Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sự biến đổi của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay
lượt xem 5
download
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về sự biến đổi của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát huy những tác động tích cực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến gia đình ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sự biến đổi của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------***---------- TRẦN THỊ MÂY SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 602285 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Oánh HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫ khoa học của PGS.TS Nguyễn Văn Oánh. Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 Chương 1 GIA ĐÌNH VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........... 8 1.1. Gia đình và sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến gia đình Việt Nam hiện nay ..................................................................................... 8 1.1.1. Quan niệm về gia đình ........................................................................................ 8 1.1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tác động của nó đến gia đình Việt Nam hiện nay......................................................................................................... 12 1.2. Sự biến đổi của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ...................................................................................................... 22 1.2.1. Sự biến đổi về hôn nhân ................................................................................ 22 1.2.2. Sự biến đổi các quan hệ trong gia đình ..................................................... 28 1.2.3. Biến đổi chức năng gia đình ........................................................................ 35 Chương 2 SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH Ở TỈNH HƯNG YÊN TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP .................................................................................................................. 42 2.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên 42 2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên của tỉnh Hưng Yên ........................................... 42 2.1.2. c đi m kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên hiện nay ................................. 43 2.2. Thực trạng biến đổi của gia đình ở tỉnh Hưng Yên trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ......................................................................... 46 2.2.1. Biến đổi về hôn nhân ........................................................................................ 46 2.2.2. Biến đổi về hình thức gia đình ......................................................................... 51 2.2.3. Biến đổi trong các quan hệ gia đình ................................................................ 52 2.2.4. Biến đổi về chức năng của gia đình ................................................................. 61 2.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích cực của gia đình trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay ........................................................................................................................... 70 2.3.1. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đ nâng cao đời sống cho các gia đình ở tỉnh Hưng Yên hiện nay ................................................................................................................ 70
- 2.3.2. Nâng cao nhận thức cho cá nhân, gia đình về pháp luật, nhất là luật Hôn nhân và Gia đình trong phát tri n kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên ......................................................................................................... 72 2.3.3. ẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá .......................................... 75 2.3.4. ấu tranh phòng chống, ngăn ch n, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, hiện tượng xung đột, bạo hành trong gia đình nhằm tạo ra môi trường tích cực cho việc xây dựng gia đình ở tỉnh Hưng Yên hiện nay .................................................................. 77 KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 81
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1. Đăng ký kết hôn theo giới tính người trả lời (%) ........................ 24 Bảng 2. Mô hình quyết định hôn nhân phân theo các thời kỳ (%) .......... 25 Bảng 3: Người quyết định cuối cùng các công việc gia đình ................... 29 đối với cặp vợ chồng từ 28-60 tuổi (%) ...................................................... 29 Bảng 4: Lý do phải có con trai chia theo thành thị - nông thôn (%) ....... 37 Bảng 5: Cuộc hôn nhân của ông (bà) do ai quyết định? ................................. 47 Bảng 6: Các tiêu chuẩn lựa chọn đối với cô dâu và chú rể ............................. 48 Bảng 7: Nhận định của người dân về các quan hệ gia đình và ....................... 53 quan hệ cộng đồng trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh Hưng Yên .................... 53 Bảng 8: Vai trò của vợ và chồng trong các công việc của gia đình ................ 55 Bảng 9: Số người già cô đơn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được chăm sóc, bảo vệ phân theo huyện, thành phố ................................................................. 59 Bảng 10: Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá hiện hành phân theo thành thị, nông thôn ở Hưng Yên ............................................................ 62 Bảng 11: Tổng chi tiêu bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng phân theo thành thị, nông thôn ở Hưng Yên .................................................................................... 62 Bảng 12: Số cặp vợ chồng sinh con thứ ba ở tỉnh Hưng Yên ........................ 64 Bảng 13: Đánh giá về mức độ quản lý, giáo dục con cái trong giai đoạn hiện nay ................................................................................................................... 65
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Gia đình là một thiết chế xã hội, một cộng đồng xã hội đặc biệt, là tế bào của xã hội; là môi trườnggần gũi, thân thương nuôi dưỡng, giáo dục con người; là tổ ấm; chốn "nương thân" của con người; đồng thời gia đình còn là một tổ chức kinh tế và đời sống, nguồn lực của sự phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội sẽ tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình". Đảng, Nhà nước trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hết sức quan tâm đến xây dựng gia đình. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mục tiêu xây dựng gia đình Việt Nam đã được Đảng ta chỉ rõ trong Cương lĩnh 2011 là "Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hành phúc, thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và tình hình nhân cách". Trong nhữn năm qua, sự nghiệp xây dựng gia đình Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, giữ gìn và phát huy văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phát triển con người Việt Nam về mọi mặt. Tuy nhiên, cũng như mọi thiết chế, cộng đồng xã hội khác, gia đình luôn chịu sự tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan, dẫn đến những biến đổi sâu sắc, mà một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ nhất là sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới của đất nước ta đã tác động to lớn và làm biến đổi sâu sắc bộ mặt đất nước, trong đó có gia đình. Sự biến đổi đó có nhiều mặt tích cực, làm cho vị trí, vai trò, chức năng của gia đình ngày càng được nâng cao, các quan hệ gia đình, các giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của gia đình tiếp tục được kế thừa, phát huy và phong phú hơn, văn minh, hiện đại hơn, đời sống vật chất và tinh thần các gia đình và của mỗi thành viên ngày càng được cải thiện và nâng cao. 1
- Bên cạnh đó, sự tác động do mặt trái kinh tế thị trường và của các nhân tố khác cũng tạo nên những hiệu quả tiêu cực đối với các gia đình ở các khía cạnh khác nhau của nó. Hưng Yên là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, một trong những địa bàn trọng điểm đang trong quy trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện địa hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Là một tỉnh kế cận thủ đô Hà Nội, các yếu tố tác động của sự biến đổi kinh tế - xã hội đến gia đình lại càng nổi trội và có tính tiêu biểu. Việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về sự biến đổi của gia đình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy những biến đổi tích cực các gia đình có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam vẫn luôn được coi trọng như một giá trị bền vững, có sức sống mạnh mẽ, là nền tảng, là tế bào của xã hội. Truyền thống coi trọng gia đình, sống gắn bó với gia đình và tuân theo những giá trị của gia đình truyền thống vẫn được nhiều người đồng tình, khẳng định và coi đó là đạo lý làm người của người Việt. Hiện nay, dưới tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gia đình Việt Nam đang có những biến đổi mạnh mẽ về cấu trúc, quy mô và các chức năng của gia đình, giúp cho gia đình thích ứng với điều kiện kinh tế - xã hội mới, có giá trị của gia đình truyền thống đã bị mất đi; biến đổi dần hoặc vẫn được bảo tồn và phát huy như: các chức năng của gia đình; tình nghĩa vợ chồng; trách nhiệm và sự hy sinh của cha mẹ đối với con cái; con cái hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, tổ tiên, v.v. đồng thời gia đình Việt Nam hiện nay cũng đang tiếp thu nhiều giá trị của gia đình hiện đại như: tôn trọng tự do cá nhân, tôn trọng quan niệm và sự lựa chọn của mỗi thành viên trong gia đình; bình đẳng vợ chồng, nam nữ, v.v.. Điều đó cho thấy, gia đình Việt Nam hiện nay đang được củng cố và xây dựng theo xu hướng hiện đại hoá: dân chủ, bình đẳng, tự do và tiến bộ. 2
- Bên cạnh những cơ hội thúc đẩy sự tiến bộ của gia đình Việt Nam hiện nay thì sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đang đặt gia đình Việt Nam đứng trước nhiều thách thức, biến động và bất trắc. Ở nhiều nơi, nhất là ở các khu đô thị lớn, gia đình đang có dấu hiệu của sự khủng hoảng, một số giá trị của gia đình truyền thống tốt đẹp đang bị lấn át bởi sự thao túng của đồng tiền như sống chung không kết hôn; tình trạng ly hôn có xu hướng tăng cao; tình dục đồng giới; bạo lực gia đình; ngoại tình, v.v. đang tấn công vào gia đình từ nhiều phương diện khác nhau. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến sự biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay cả theo hướng tích cực và tiêu cực. Đồng thời chỉ rõ sự cần thiết phải kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống, tiếp thu những giá trị của gia đình hiện đại trong xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay. Hưng Yên là địa phương có vị trí địa lý thuận lợi, tiếp giáp thủ đô Hà Nội nên có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, v.v.. Trong những năm qua, do sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu đã giúp cho tỉnh Hưng Yên chuyển đổi dần dần từ xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp, điều đó đã tác động và làm cho gia đình ở tỉnh Hưng Yên có sự biến đổi lớn cả về hôn nhân, cấu trúc, chức năng, vai trò và các quan hệ trong gia đình. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng biến đổi của gia đình ở tỉnh Hưng Yên dưới sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay là hết sức cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi đã chọn vấn đề “Sự biến đổi của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về gia đình dưới nhiều góc độ và quy mô khác nhau. Liên quan đến đề tài của luận văn có thể phân chia các công trình này thành các nhóm cơ bản sau: 3
- Nhóm vấn đề chung nghiên cứu về xây dựng và phát tri n gia đình Việt Nam có một số công trình như: “Gia đình Việt Nam ngày nay” NXB Khoa học xã hội, 1996; “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; “Cuộc sống và biến động của hôn nhân gia đình Việt Nam hiện nay” NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007 của giáo sư Lê Thi; “Gia đình học”, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009 của Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý; Kỷ yếu hội thảo “Thực tại và tương lai của gia đình trong thế giới hội nhập” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, 2012, v.v.. Qua các công trình này, các tác giả đã phân tích một cách có hệ thống về vai trò, quy mô, cấu trúc, chức năng của gia đình Việt Nam trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Khẳng định hôn nhân và gia đình đến nay đối với người Việt vẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên, gia đình Việt Nam đã có nhiều biến đổi phức tạp như xu hướng ly hôn tăng lên; sự chênh lệch giới tính giữa nam và nữ khi sinh; v.v. vẫn đang tồn tại và ảnh hưởng xấu đến gia đình Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở phân tích thực trạng của gia đình Việt Nam hiện nay, các tác giả đã đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Nhóm vấn đề nghiên cứu về quan hệ giới và sự bất bình đẳng, bạo lực gia đình, có một số công trình như: “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới Việt Nam”, NXB Phụ nữ, Hà Nội, 1998 và “Bạo lực gia đình - một sự sai lệch giá trị”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007 của Lê Thị Quý; “Bình đẳng giới ở Việt Nam: Phân tích số liệu điều tra”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008; “Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam: Thực trạng, diễn tiến và nguyên nhân”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009 của Nguyễn Hữu Minh và Trần Thị Vân Anh v.v.. Qua các công trình này, các tác giả đã chỉ ra thực trạng, nguyên nhân, ảnh hưởng và hậu quả của sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con gái và con trai trong gia đình; cùng với đó, nạn bạo lực gia đình ở Việt Nam còn tồn tại khá phổ biến và biểu hiện rất đa dạng, gây cản trở cho sự phát triển của gia đình và xã hội ở Việt Nam hiện nay. 4
- Nhóm vấn đề nghiên cứu gia đình dưới góc độ văn hoá và đạo đức, có một số công trình như: Về gia đình truyền thống với ảnh hưởng của Nho giáo, Nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991 và Gia đình truyền thống và chuyển đổi đã thích ứng với thời đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994 của Trần Đình Hượu; “Xây dựng gia đình văn hoá trong sự nghiệp đổi mới”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997 của Trần Hữu Tòng – Trương Thìn (Chủ biên); “Gia đình và Phụ nữ trong biến đổi văn hóa - xã hội nông thôn”, NXB Khoa học xã hội, 2001 của Nguyễn Linh Khiếu; Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011 của Nguyễn Thị Thọ, v.v.. Qua các công trình này, các tác giả đã chỉ ra các giá trị văn hoá, đạo đức của gia đình Việt Nam; phân tích thực trạng đạo đức, văn hóa của xã hội và gia đình Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đồng thời, chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái về văn hóa, đạo đức và lối sống của giới trẻ hiện nay. Trên cơ sở đó, nhấn mạnh vai trò của nhà trường, cộng đồng, xã hội và đặc biệt là gia đình trong việc giáo dục văn hóa, đạo đức, lối sống và hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Ngoài một số công trình nêu trên còn có một số luận án nghiên cứu về gia đình như: “Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học của Nghiêm Sĩ Liêm, 2000; “Ảnh hưởng của truyền thống gia đình đến định hướng giá trị cuộc sống của thế hệ trẻ”, Luận án tiến sĩ Tâm lý học của Cấn Hữu Hải, 2001; “Gia đình trong quá trình đô thị hoá ở thành phố Hồ Chí Minh”, luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Tiến Vững, 2005; v.v.. Các công trình nêu trên đã đề cập đến vai trò và ảnh hưởng của gia đình trong việc định hướng, giáo dục con cái; sự tác động của đô thị hóa đến việc thực hiện vai trò, chức năng của gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh, v.v.. Tuy nhiên, cho đến nay còn rất ít công trình nghiên cứu cơ bản và hệ thống về sự biến đổi của gia đình trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam nói chung, các vùng, địa phương nói riêng. Đây chính là một mảng còn thiếu trong nghiên cứu bức tranh chung về gia đình ở Việt Nam hiện nay. 5
- 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về sự biến đổi của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát huy những tác động tích cực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến gia đình ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây: Thứ nhất, làm rõ các khái niệm về “gia đình”, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến gia đình Việt Nam hiện nay. Thứ hai, phân tích thực trạng biến đổi của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích cực của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * ối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về sự biến đổi của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về sự biến đổi của gia đình Việt Nam là một vấn đề lớn, trong khuôn khổ của luận văn tác giả chỉ nghiên cứu về sự biến đổi của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên những năm gần đây. 5. Những đóng góp mới của luận văn - Trên quan điểm mácxít, luận văn góp phần làm rõ sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến gia đình Việt Nam hiện nay. - Phân tích thực trạng biến đổi của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả 6
- đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích cực của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy các vấn đề về gia đình ở các cơ sở giáo dục và đào tạo ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và phương pháp luận biện chứng duy vật, kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như phương pháp lịch sử cụ thể, phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra, so sánh, v.v. để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. - Thu thập thông tin thứ cấp: Sử dụng tài liệu, số liệu thứ cấp như báo cáo tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, tình hình hôn nhân, ly hôn, bạo lực gia đình, giáo dục con cái, v.v. của tỉnh Hưng Yên; thông tin thu được từ thực tế liên quan đến sự biến đổi của gia đỉnh ở Hưng Yên hiện nay. - Đề tài sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Mẫu được chọn dựa trên các tiêu chí là gia đình đã kết hôn tham gia vào quá trình nghiên cứu bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản. Chọn phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản. Số liệu sau khi thu thập bằng phiếu sẽ được kiểm tra để đảm bảo độ tin cậy và tính chính xác cao. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1: Gia đình và sự biến đổi của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Chương 2: Sự biến đổi của gia đình trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Hưng Yên hiện nay - Thực trạng và giải pháp. 7
- Chương 1 GIA ĐÌNH VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Gia đình và sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến gia đình Việt Nam hiện nay 1.1.1. Quan niệm về gia đình Gia đình là cái gốc của con người, nơi con người sinh ra, bắt đầu một cuộc sống. Trong suốt cuộc đời, gia đình luôn luôn là điểm tựa, là cội nguồn của mỗi người, là cái nôi của sự yên bình, là yếu tố vô cùng cần thiết cho cuộc sống của con người và xã hội. Con người bắt đầu từ gia đình. Gia đình như một nhóm xã hội được cấu trúc theo những chuẩn mực nhất định, như một tập hợp những mối quan hệ giữa cá nhân (vợ chồng, bố mẹ, con cái và anh chị em). Nghiên cứu di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen, chúng ta thấy, các ông đã nhận thức được tầm quan trọng của gia đình đối với sự phát triển của xã hội. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845) khi luận chứng về những tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của con người, Các Mác và Ph. Ăngghen đã nói rằng “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [27, tr. 41]. Với quan điểm này, khái niệm gia đình được nhìn nhận với một số nội dung sau: gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội loài người; con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì đồng thời cũng tạo ra gia đình. Chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sôi nảy nở ra con người. Gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn nhân (vợ - chồng), quan hệ huyết thống (cha, mẹ - con cái). 8
- Tiếp tục công trình nghiên cứu về gia đình, trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước” (1884) Ph. Ăng ghen đã chỉ ra vị trí quy định của gia đình đối với các thiết chế xã hội, “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo và nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những thiết chế xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: Một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình” [26, tr. 44]. Như vậy, theo Ph. Ăngghen, quá trình sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp là nhân tố quyết định tiến trình phát triển của lịch sử. Cùng với trình độ phát triển của lao động, trình độ phát triển của gia đình quyết định trình độ phát triển của xã hội. Đến lượt mình trình độ phát triển của gia đình cũng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của sả n xuất, của lao động và của xã hội. Trong điều kiện hiện nay, hoặc do thế giới quan của các nhà nghiên cứu, hoặc một phần vì thực tiễn vận động và biến đổi nhanh chóng và sâu sắc, thậm chí vượt xa so với dự đoán của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, nhiều nhà nghiên cứu về gia đình đã không đánh giá đúng quan điểm khoa học của Các Mác và Ph. Ănghen. Bởi vậy, để có thể nhận thức đúng đắn hơn, hiện đại hơn về vấn đề này, cần tính đến các cách tiếp cận khác nhau. Hiện nay, xã hội phương Tây đang lưu hành các lý thuyết: “Thuyết đạo đức tương đối”; “Hôn nhân không con” “cha mẹ công nghiệp” “gia đình thoáng qua”. Tiêu biểu cho các lý thuyết đó là quan điểm của Alvin Toffer trong cuốn “làn sóng thứ ba”. Trong tác phẩm này, Alvin Toffer 9
- đã khái quát rằng, đại gia đình gia trưởng là hình thức gia đình của nền văn minh nông nghiệp, gia đình một vợ một chồng với một đến hai con là hình thức gia đình văn minh công nghiệp, còn nền văn minh hậu công nghiệp sẽ có nhiều hình thức gia đình Alvin Toffer và những người theo thuyết ấy cho rằng, mọi giá trị đã có là chủ quan, cá nhân có quyền lựa chọn bình đẳng, trong nền văn minh thứ ba sẽ không có một hình thức gia đình nào giữ yếu tố chủ đạo, mà sẽ là những hình thức gia đình: Gia đình đa phụ mẫu, gia đình đoàn thể, gia đình nam, hoặc nữ thanh niên (gia đình đồng tính luyến ái) [1, tr. 104-110]. Trước những dự báo này, cần phải thận trọng xem xét. Thực tế cuộc sống cũng cho thấy, gia đình một vợ, một chồng đang có sự rạn nứt, song những cái gọi là hình thức gia đình mới nêu trên, không những không phản ánh được sự tiến bộ xã hội đang hiện hữu, mà trái lại, nó thể hiện sự suy đồi và bế tắc của xã hội tư sản phương Tây trong vấn đề gia đình. Từ bao đời nay, gia đình vẫn được nhiều người coi là tế bào tự nhiên và cơ bản của cộng đồng xã hội; là cội nguồn và chốn nương thân của mọi người; một thiết chế có luật lệ và tôn ti trật tự được mọi thành viên của nó tuân thủ một cách hoàn toàn tự nguyện. Gia đình luôn mang lại những cảm giác an toàn cho các thành viên của nó. Chính gia đình đã tạo nên mối liên kết xã hội bền vững nhất, là nơi để duy trì và lưu truyền những nét đặc trưng bản sắc riêng của các nền văn hoá khác nhau. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình” [33, tr. 523]. Gia đình và xã hội có quan hệ mật thiết với nhau, xã hội lành mạnh tạo điều kiện để các gia đình tiến bộ, gia đình hạnh phúc góp phần giúp xã hội phát triển hài hoà. Gia đình là cầu nối giữa thành viên gia đình với xã hội, nhiều thông tin về xã hội tác động đến con người thông qua gia đình. 10
- Kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh về gia đình và vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội, Đảng ta khẳng định, một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội là gia đình. Do đó, cần phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo giáo sư Lê Thi: Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng, nội ngoại). Đồng thời, trong gia đình cũng có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm) giữa họ có những điều ràng buộc có tính pháp lý được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật hôn nhân - gia đình của nước ta). Đồng thời, gia đình cũng có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên [43, tr.20-21]. Dĩ nhiên, khi nêu khái niệm gia đình, các nhà nghiên cứu cố gắng đưa ra một khái niệm bao quát nhất nhằm phản ánh một cách đầy đủ nội hàm của một phạm trù tương đối rộng này. Nhưng trong đời sống hàng ngày khi nói đến gia đình, thì điều đầu tiên và chủ yếu là nói đến một tập hợp người, cùng sống chung dưới một mái nhà và giữa họ có mối quan hệ với nhau bởi: thứ nhất, quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng; thứ hai, quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em ruột, giữa ông bà và các cháu; thứ ba, một số người được gia đình nuôi dưỡng gắn bó với nhau về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, được họ hàng, làng 11
- xóm ủng hộ, được luật pháp thừa nhận và bảo vệ. Có thể còn nhiều vấn đề cần phải tìm hiểu và nghiên cứu thêm, nhưng căn cứ vào tình hình chung của hôn nhân và gia đình ở nước ta, kế thừa những cách tiếp cận hợp lý khác như trên, có thể đưa ra một khái niệm gia đình như sau: Gia đình là một phạm trù dùng để chỉ một tập hợp người, hình thành trên cơ sở các mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ tình cảm, quan hệ trách nhiệm. Các thành viên gia đìnhh gắn bó với nhau bởi trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi về kinh tế, văn hoá, tình cảm và theo những chuẩn mực giá trị nhất định, được dư luận xã hội ủng hộ, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ. 1.1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tác động của nó đến gia đình Việt Nam hiện nay * Quan niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Nhìn lại lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội có thể khẳng định nền sản xuất xã hội đã trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế - xã hội: Đó là kinh tế tự nhiên và kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản xuất có tính chất khép kín theo từng vùng, địa phương, lãnh thổ. Trong nền kinh tế tự nhiên, sản xuất và trao đổi hàng hóa tuy đã được hình thành nhưng trình độ rất thấp và đơn giản. Có thể khái quát nền kinh tế của phương thức sản xuất từ phong kiến trở về trước là nền kinh tế tự nhiên. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, nền kinh tế tự nhiên dần dần chuyển lên nền kinh tế thị trường, nó là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó, sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất gắn chặt với thị trường. Quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất và tiêu thụ sản phẩm biểu hiện qua thị trường, qua việc trao đổi sản phẩm lao động cũng như những vấn đề sản xuất những hàng hóa gì, cần có những dịch vụ nào 12
- đều phải xuất phát từ nhu cầu thị trường. Mọi hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đều phải thông qua thị trường, quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển, mở rộng và phổ biến trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Lịch sử kinh tế thế giới đã chứng kiến các mô hình kinh tế tự nhiên, kinh tế thị trường, kinh tế kế hoạch hóa tập trung, trong đó kinh tế thị trường tuy còn nhiều hạn chế, khuyết tật nhưng nó vẫn là mô hình kinh tế năng động, phù hợp với trình độ phát triển với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện nay. Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều chọn mô hình kinh tế thị trường hiện đại làm mô hình kinh tế chủ yếu cho sự phát triển của mỗi nước. Từ năm 1986 đến nay, nước ta đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường của nước ta, một mặt, vừa có tính chất chung của nền kinh tế thị trường. Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Đó là nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Mặt khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội và có sự quản lý của nhà nước. * Tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến gia đình Việt Nam hiện nay Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có tác động toàn diện đến các mặt đời sống vật chất và tinh thần của gia đình Việt Nam. Có thể thấy, những tác động này được thể hiện ở cả hai phương diện tích cực và tiêu cực: 13
- Thứ nhất, tác động tích cực Công cuộc đổi mới đất nước gần ba thập kỷ qua đã đạt được những thành tựu to lớn có tính lịch sử. Không phải chỉ ở các đô thị mà cả ở nông thôn, công cuộc đổi mới cũng đã thực sự tạo ra một sinh khí mới, nhất là đời sống kinh tế. Kinh tế tăng trưởng, tiến bộ xã hội được thúc đẩy, tạo nên sự phát triển xã hội một cách toàn diện. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, trong điều kiện mới do cơ chế mới đã có tác dụng thúc đẩy, phát huy nguồn lực gia đình: giải phóng sức lao động, đóng góp cho xã hội tăng lên, cuộc sống của gia đình được cải thiện, sự bình đẳng nam nữ tốt hơn. Quy mô gia đình có từ một đến hai con ngày càng được xã hội chấp nhận với ý thức tự giác hơn, các mối quan hệ gia đình trở nên dân chủ và cởi mở hơn. Đáng chú ý là gia đình Việt Nam đang tiếp thu và xây dựng những giá trị nhân văn mới, tiêu biểu là quyền bình đẳng giới và quyền trẻ em. Đa số gia đình no ấm hơn, đầy đủ hơn về vật chất và văn minh hơn về đời sống tinh thần. Có những tiến bộ rõ rệt về tính năng động, chủ động trong cuộc sống, trình độ của các thành viên gia đình được nâng lên. Nhiều gia đình đã biết chủ động tạo dựng cuộc sống, làm giàu, có điều kiện hưởng thụ đời sống vật chất và tinh thần, đề cao lợi ích và hạnh phúc cá nhân, có mối quan hệ dân chủ giữa vợ và chồng, v.v.. Quan niệm về hôn nhân và gia đình được hiểu và thực hiện nhưng hôn nhân lấy tình yêu làm cơ sở vẫn được coi trọng, đặc biệt lớp trẻ ngày càng có xu hướng lập gia đình muộn hơn. Tình yêu được thừa nhận như một tiêu chuẩn của hôn nhân, một yếu tố quan trọng cấu thành nên gia đình. Điều này không có nghĩa là trong gia đình truyền thống, vợ chồng không yêu nhau hoặc con cái hoàn toàn không có quyền lựa chọn hôn nhân. Mà ở đây muốn nhấn mạnh, trong truyền thống, tình cảm và sự lựa chọn cá nhân không được coi trọng và phải điều chỉnh cho phù hợp với lợi ích chung của gia đình. Khi cá nhân được giải phóng thì yếu tố tình yêu và sự tự do lựa chọn hôn nhân được đề cao. 14
- Cùng với sự phát triển và mở rộng của kinh tế thị trường, không ít gia đình trẻ do đầu óc năng động trong làm ăn kinh tế nên đã có nhiều điều kiện thuận lợi tách ra ở riêng, cũng một phần như vậy mà số gia đình hai thế hệ là loại gia đình chiếm ưu thế. Điều này đã làm phá vỡ mô hình của gia đình truyền thống trước đây có nhiều thế hệ cùng chung sống với nhau. Trong gia đình ở đô thị hiện nay, mô hình người chủ gia đình đa dạng chứ không chỉ có mô hình duy nhất là người đàn ông làm chủ như gia đình truyền thống. Điều đó cho thấy, người phụ nữ đã và đang từng bước khẳng định được vị trí, vai của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Họ có quyền tham gia vào các quyết định lớn của gia đình như dựng vợ gả chồng cho con cái, quyết định nơi làm việc, v.v.. Tại các đô thị ở Việt Nam, người phụ nữ từ lau đã tham gia vào quá trình sản xuất, cùng chồng con đóng góp vào thu nhập chung của gia đình. Nền sản xuất xã hội trong kinh tế thị trường đang kéo theo những biến đổi trong phân công giới giữa vợ và chồng, nam và nữ trong gia đình. Người phụ nữ được kéo ra khỏi công việc nội trợ tham gia vào lực lượng lao động xã hội vì nhu cầu của sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của gia đình ngày một tăng lên. Quan hệ giữa vợ và chồng trong gia đình đô thị hiện nay tương đối hài hòa: vợ chồng có thể cùng làm việc, thậm chí những công việc giống nhau ngoài gia đình và cùng chia sẻ công việc nội trợ gia đình. Hiện nay, phụ nữ có nhu cầu lớn trong việc chia sẻ công việc nội trợ gia đình với người chồng vì thời gian họ tham gia công tác xã hội gần như ngang bằng với nam giới. Nếu xét từng mối quan hệ cụ thể trong gia đình thì chúng ta sẽ thấy rõ được sự biến đổi tích cực của gia đình dưới tác động của kinh tế thị trường. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân... Thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ” [15, tr. 79-80]. Tất cả những điều đó đã tạo ra những điều kiện cho việc hình thành, phát triển quan hệ bình đẳng trong gia đình, bình đẳng giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái. 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội) - Đặng Thị Kim Anh
21 p | 275 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Triết lý nhân sinh trong Tây du ký
116 p | 467 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 362 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển
85 p | 163 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Nghệ thuật và vai trò của nghệ thuật trong việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam giai đoạn hiện nay
91 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Một số tính chất của đồng điều địa phương cho môđun Compắc tuyến tính
42 p | 106 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm về con người trong chủ nghĩa hiện sinh
106 p | 5 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của Immanuel Kant và ý nghĩa thời đại
110 p | 5 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay
94 p | 6 | 4
-
tr.Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
15 p | 86 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng tam quyền phân lập trong triết học khai sáng
98 p | 5 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh - Giá trị và hạn chế
115 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của Karl Popper về xã hội mở
116 p | 4 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
100 p | 3 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
127 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Nguyễn Phước Đức Đạt qua tác phẩm
107 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper trong một số tác phẩm
108 p | 3 | 2
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Triết học: Nhân sinh quan Phật giáo với đời sống tinh thần của nhân dân các bộ tộc Lào hiện nay
26 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn