳng và phát triển. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, do đòi hỏi của lịch sử và xuất phát từ khát vọng về tự do, dân chủ, có hai thời kỳ xuất hiện nhiều tư tưởng, quan điểm tích cực, tiến bộ về nhà nước pháp quyền. Đó là thời kỳ nhà nước cổ đại Hy Lạp, La Mã hi mà nhà nước chiếm hữu nô lệ đã thể hiện hết tính chất tàn bạo, dã man của nó và thời kỳ cách mạng tư sản ở châu Âu khi giai cấp tư sản phát động các cuộc cách mạng đánh đổ chế độ phong kiến chuyên chế, xây dựng nền cộng hoà và xã hội tự do, bình đẳng, bác ái. Những tư tưởng tích cực tiến bộ về Nhà nước pháp quyền trong thời kỳ cổ đại ở phương Tây thể hiện rõ nét ở các nhà tư tưởng tiêu biểu của thời kỳ này như Solong, Socrat, Platon, Aristot, Xixeron v.v… Solong (638-559 tr.CN) được coi là người đầu tiên nêu ý tưởng về nhà nước pháp quyền khi ông chủ trương cải cách nhà nước Athen bằng việc đề 10
- cao vai trò của pháp luật. Theo ông, chỉ có pháp luật mới thiết lập được trật tự và tạo nên sự thống nhất, ông chủ trương giải phóng tất cả mọi người bằng pháp luật, nhà nước và pháp luật là hai công cụ để thực hiện dân chủ, tự do và công bằng, vì vậy, hãy kết hợp sức mạnh quyền lực nhà nước với pháp luật. Nhà nước Athen với những tư tưởng cải cách của Solong được xem là nhà nước dân chủ nhất cho đến thời điểm đó. Heraclit (520-460 tr.CN) cho rằng pháp quyền là phương tiện quan trọng để chống lại cực quyền, ông kêu gọi nhân dân phải đấu tranh để bảo vệ pháp luật như bảo vệ chốn nương thân của mình. Platon (427-374 tr.CN) quan niệm tinh thần thượng tôn pháp luật phải là nguyên tắc, bản thân nhà nước và các nhân viên nhà nước phải tôn trọng pháp luật; nhà nước sẽ suy vong nếu pháp luật không còn hiệu lực hoặc chỉ phụ thuộc vào chính quyền; Xixeron (106-43 tr.CN) đưa ra quan niệm: nhà nước phải là một cộng đồng pháp lý. Quan niệm của các nhà tư tưởng cổ đại tuy được nêu ở những góc độ hác nhau nhưng tựu trung đều cổ vũ cho việc đề cao pháp luật và xây dựng nhà nước hoạt động trong khuôn khổ pháp luật công bằng. Những ý tưởng đó có ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành và phát các lý thuyết về tính tối cao của pháp luật, về phân chia quyền lực nhà nước và nhà nước pháp quyền nói chung. Những quan điểm, tư tưởng về nhà NNPQ thời kỳ cổ đại được tiếp tục phát triển, nhất là trong thời kỳ các cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến chuyên chế, độc tài và vô pháp luật ở châu Âu thế kỷ 17, 18. Trong thời kỳ này tư tưởng về nhà nước pháp quyền được phát triển khá phong phú, toàn diện, hình thành hệ thống quan điểm trong các học thuyết chính trị - pháp lý, tiêu biểu là quan điểm của các nhà tư tưởng: J.Lock, S.L. Montesquieu, J.J.Rousseau, I.Kant, Hegel, Monh. Trong đó, đáng chú ý là học thuyết của J.Lock, S.L.Montesquieu và J.J.Rousseau. 11
- John Lock (1632-1704) là người đặt nền móng cho sự ra đời học thuyết về nhà nước pháp quyền tư sản. Ông đưa ra tư tưởng về nhà nước trong cuốn “Khảo luận thứ hai về chính quyền”. J.Loc nhận thấy nguy cơ của quyền lực tuyệt đối, quyền của độc tài dù trao cho một cá nhân hay một nhóm người. Ông cho rằng dạng nhà nước tốt nhất là quyền lực của hệ thống chính quyền được hạn chế bằng cách chia thành các nhánh và mỗi nhánh có quyền hạn riêng đủ cần thiết để thực hiện chức năng của mình. Ông cho rằng một hệ thống nhà nước cần có quyền xét xử độc lập dựa trên duy nhất hiến pháp chung của quốc gia. Trách nhiệm lập pháp là của quốc hội và nhiệm vụ của nhà vua là hành động như một người chấp pháp tối cao. Tiếp sau John Lock, Montesquieu (1698-1755) trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” đã đề ra lý thuyết phân chia quyền lực, một trong những nội dung chủ yếu của NNPQ tư sản. Ông quan niệm, khi nắm trong tay quyền lực con người thường có xu hướng lạm dụng nó, vì vậy, phân chia quyền lực để tránh lạm quyền. Theo ông, mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực là: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Để chống độc quyền thì ba thứ quyền lực này phải được tổ chức sao cho có tính độc lập và kiềm chế lẫn nhau. J.J.Rousseau (1712-1788) trong “Bàn về khế ước xã hội” đã coi hế ước xã hội là cơ sở để giải quyết các vấn đề về nhà nước, pháp luật và công dân. Ông đã bàn cặn kẽ về “tam quyền” theo lý thuyết của Montessquieu. “Khế ước xã hội” là ý chí chung, là quyền lực tối cao được thiết lập từ những cá thể thành viên hợp lại. Ý chí chung của toàn thể dân chúng hi được công bố nó trở thành luật. Đến I.Kant (1724-1804) – học giả người Đức, lý thuyết về nhà nước pháp quyền tư sản với tính cách là một học thuyết triết học – chính trị tương đối hoàn chỉnh đã được xác định. Ông triệt để tán thành việc áp dụng lý 12
- thuyết phân quyền. Theo ông ở đâu áp dụng nguyên tắc này thì ở đó có NNPQ, nếu không chỉ là chuyên quyền. Lý luận inh điển về NNPQ phát triểm mạnh ở nước Đức vào nửa đầu thế kỷ XIX. Robert Fon Mohn, Karl Teodor Valker - hai nhà luật học người Đức, là những người đầu tiên dùng thuật ngữ NNPQ đã được lập luận trong triết hoc của Canter, Hegen. Mohn và Val er đề ra nguyên tắc về tính tối cao của luật như là tiêu chuẩn quan trọng nhất của NNPQ. Theo Mohn, trong ba loại quyền trong NNPQ thì quyền lập pháp có vị trí cao nhất, không thể không có sự kiểm tra của các cơ quan tư pháp lớn hơn sự hoạt động lập pháp mà chỉ lớn hơn các cơ quan hành pháp mà thôi. Theo Mohn và Val er, trong những tiêu chuẩn của NNPQ đó là sự bình đẳng của mọi người trước pháp luật, thừa nhận mục đích sống còn của tất cả mọi người không phụ thuộc vào địa vị xã hội của họ. Tính tối cao của luật, sự ngự trị của pháp luật thể hiện qua quyền lực nhân dân dưới thình thức chủ quyền của nghị viện. Như vậy, từ thế kỷ XVII-XVIII, trong triết học pháp quyền đã thiết lập nguyên tắc bình đẳng về hình thức pháp luật của tất cả mọi người tham gia các quan hệ pháp luật, bằng sự thống nhất về bản chất của lợi ích và nhu cầu. Trong quan niệm cổ điển của thuyết pháp quyền tự nhiên của J.J.Rousseau, cơ chế kiểm tra của bộ máy chính trị - nhà nước được dùng để cân bằng lợi ích của toàn dân, của các nhóm, các giai tầng và các lợi ích cá nhân. Và sự cân bằng đó chỉ có thể đạt được, vẫn theo tư tưởng của J.J.Rousseau, khi có sự phân quyền và tôn trọng tính tối cao của luật và không chỉ là trật tự pháp luật tối ưu mà còn là tổ chức chính trị lý tưởng nói chung. Ở phương Đông, mầm mống về tư tưởng NNPQ cũng xuất hiện từ thời cổ đại. Đó là tư tưởng pháp trị của các nhà tư tưởng thuộc phái Pháp gia như: Quản Trọng, Thương Ưởng, Hàn Phi… Quản Trọng chủ trương đề cao “Luật, lệnh, hình, chính”, vua phải giữ pháp, không vì vua muốn mà thay đổi lệnh, lệnh đáng tôn hơn vua. Hàn Phi coi pháp là chuẩn mực cao nhất của việc cai 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội) - Đặng Thị Kim Anh
21 p | 275 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Triết lý nhân sinh trong Tây du ký
116 p | 468 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 363 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển
85 p | 163 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Nghệ thuật và vai trò của nghệ thuật trong việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam giai đoạn hiện nay
91 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Một số tính chất của đồng điều địa phương cho môđun Compắc tuyến tính
42 p | 106 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm về con người trong chủ nghĩa hiện sinh
106 p | 6 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng tam quyền phân lập trong triết học khai sáng
98 p | 5 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của Immanuel Kant và ý nghĩa thời đại
110 p | 5 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay
94 p | 6 | 4
-
tr.Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
15 p | 86 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh - Giá trị và hạn chế
115 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề chân lý trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ
104 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của Karl Popper về xã hội mở
116 p | 4 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
100 p | 3 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Nguyễn Phước Đức Đạt qua tác phẩm
107 p | 5 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
127 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper trong một số tác phẩm
108 p | 3 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn