Luận văn Thạc sĩ Triết học: Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay
lượt xem 10
download
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế và phân tích thực trạng của việc giải quyết mối quan hệ này ở nước ta thời gian qua, luận văn đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng nhằm giải quyết hiệu quả mối quan hệ này ở nước ta hiện nay. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI *** TRUNG TÂM ĐẠO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN, CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ THU HIỀN mèi quan hÖ gi÷a x©y dùng nÒn kinh tÕ ®éc lËp tù chñ vµ héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ ë n-íc ta hiÖn nay LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2007
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI *** TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN, CHÍNH TRỊ NguyÔn ThÞ Thu HiÒn mèi quan hÖ gi÷a x©y dùng nÒn kinh tÕ ®éc lËp tù chñ vµ héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ ë n-íc ta hiÖn nay Chuyên ngành: Triết học Mã số : 60 22 80 luËn v¨n th¹c sÜ triÕt häc Giáo viên hướng dẫn: PGS. NGUYỄN BẰNG TƯỜNG hµ néi - 2007
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY 6 1.1. Tính tất yếu của xây dựng nền kinh tế độc lập tự 6 chủ………. 10 1.2. Tính tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế ở nƣớc ta hiện nay…... 1.3. Quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ 19 và hội nhập kinh tế quốc tế ở nƣớc ta hiện nay…………….. CHƢƠNG 2: KẾT HỢP GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƢỚC TA: THỰC TRẠNG 28 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 2.1. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế trong chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng 28 Cộng sản Việt Nam …………………………………………. 2.2. Kết hợp xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập 42 kinh tế quốc tế: những thành tựu và hạn chế………………… CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP MANG TÍNH ĐỊNH HƢỚNG NHẰM KẾT HỢP HIỆU QUẢ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP 71 TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN 71 NAY 3.1. Về nhận thức và chủ trƣơng, đƣờng lối…………………… 74 3.2. Đổi mới, nâng cao năng lực và vai trò quản lý của nhà nƣớc 81 đối với nền kinh tế…………………………………………… 87 3.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế…………… 91 3.4. Đào tạo nguồn nhân lực…………………………………….. 93 KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á AFTA Khu Mậu dịch tự do ASEAN APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEM Hội nghị Á - Âu CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNTB Chủ nghĩa tư bản CNXH Chủ nghĩa xã hội EU Liên minh châu Âu FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP Tổng thu nhập trong nước HNKTQT Hội nhập kinh tế quốc tế IMF Quỹ tiền tệ Quốc tế HDI Chỉ số phát triển con người ODA Viện trợ phát triển chính thức XHCN Xã hội chủ nghĩa WB Ngân hàng Thế giới WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, trước tác động mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) đã trở thành xu thế tất yếu của các quốc gia dân tộc trong quá trình phát triển. Đây là con đường đi phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, cho phép các nước tận dụng được các cơ hội và điều kiện thuận lợi của quá trình toàn cầu hóa để phát triển kinh tế đất nước. Nhận thức được tính tất yếu của HNKTQT đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta, Nghị quyết số 07 của Bộ Chính trị Về hội nhập kinh tế quốc tế đã nêu rõ: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị thường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [21]. Quá trình HNKTQT vừa tạo cơ hội, thời cơ phát triển, vừa đặt ra những thách thức không nhỏ, đặc biệt đối với các nước nghèo, kém phát triển. Tham gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, các nước đều phải đối mặt với một thách thức là: làm thế nào để hội nhập mà vẫn giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, duy trì ổn định chính trị trong nước, tăng thế và lực của mình trên trường quốc tế. Thực tế đã cho thấy, con đường tất yếu để có thể vượt qua được những thách thức đó là hội nhập kinh tế phải đi đôi với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Kết hợp xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với HNKTQT không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị của một quốc gia, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ sẽ cho phép chúng ta vừa khai thác được tiềm năng bên ngoài lẫn trong nước, kết hợp nội lực và ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó, có giữ được độc lập tự chủ, mới 1
- duy trì được phát triển bền vững, không bị hòa tan, không đánh mất mình trong điều kiện mở cửa, HNKTQT. Đây là bài học kinh nghiệm thực tế không chỉ của riêng nước ta mà còn của không ít quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Hơn thế, giờ đây sự nghiệp đổi mới của nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các lực lượng chống phá thường xuyên tìm cách ngăn cản, chống phá chủ nghĩa xã hội (CNXH). Nếu không tạo dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ, thì rất dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo, hoặc khống chế, ép buộc chúng ta phải thay đổi chế độ chính trị, đi chệch quỹ đạo chủ nghĩa xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của việc kết hợp giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và HNKTQT đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, Đảng ta đã nhấn mạnh nhiệm vụ: “gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế". Đây là hai nội dung có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa là điều kiện, vừa là kết quả của nhau: “Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả; hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ” [22, tr.166]. Việc kết hợp hiệu quả hai nội dung này trong thực tế là một bài toán không hề đơn giản đối với các nhà hoạch định chính sách và cũng là mối quan tâm của nhiều người làm công tác nghiên cứu khoa học ở nước ta hiện nay nhất là trong bối cảnh hiện nay khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Việc nghiên cứu và làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và HNKTQT không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn cấp bách đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Xuất phát từ nhận thức đó, tác giả chọn vấn đề: “Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội 2
- nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ Triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết của các tác giả từ nhiều góc độ khác nhau nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến đề tài như: Bộ ngoại giao, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Bộ Ngoại giao - Vụ Hợp tác kinh tế đa phương, Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Hà nội, 2000; Nguyễn Văn Ninh, “Hội nhập quốc tế và độc lập tự chủ trong kinh tế", Tạp chí Cộng sản, 3/1998; Phan Doãn Nam, “Lại bàn về hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 2/1999; Nguyễn Mại, “Hội nhập kinh tế với thế giới: vấn đề và giải pháp” Tạp chí Cộng sản, 5/2000; Lê Doãn Tá, “Toàn cầu hoá kinh tế hiện đại và sự hội nhập của các nước đang phát triển - vấn đề đặt ra và cách tiếp cận”, Toàn cầu hoá: Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Lương Văn Tự, “Vượt lên những thách thức mới trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới”, Tạp chí Cộng sản, số 9/2002; Vũ Văn Họa, Vai trò của chính trị trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội - 2002; Vũ Văn Phúc, “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3/2005; Trúc Lâm, “Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam - Chặng đường mới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, số 121 - 2006; v.v... Các công trình nghiên cứu và các bài viết trên đây đã đề cập đến khá nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau liên quan đến nội dung của đề tài như vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong xu thế toàn cầu hóa, v.v… song nhìn chung chưa có công trình nào 3
- đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: - Hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế. - Thực tế giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta thời gian qua. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta từ khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước (1986) đến nay. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích: Trên cơ sở phân tích mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế và phân tích thực trạng của việc giải quyết mối quan hệ này ở nước ta thời gian qua, Luận văn đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng nhằm giải quyết hiệu quả mối quan hệ này ở nước ta hiện nay. 4.2. Nhiệm vụ của luận văn: - Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong bối cảnh hiện nay. - Tìm hiểu thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc giải quyết mối mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay. 4
- - Đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng trong kết hợp giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Trong quá trình giải quyết những nhiệm vụ đề ra trong luận văn, tác giả quán triệt và tuân thủ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: - Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Kết hợp các phương pháp cụ thể khác như: phuơng pháp lịch sử và phuơng pháp lôgic, phuơng pháp phân tích và phương pháp tổng hợp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Luận văn góp phần làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong bối cảnh hiện nay. - Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong hoạch định chính sách, trong việc nghiên cứu và giảng dạy những môn học liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết. 5
- Chương 1 TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1.1. Tính tất yếu của xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ 1.1.1. Khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ Trước đây, khi nói đến nền kinh tế độc lập tự chủ người ta thường liên tưởng tới một nền kinh tế tự lực cánh sinh, “tự cấp tự túc”, biệt lập, khép kín, ít giao lưu hợp tác với bên ngoài, trong đó phải có đủ các ngành kinh tế, phải có cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh, phải tự đảm bảo được mọi nhu cầu trong nước, hay ít nhất phải là những nhu cầu thiết yếu. Và chỉ với nền kinh tế như vậy, chủ quyền quốc gia mới được đảm bảo, mới không bị lệ thuộc vào bên ngoài và mới tự quyết định được các vấn đề của đất nước. Ngày nay, khi mà xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu trong đó nền kinh tế của mỗi quốc gia là một bộ phận của nền kinh tế thế giới thống nhất thì nền kinh tế độc lập tự chủ không thể là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, thực hiện đóng cửa, không cần hội nhập với nền kinh tế thế giới. Độc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập tự chủ trong phát triển nền kinh tế thị trường và chủ động mở cửa, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới; tích cực tham gia vào giao lưu hợp tác, phân công lao động quốc tế, trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu quả trên thương trường quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nền kinh tế độc lập tự chủ cần được hiểu: đó là nền kinh tế không bị chi phối hay lệ thuộc vào nước khác, 6
- người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển kinh tế; có khả năng tận dụng được tối ưu các nguồn lực bên ngoài và bên trong cho sự phát triển bền vững của đất nước đồng thời có khả năng ứng phó một cách hiệu quả với những biến động của thị trường khu vực và thế giới. Thực tế cho thấy, muốn giữ được độc lập tự chủ về kinh tế, nhất thiết phải có hai điều kiện: một là, có đường lối, chính sách độc lập tự chủ; hai là, có thực lực kinh tế đủ mạnh ở mức cần thiết.. *Độc lập tự chủ về đường lối, chính sách kinh tế có nghĩa là tự quyết định lựa chọn định hướng phát triển, tự đưa ra chủ trương, chính sách và mô hình kinh tế, các quyết sách để chủ động hội nhập, hội nhập có định hướng theo lộ trình hợp lý, không bị động và lệ thuộc vào bên ngoài. * Thực lực kinh tế đủ mạnh trong điều kiện hiện nay bao gồm những yếu tố cơ bản sau: Thứ nhất, toàn bộ giá trị sản xuất trong nước phải đáp ứng được đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và có phần tích lũy cần thiết từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để tái sản xuất mở rộng. Thứ hai, có thể chế kinh tế - xã hội bền vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý, phát huy được lợi thế so sánh, có đủ khả năng tạo ra sức cạnh tranh; bảo đảm được nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững. Thứ ba, có một năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ để làm chủ công nghệ nhập khẩu và sáng tạo công nghệ mới để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện khi mà sức cạnh tranh kinh tế ngày càng dựa vào thế mạnh và khả năng về khoa học, công nghệ. 7
- Thứ tư, có nền tài chính lành mạnh, đảm bảo giữ được cán cân thanh toán, có dự trữ ngoại tệ cần thiết, không bị động và lệ thuộc vào bên ngoài. Thứ năm, kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội phải được xây dựng đồng bộ; có các yếu tố vật chất đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh môi trường… Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hóa và HNKTQT hiện nay, thì việc xây dựng một thực lực kinh tế đủ mạnh có nghĩa là phải xây dựng một nền kinh tế đảm bảo các yêu cầu phát triển bền vững, có hiệu quả trên cơ sở phát huy được những lợi thế so sánh để có thể kết hợp được tối ưu các nguồn vốn, công nghệ hiện đại, thị trường bên ngoài với các nguồn lực bên trong, đồng thời cơ chế kinh tế phải là cơ chế thị trường mở thích ứng với các định chế quốc tế, các cam kết quốc tế, hội nhập có hiệu quả vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Đây là những yếu tố cơ bản và cần thiết để đảm bảo cho nền kinh tế đủ sức đứng vững trước những biến động đầy phức tạp của tình hình thế giới hiện nay. 1.1.2. Tính tất yếu của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ Đối với một quốc gia dù lớn hay nhỏ, độc lập tự chủ về kinh tế luôn là nền tảng vật chất cơ bản để giữ vững độc lập tự chủ về chính trị. Điều đó được quy định bởi vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng. Không thể có độc lập tự chủ về chính trị nếu như bị lệ thuộc về kinh tế. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị của một quốc gia, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn phát triển. Có giữ được độc lập tự chủ, mới duy trì được phát triển bền vững, không bị hòa tan, không đánh mất mình trong điều kiện mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với các nước đang phát triển, độc lập về chính trị còn là 8
- thành quả giành được từ cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ chống thực dân đế quốc. Nhưng trước xu thế toàn cầu hóa, nguy cơ mất độc lập tự chủ của các nước này ngày càng tăng, lợi ích của dân tộc đang bị các thế lực tư bản độc quyền xuyên quốc gia, các thế lực tài phiệt quốc tế đe dọa, lấn át và tăng cường sự bóc lột siêu lợi nhuận. Thực tế ngày nay cho thấy, các nguồn lưu chuyển khổng lồ về hàng hóa, dịch vụ, thông tin, vốn, công nghệ và các mạng lưới công ty đa quốc gia rộng khắp toàn cầu đã và đang thâm nhập vào hầu hết các nước trên thế giới. Trong bối cảnh đó, chỉ quốc gia nào có được một nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới có thể giành được thế chủ động trong hội nhập, tránh được tình trạng bị áp đặt, khống chế bởi các thế lực bên ngoài... Chính vì vậy, để bảo vệ chủ quyền quốc gia trước nguy cơ can thiệp, áp đặt của các nước lớn, các nước đang phát triển đang ra sức tập trung mọi nguồn lực để phát triển kinh tế. Hơn ai hết, các nước đang phát triển đều nhận thức được rằng chỉ có một nền kinh tế độc lập tự chủ mới đảm bảo giữ vững được độc lập tự chủ về chính trị, mới không bị lệ thuộc, bị lôi kéo hay bị khống chế bởi các thế lực đế quốc chủ nghĩa. Đối với các nước lựa chọn con đường đi lên CNXH như nước ta, trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các lực lượng chống đối CNXH thường xuyên tìm cách ngăn cản và chống phá sự nghiệp xây dựng chế độ XHCN nếu không xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ thì dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo, hoặc khống chế ép buộc thay đổi chế độ chính trị, đi chệch quĩ đạo của CNXH. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ là yêu cầu tất yếu nhằm bảo đảm độc lập tự chủ về chính trị mà còn là yếu tố vật chất quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo đảm tính an toàn cho mỗi nền kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa khi mà sự liên kết kinh tế quốc tế ngày càng chặt chẽ thì sự biến động kinh tế ở một quốc gia sẽ trực 9
- tiếp ảnh hưởng đến các quốc gia khác mà nó có quan hệ. Sự ảnh hưởng đó nhiều hay ít còn tùy thuộc vào các yếu tố cấu thành nền kinh tế của quốc gia đó. Thực tế cho thấy, quốc gia nào có thực lực kinh tế càng mạnh, tức là càng độc lập tự chủ thì càng ít bị tổn thương trước những biến động tiêu cực của nền kinh tế khu vực và thế giới. Như vậy, việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày nay hoàn toàn không mâu thuẫn với xu thế toàn cầu hóa và HNKTQT mà đó là yêu cầu khách quan, là nhu cầu tất yếu bắt nguồn từ chính quá trình toàn cầu hóa và HNKTQT của các quốc gia trong quá trình hợp tác và đấu tranh vì lợi ích của dân tộc mình. 1.2. Tính tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay 1.2.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế * Định nghĩa hội nhập kinh tế quốc tế Ở nước ta, thuật ngữ “hội nhập” là một khái niệm mới được sử dụng phổ biến trong bối cảnh chúng ta xúc tiến mạnh mẽ chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, tích cực triển khai các nỗ lực để gia nhập vào các định chế, tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế. Theo đó, “hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu là quá trình chủ động gắn liền nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa thị trường trong nước đồng thời tiến hành điều chỉnh, cải cách kinh tế trong nước theo hướng thích ứng và tận dụng tối đa các nguồn lực bên ngoài. Như vậy, hội nhập là hành động chủ quan, có ý thức của chủ thể, ở đây là của các chính phủ, nhằm tận dụng sức mạnh của thời đại để tăng cường sức mạnh của dân tộc mình. Hội nhập quốc tế trước kia cũng như hiện nay đều có mục đích giống nhau là tận dụng đến mức tối đa sự hợp tác quốc tế để tăng 10
- cường sức mạnh dân tộc nhưng trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, HNKTQT có nét mới so với trước đây. Nếu như trước đây, trong giai đoạn quốc tế hóa, việc hội nhập vào nền kinh tế quốc tế chủ yếu là sự thâm nhập vào thị trường thế giới thông qua việc bành trướng các hoạt động kinh tế vượt ra khỏi khuôn khổ của biên giới quốc gia thì ngày nay, hội nhập kinh tế bao hàm trong đó cả quá trình chủ động thâm nhập vào thị trường thế giới, tham gia phân công lao động quốc tế, đồng thời phải chấp nhận để các đối tác bên ngoài thâm nhập vào nền kinh tế và thị trường của nước mình. *Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự tự giác gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế khu vực và thế giới, tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại quốc tế, chấp nhận tuân thủ những quy định chung được hình thành trong quá trình hợp tác và đấu tranh giữa các nước thành viên của các tổ chức ấy. Để quá trình hội nhập thu được lợi ích lớn nhất các quốc gia đều phải nỗ lực cả về chính sách và hành động thực tiễn để cơ cấu lại nền kinh tế trong nước theo hướng hội nhập, đó là: điều chỉnh chính sách theo hướng tự do hóa và mở cửa nền kinh tế; Điều chỉnh hệ thống luật pháp cho phù hợp với thông lệ quốc tế; Điều chỉnh cơ cấu kinh tế nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế tối ưu, có khả năng cạnh tranh cao, phát huy tốt nhất những lợi thế của đất nước trong quá trình hội nhập; Tiến hành cải cách hệ thống các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh; Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. * Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế: các hình thức hội nhập ngày nay thường diễn ra ở các cấp độ đa phương và song phương. 11
- - Ở cấp độ đa phương, đó là việc nhiều nước cùng nhau thành lập hoặc tham gia vào những định chế, tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, như Liên minh châu Âu (EU), Khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng thế giới (WB), Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Thực tế cho thấy, mặc dù mỗi tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế có yêu cầu về nội dung, lộ trình và mốc thời gian tự do hóa thương mại khác nhau nhưng nhìn chung chúng thường vận hành trên cơ sở các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). - Ở cấp độ song phương, đó là việc thiết lập các quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học - kỹ thuật với từng nước riêng rẽ trong cộng đồng quốc tế. Các quan hệ kinh tế song phương trong thời đại ngày nay được thực hiện theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Những năm gần đây, xu hướng này diễn ra khá phổ biến, nhiều nước đã và đang tích cực đàm phán để ký với nhau các hiệp định song phương trên cơ sở các nguyên tắc của một khu mậu dịch tự do. Thực tế hiện nay cho thấy, những định chế đa phương toàn cầu đặc biệt là Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đang đóng vai trò hướng dẫn, tạo khuôn khổ chi phối các quan hệ kinh tế song phương. Do vậy, các quan hệ kinh tế song phương nhìn chung vẫn phải dựa theo các qui định của hợp tác kinh tế đa phương. 1.2.2. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế HNKTQT có liên quan trực tiếp với toàn cầu hóa kinh tế và là một quá trình đồng hành với quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Tính tất yếu của HNKTQT bắt nguồn từ quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra hết sức nhanh chóng và mạnh mẽ trên thế giới. 12
- Vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, toàn cầu hoá đã trở thành xu hướng chủ đạo chi phối đời sống thế giới và hệ thống quan hệ quốc tế đương đại. Quá trình ấy diễn ra đặc biệt sôi động trong lĩnh vực kinh tế. Thực tế cho thấy, đây là một xu thế khách quan, là sự phát triển ở cấp độ mới cao hơn về chất của quá trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất vốn có trước đó. Toàn cầu hóa không chỉ tạo ra những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, mà còn thúc đẩy các mối quan hệ liên quốc gia gia tăng cả về bề rộng lẫn bề chiều sâu. Trong đó, tự do hóa kinh tế và cải cách nền kinh tế theo hướng thị trường diễn ra phổ biến; Các nền kinh tế dựa vào nhau, liên kết với nhau, xâm nhập lẫn nhau khiến cho tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng. Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về toàn cầu hóa xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nhưng đa số thống nhất quan điểm cho rằng: “Toàn cầu hóa là biểu hiện và là kết quả của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dẫn đến phá vỡ sự biệt lập của các quốc gia, tạo ra mối liên hệ gắn kết, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên qui mô toàn cầu trong sự vận động phát triển” [43, tr. 16]. Nhìn ở góc độ phân công lao động thì toàn cầu hóa thực chất là sự phát triển cao và mở rộng quá trình phân công lao động trên phạm vi các khu vực và toàn thế giới. Trên cơ sở của sự phát triển của lực lượng sản xuất, của quá trình phân công lao động quốc tế cũng như sự hoàn thiện của các phương tiện giao thông vận tải và thông tin, sự liên kết về kinh tế giữa các nước ngày càng phát triển rộng hơn về không gian, từ hình thức thấp tới hình thức cao, từ lỏng lẻo tới chặt chẽ, từ lĩnh vực sản xuất vật chất lan tỏa ra các lĩnh vực lưu thông phân phối, dịch vụ, tài chính, tiền tệ. Như vậy, toàn cầu hóa có vai trò to lớn thúc đẩy sản xuất của toàn nhân loại, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu, mở rộng quan hệ hợp tác giữa các nước trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực 13
- kinh tế. Toàn cầu hóa khiến cho cả thế giới ngày càng trở thành một thị trường, một chỉnh thể mà trong môi trường đó, mỗi quốc gia riêng biệt chỉ có thể phát triển được khi tự đặt mình là một yếu tố không thể tách rời của cộng đồng thế giới. Cùng với sự lan tỏa mạnh mẽ của toàn cầu hóa, quá trình hợp tác liên kết khu vực được bắt đầu từ thập niên 50 (thế kỷ XX) cũng tiếp tục phát triển rất sôi động tại khắp các châu lục. Sự liên kết khu vực hay còn gọi là xu thế khu vực hóa trước hết đều hướng tới mục tiêu đẩy mạnh hợp tác, thực hiện tự do hóa thương mại, đầu tư và dịch vụ, tạo lợi thế cạnh tranh của khu vực trên trường quốc tế. Quá trình này đã đưa đến sự xuất hiện của hàng loạt các tổ chức hợp tác kinh tế, thương mại. Trong đó đáng chú ý nhất là tiến trình nhất thể hóa châu Âu với sự ra đời của Liên minh Châu Âu (EU); Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Hợp tác liên khu vực và châu lục được thúc đẩy với sự ra đời của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) năm 1994, Hội nghị Á - Âu (ASEM) năm 1996, khu vực mậu dịch tự do xuyên Đại Tây Dương, Hợp tác châu Âu - Địa Trung Hải, v.v.. Khu vực hóa được xem là nấc thang tất yếu, là bước đệm để tiến tới quá trình toàn cầu hóa, nhưng ở mức độ nào đó khu vực hóa lại là sự liên kết, sự tập hợp lực lượng giữa các nền kinh tế khu vực để đối phó với những nguy cơ, những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa. Động lực gia tăng xu thế khu vực hóa trong giai đoạn hiện nay xuất phát từ mục đích phát huy những lợi thế so sánh, những nét tương đồng của các thành viên trong mỗi tổ chức khu vực. Sự gần gũi về địa lý, không quá chênh lệch về trình độ phát triển, có quan hệ truyền thống, có những lợi ích chung về kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh… là những yếu tố thuận lợi cho sự hợp tác của các nước thành viên trong khu vực. Trên thực tế, mỗi tổ chức khu vực đều chọn những lĩnh 14
- vực mà mình có lợi thế hơn để tập trung nguồn lực, thúc đẩy hợp tác theo chiều sâu, theo những phương thức đa dạng, nhằm tạo lợi thế cạnh tranh riêng cho khu vực. Như vậy, việc tham gia vào các tổ chức khu vực là điều kiện để các nước thành viên tăng cường thế và lực, nhất là những nước còn đang ở trình độ kém phát triển, để vươn lên chủ động hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, sự liên kết giữa các nước thành viên trong tổ chức khu vực hoặc liên khu vực sẽ tạo điều kiện để các nước cùng đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của mình trong các tổ chức quốc tế. Hợp tác liên kết quốc tế trên những qui mô khác nhau khiến cho nhiều rào cản thương mại, đầu tư dần được dỡ bỏ, nhờ đó sản xuất cũng như trao đổi giữa các nước ngày càng được thúc đẩy theo xu hướng nhất thể hóa. Việc nâng cao trình độ hợp tác khu vực xét về tương lai chính là cơ sở cho việc thực hiện toàn cầu hóa kinh tế. Sự ra đời của hàng loạt các tổ chức khu vực và sự phát triển qui mô địa lý của các tổ chức khu vực trên cơ sở bổ sung các thành viên hay hợp nhất các tổ chức khu vực chính là bước tiến ngày càng gần hơn đến tự do hóa thương mại trên phạm vi toàn cầu. Như vậy, toàn cầu hóa và khu vực hóa đều là xu hướng tất yếu gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là khoa học công nghệ. Tính khách quan của quá trình toàn cầu hóa hiện nay phản ánh xu thế tiến lên của lịch sử nhân loại, phản ánh xu thế hợp tác để cùng phát triển giữa các quốc gia dân tộc. Xu thế đó buộc các nước không phân biệt giàu hay nghèo, phát triển hay đang phát triển muốn phát triển và không bị tụt hậu đều phải tiến hành điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tạo thông thoáng cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật trên phạm vi toàn cầu, tích cực và chủ động tham gia vào quá trình hợp tác, phân công lao động quốc tế. Nói cách khác, đối với sự phát triển của một quốc gia, HNKTQT là 15
- con đường đi tất yếu phù hợp với xu thế toàn cầu hóa hiện nay, nó cho phép kết hợp một cách hiệu quả nguồn lực trong nước với nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước. Bản chất của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế chính là quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư, quá trình này tất yếu sẽ loại bỏ dần những rào cản đối với trao đổi thương mại, tạo điều kiện tối đa cho quá trình phổ biến khoa học, kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý trên khắp thế giới. Vì vậy, tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, các nước nhất là các nước đang phát triển sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng cường buôn bán, trao đổi quốc tế, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), những dây chuyền sản xuất, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm, tri thức quản lý kinh tế hiện đại…, đồng thời phát huy các nguồn nội lực nhằm phát triển những ngành sản xuất mà mỗi nước có ưu thế. Đây là cơ hội để các nước đang và kém phát triển đẩy nhanh sự phát triển kinh tế, thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, có thêm nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội mà các nước có thể tận dụng để phát triển kinh tế, toàn cầu hóa và HNKTQT cũng đặt ra nhiều thách thức rất lớn cho tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển. Do những điều kiện lịch sử cụ thể, các quốc gia trên thế giới có trình độ phát triển khác nhau, sẽ không bình đẳng về khả năng nắm bắt thời cơ và vượt qua thách thức. Các nước công nghiệp phát triển, do nắm được ưu thế về khoa học công nghệ, vốn, tri thức, kinh nghiệm quản lý, nên giành được lợi thế lớn hơn. Trong khi đó các nước đang phát triển, và kém phát triển thường phải gánh chịu những hậu quả tiêu cực do toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế gây ra. Thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư các quốc gia này sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với hàng hóa, dịch vụ… của các nước phát triển không chỉ ở thị trường bên ngoài mà còn cả ở thị trường trong nước. Bên cạnh cơ hội tiếp nhận công 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ triết học: Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Đắk Lắk hiện nay
89 p | 293 | 112
-
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội) - Đặng Thị Kim Anh
21 p | 275 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Triết lý nhân sinh trong Tây du ký
116 p | 477 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 363 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển
85 p | 163 | 33
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và sự vận dụng của Đảng trong việc phát huy nhân tố con người thời kỳ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
26 p | 132 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học hiện sinh cơ bản của Albert Camus qua một số tác phẩm
102 p | 81 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Nghệ thuật và vai trò của nghệ thuật trong việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam giai đoạn hiện nay
91 p | 84 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ, Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học
76 p | 46 | 9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại
25 p | 94 | 8
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
26 p | 77 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sự phê phán của C.Mác đối với tư tưởng triết học của Pru-đông trong tác phẩm “sự khốn cùng của triết học
81 p | 67 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Một số tính chất của đồng điều địa phương cho môđun Compắc tuyến tính
42 p | 106 | 6
-
tr.Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
15 p | 87 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của Immanuel Kant và ý nghĩa thời đại
110 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
100 p | 3 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
127 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper trong một số tác phẩm
108 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn