Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Biến đổi không gian cư trú của người Ê Đê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay
lượt xem 9
download
Đề tài làm rõ quá trình biến đổi không gian cư trú của buôn làng ÊĐê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay; làm rõ những thay đổi về lối sống gắn liền với không gian cư trú; đưa ra một số ý tưởng nhằm góp phần bảo tồn không gian nhà dài của người ÊĐê ở Buôn Ma Thuột.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Biến đổi không gian cư trú của người Ê Đê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ THỊ KIM CHUNG BIẾN ĐỔI KHÔNG GIAN CƯ TRÚ CỦA NGƯỜI Ê ĐÊ Ở BUÔN MA THUỘT TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY (Nghiên cứu trường hợp buôn Alê A và buôn Êa Bông) LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC Hà Nội – 2020
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ THỊ KIM CHUNG BIẾN ĐỔI KHÔNG GIAN CƯ TRÚ CỦA NGƯỜI Ê ĐÊ Ở BUÔN MA THUỘT TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY (Nghiên cứu trường hợp buôn Alê A và buôn Êa Bông) Chuyên ngành: Việt Nam học Mã số: 831063001 LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Hoài Giang Hà Nội – 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Biến đổi không gian cư trú của người Ê Đê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các tư liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, kết quả nghiên cứu của luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nào khác. Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn Vũ Thị Kim Chung
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. Tổng quan 11 1.1. Các khái niệm 11 1.1.1. Không gian văn hoá buôn làng 11 1.1.2. Không gian cư trú 13 1.2. Các quan điểm lý thuyết 13 1.3. Không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống 16 1.4. Bối cảnh tác động đến không gian cư trú của người Ê Đê từ sau 1975 đến nay 19 1.4.1. Chính sách phát triển kinh tế 19 1.4.2. Chính sách phát triển văn hóa – xã hội 22 1.4.3. Chuyển dịch cơ cấu dân cư và dân tộc 23 Chương 2. Quá trình biến đổi không gian cư trú buôn làng Ê Đê 25 2.1. Biến đổi về cơ cấu dân cư và dân tộc 25 2.1.1. Biến đổi cơ cấu dân số và cơ cấu tộc người 25 2.1.2. Biến đổi cơ cấu tôn giáo 29 2.2. Biến đổi về loại hình gia đình và kiến trúc nhà ở 32 2.2.1. Biến đổi về loại hình gia đình 32 2.2.2. Biến đổi về kiến trúc nhà ở 35 2.3. Hệ quả của biến đổi không gian cư trú 40 2.3.1. Những thay đổi trong đời sống gia đình 40 2.3.2. Những thay đổi về mặt tiếp biến văn hóa 44
- Chương 3. Xu hướng và vấn đề đặt ra từ quá trình biến đổi không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống 48 3.1. Các xu hướng biến đổi 48 3.1.1. Xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại hóa 48 3.1.2. Xu hướng giải thể 50 3.2. Vấn đề đặt ra từ sự biến đổi 52 3.2.1. Nhu cầu bảo tồn không gian cư trú truyền thống 52 3.2.2. Sự thay đổi quá nhanh của không gian cư trú truyền thống 54 3.2.3. Thiếu sự liên kết giữa nhà nước và cộng đồng trong vấn đề bảo tồn56 3.3. Đề xuất nhằm quy hoạch và bảo tồn 57 3.3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của không gian cư trú truyền thống 57 3.3.2. Nâng cao nhận thức về phát triển du lịch cộng đồng tại buôn 59 3.3.3. Một số khuyến nghị về quy hoạch và bảo tồn 62 KẾT LUẬN 67 TÀI LIỆU THAM KHẢO 70 PHỤ LỤC ẢNH 73
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Không gian cư trú là một trong những thành tố quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sinh sống và phát triển của con người. Nó vừa thể hiện được sự thích nghi với tự nhiên của con người, vừa là nơi phản chiếu rõ nhất những giá trị văn hóa bởi nó có tính địa điểm rất rõ rệt và đôi khi có những nét riêng mà không một vùng nào có. Không gian cư trú của mỗi tộc người phản ánh những nét văn hóa bản địa khác nhau, cho ta những hiểu biết và cảm nhận chân thực về lối sống và con người nơi ấy. Nhắc đến không gian cư trú của các tộc người thiểu số vùng cao, không thể không nhắc đến các cộng đồng sinh sống ở vùng Tây Nguyên - mảnh đất đầy nắng, gió, rượu cần và cồng chiêng. Trong số các tộc người Tây Nguyên, không gian cư trú của người ÊĐê có những nét đặc trưng riêng biệt. Khi đọc Trường ca Đam Săn – một tác phẩm dân ca bất hủ của người ÊĐê, hẳn chúng ta sẽ rất nhớ hình ảnh “Mái nhà dài như một tiếng chiêng”. Đúng vậy, ngôi nhà sàn dài vừa là yếu tố chính tạo nên nét đặc sắc cho không gian cư trú của người ÊĐê, vừa là nơi sáng tạo, lưu giữ và trao truyền các giá trị truyền thống của cộng đồng này. Nhìn vào nhà sàn dài, ta có thể thấy rõ được những vấn đề căn bản góp phần duy trì xã hội ÊĐê truyền thống: thế giới quan, cấu trúc và quan hệ thân tộc, đời sống gia đình vận hành theo nguyên tắc mẫu hệ, gu nghệ thuật và thẩm mỹ. Từ năm 1975 đến nay, trong bối cảnh hai miền Nam - Bắc thống nhất, cả nước nói chung và Tây Nguyên nói riêng đi theo con đường công nghiệp, hiện đại hóa, không gian sinh sống của người ÊĐê đã thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt là các buôn cư trú ở thành phố Buôn Ma Thuột - thủ phủ của tỉnh Đắk Lắk và Tây Nguyên. Quá trình thay đổi không gian cư trú của người ÊĐê ở 1
- Buôn Ma Thuột, do đó, có ý nghĩa điển hình nếu xét trong bối cảnh thay đổi không gian sống của các nhóm ÊĐê ở Đắk Lắk nói riêng và các tộc người sinh sống ở Tây Nguyên nói chung. Thông qua việc nghiên cứu nhóm điển hình này, chúng ta vừa có thể hiểu rõ hơn những thay đổi về giá trị, quan niệm, lối sống của người ÊĐê, vừa có thể cung cấp các tham vấn hữu ích cho các nhà quản lý địa phương trong việc quy hoạch không gian ÊĐê cho phù hợp với tổng thể không gian đô thị Buôn Ma Thuột. Từ các ý nghĩa lý thuyết và thực tiễn như vậy, tôi quyết định chọn đề tài Sự biến đổi không gian cư trú của người ÊĐê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay (Nghiên cứu trường hợp buôn Alê A và Êa Bông) cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Trong phạm vi luận văn này, tôi hướng đến ba mục tiêu chính sau: Thứ nhất, làm rõ quá trình biến đổi không gian cư trú của buôn làng ÊĐê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay; Thứ hai, làm rõ những thay đổi về lối sống gắn liền với không gian cư trú. Thứ ba, đưa ra một số ý tưởng nhằm góp phần bảo tồn không gian nhà dài của người ÊĐê ở Buôn Ma Thuột. Những mục đích nghiên cứu này sẽ là những định hướng giúp tôi tiến hành nghiên cứu đề tài của mình một cách hiệu quả và chính xác. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Sự biến đổi không gian cư trú của cộng đồng người ÊĐê ở Buôn Ma Thuột từ 1975 đến nay. Phạm vi nghiên cứu 2
- Phạm vi không gian: Tôi sẽ tập trung nghiên cứu buôn Alê A (phường Ea Tam) và buôn Êa Bông (xã Cư Êbur). Cả hai buôn cùng thuộc thành phố Buôn Ma Thuột. Buôn Alê nằm ở gần đường Y Ngông. Vì Pháp đã lấy đất của buôn làm khu quân sự khi trở lại Tây Nguyên nên buôn Alê đã chuyển xuống khu vực sát đường Lê Duẩn hiện nay. Để thuận tiện hơn cho việc sản xuất và sinh hoạt, một bộ phận dân cư của buôn đã tách ra lập buôn mới. Từ đó, buôn cũ được gọi là buôn Alê A và buôn mới được gọi là buôn Alê B. Theo lời kể của những già làng ở đây, cái tên Alê có nguồn gốc từ tiếng ÊĐê. Trong tiếng ÊĐê, chữ “lê” có nghĩa là tre xanh. Vì buôn có rất nhiều rừng tre lớn nên người dân đã đặt cho buôn cái tên là Alê A. Ở vùng Buôn Mê Thuột, Alê A là một buôn lớn, giàu có và trí thức nhất vì ở buôn có có rất nhiều người làm công chức, chiếm tỉ lệ cao hơn so với các buôn khác trong vùng. Có lẽ bởi vậy mà số lượng người di cư về buôn cũng chiếm một tỉ lệ cao, tác động lớn đến tốc độ biến đổi của buôn, biến Alê A dần trở thành buôn ÊĐê mang đậm dáng dấp của người Kinh. Tuy nhiên, do ngày càng khan hiếm đất cả về đất ở lẫn đất tự nhiên mà mật độ dân số lại cao nên Alê A được xếp vào buôn nghèo của vùng Buôn Mê Thuột. Thay vào đó, với vị trí là buôn cận trung tâm nên cơ hội thay đổi cuộc sống của người dân trong buôn dần nhiều hơn và mức sống cũng phát triển hơn theo hướng hiện đại hóa. Cho đến nay, Alê A là buôn không còn một nhà sàn truyền thống nào, các hoạt động sinh hoạt văn hóa truyền thống cũng không còn diễn ra nhiều tại đây. Nhà thờ Kitô giáo và không gian đạo Tin lành dần trở thành không gian tinh thần quan trọng nhất đối với cả buôn làng. Nếu Alê A là một buôn cận trung tâm thì Êa Bông lại là một buôn khá xa trung tâm, cách trung tâm thành phố khoảng 5 ki lô mét. Êa Bông là tên một con suối chảy qua buôn, nằm ở phía Đông Bắc của buôn ngày nay và là 3
- nơi cư trú của người dân giai đoạn trước năm 1975. Êa Bông là một buôn thuần nông, nghề nghiệp chính của người dân trong buôn là làm nông nghiệp, chủ yếu là đốt nương làm rẫy. Đối với họ, đất, nước và rừng là nguồn tài nguyên vô tận để họ có thể canh tác theo các phương thức làm nông nghiệp truyền thống. Vì vậy, mức sống của họ giai đoạn trước 1975 là mức sống trung bình, nghèo và sinh hoạt theo hình thức tự cung tự cấp. Cho đến cuối thập niên 1980, khi mô hình canh tác cây công nghiệp được phổ biến thì người dân mới bắt đầu trồng cà phê. Nhờ có diện tích đất sản xuất tương đối cao nên cà phê trở thành nguồn thu nhập chính của người dân, mức thu nhập của họ được nâng lên và mức sống cũng được cải thiện hơn, tỷ lệ hộ nghèo cũng giảm đi đáng kể. Đời sống thay đổi, nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại cũng thay đổi theo. Nhà sàn dài truyền thống được thay thế dần bằng nhà bê tông, nhà cấp bốn. Hơn 50% người dân đi theo Kitô giáo và đạo Tin lành. Bộ phận còn lại vẫn giữ được các tín ngưỡng và sinh hoạt truyền thống. Bảng 1. Khái quát về các buôn được lựa chọn nghiên cứu Tên buôn ALê A Êa Bông Thông số Vị trí Phường Ea Tam Xã Cư Êbur Vùng trung tâm Vùng ngoại ô Dân số Tổng: 365 hộ, 1561 khẩu Tổng: 312 hộ, 1559 khẩu Ê Đê: 197 hộ, 745 khẩu Ê Đê: 270 hộ, 1358 khẩu Diện 23,9 ha 159,6 ha tích Sinh kế Công chức nhà nước, làm nông Làm nông nghiệp kết hợp nghiệp kết hợp buôn bán và làm thuê làm thuê công nhật 4
- công nhật Tôn 70% Kitô giáo; 30% Tin lành, lương 70% Kitô giáo; giáo giáo và tín ngưỡng truyền thống 30% Tin lành, lương giáo và tín ngưỡng truyền thống Mức Khá giả Trung bình khá sống [Nguồn: Số liệu tổng hợp của tác giả năm 2020] Nếu nhìn vào các thông số ở bảng 1, giữa Buôn Alê A và Êa Bông có nhiều điểm khác nhau căn bản, do đó, có thể đại diện cho cộng đồng 33 thôn buôn Ê Đê ở Buôn Ma Thuột. Phạm vi thời gian: Đề tài này tập trung nghiên cứu sự biến đổi trong khoảng thời gian từ năm 1975 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Tác giả sẽ sử dụng một số phương pháp chính để nghiên cứu đề tài này như: Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu: Tôi đã tham khảo các nghiên cứu của các học giả trong nước và quốc tế, đặc biệt là các nghiên cứu liên quan đến biến đổi không gian cư trú tộc người ở vùng cao nói chung và ở Tây Nguyên nói riêng. Bên cạnh đó, tôi cũng tham khảo các báo cáo tổng kết hàng năm của thành phố Buôn Ma Thuột và của các phường Ea Tam, xã Cư Êbur để hiểu được bối cảnh kinh tế - xã hội của sự biến đổi không gian cư trú ở các điểm nghiên cứu. Phương pháp điền dã dân tộc học: Dưới sự hỗ trợ trực tiếp của giáo viên hướng dẫn, tôi đã đi thực địa ở hai buôn Alê A và Êa Bông. Tuy thời gian thực địa không nhiều, tôi đã cố gắng thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu và tổ chức các cuộc thảo luận nhóm với người dân ở hai buôn nhằm có được 5
- những thông tin cơ bản nhất về quá trình biến đổi không gian cư trú ở đây từ sau 1975 đến nay. 5. Lịch sử nghiên cứu Môi trường sống của con người là một chủ đề quen thuộc trong các tác phẩm nhân học. Theo quan sát của chúng tôi, các tác phẩm nhân học thường tập trung vào hai đối tượng chính trong không gian cư trú: ngôi nhà và mái ấm. Trong các mô tả về các dân tộc bản địa ở Châu Mỹ và Châu Đại Dương, các nhà nhân chủng học thời kỳ đầu như Lewis Henry Morgan (Morgan 1881) hay Bronislaw Malinowski (trích dẫn bởi Collier, Rosaldo & Yanagisako 1987) xem gia đình của người bản địa là một nhóm họ hàng bị ràng buộc bởi một không gian vật lý xác định, một lò sưởi và một ngôi nhà. Quan sát các gia đình thượng lưu của người da đỏ Bắc Mỹ và các gia đình Trung Âu, Lévi- Strauss cho rằng ngôi nhà có chức năng hòa nhập và kết nối các mối quan hệ giữa các gia đình - chẳng hạn như tạo ra các liên minh quyền lực thông qua hôn nhân [36]. Trong khi đó, từ cuộc sống gia đình của xã hội Algeria, Bourdieu cho rằng vật chất và hình thức cấu trúc của ngôi nhà trở thành cơ sở cho tái sản xuất xã hội [32]. Ngoài ra, các nhà nhân học cũng quan tâm đến các khía cạnh khác như đời sống gia đình hay vai trò của kinh tế gia đình. Trong một nghiên cứu về cuộc sống gia đình Mã Lai, Carsten đặt lò sưởi ở trung tâm ngôi nhà: đó là nơi gặp gỡ của các thành viên trong gia đình, chuẩn bị bữa ăn, nơi tạo ra các mối quan hệ dòng tộc thông qua việc chuyển nhượng và chia sẻ tài sản [33]. Khía cạnh kinh tế của gia đình được các tác giả khác gọi là "kinh tế gia đình" [35] hoặc phương thức sản xuất nội địa [37]. Theo Gudeman và Rivera, mô hình kinh tế hộ gia đình cho phép các gia đình thỏa mãn đời sống cá nhân trong khi đảm bảo sự hỗ trợ qua lại cho các hộ gia đình khác, độc lập nhưng gắn với nhu cầu của thị trường bên ngoài [35, tr.10]. 6
- Trong khi, đối với không gian cư trú các dân tộc thiểu số, nghiên cứu không gian dân cư dân tộc thiểu số, hầu hết các nhà nghiên cứu Việt Nam thường háo hức tìm hiểu khía cạnh kiến trúc (Nguyễn Phước Bảo Dân 2005; Lâm Nhân 2007; Chảo Văn Lâm 2015; Mai Ngọc Chừ 2015; Phú Văn Hân 2015; Vũ Thị Diệu 2016). Đối với khu vực Tây Nguyên Việt Nam, nhà ở của các tộc người bản địa được nhắc đến trong các tác phẩm nổi tiếng của các học giả Pháp như: Rừng người Thượng (Henri Maitre 2008), Chúng tôi ăn rừng (G. Condominas 1997), Những vùng đất huyền ảo (Jacques Dournes 2003). Và chủ đề này tiếp tục được nhiều tác giả Việt Nam nghiên cứu sau năm 1975. Họ đã nghiên cứu sâu về kết cấu, kỹ thuật, mỹ thuật, công năng, phương hướng sử dụng và bảo tồn nhà rông của các dân tộc Nam Tây Nguyên (Nguyễn Khắc Tụng 1991; Lưu Hùng 1994; Bùi Minh Đạo 2004; Nguyên Ngọc 2007; Lê Hồng Lý 2015; Nguyễn Thị Phương Châm 2015; Rơ Đăm Thị Bích Ngọc, 2017). Tất nhiên, do kiến trúc độc đáo và vai trò quan trọng của nó trong đời sống xã hội tộc người, nhà sàn dài nói riêng và không gian cư trú ÊĐê nói chung đã được nhiều học giả quan tâm. Trong cuốn Văn hóa cổ truyền ở Tây Nguyên trong phát triển bền vững của Đỗ Hồng Kỳ đã nêu khái quát những đặc trưng quan trọng về đặc điểm, cấu trúc và nét văn hóa đậm đà của người ÊĐê trong quá trình gìn giữ và phát triển ngôi nhà dài và truyền thống mẫu hệ [15]. Trong bài viết Cần bảo tồn kiến trúc nhà ở truyền thống của đồng bào Tây Nguyên của tác giả Tấn Vịnh đã đưa ra một số giải pháp trong công tác bảo tồn nhà cửa truyền thống của đồng bào ÊĐê [30]. Chuyên khảo của tác giả Đặng Hoài Giang về Biến đổi không gian văn hóa buôn làng Ê Đê ở Buôn Ma Thuột từ sau 1975 đến nay trong bối cảnh chuyển đổi cấu trúc không gian buôn làng đã cho thấy được hệ quả tất yếu của quá trình chuyển động trong cấu trúc không gian buôn làng. Khi cấu trúc 7
- không gian buôn làng thay đổi, các yếu tố văn hóa truyền thống tất yếu bị gián đoạn, các giá trị cũ nhường chỗ cho các quan niệm, giá trị mới. Trong bài viết này, tác giả cũng đã nhắc đến sự biến đổi không gian cư trú tộc người ÊĐê ở một số buôn làng ở Tây Nguyên [9]. Trong chuyên khảo Người ÊĐê – một xã hội mẫu quyền của Anne De người Pháp, tác giả đã đặc biệt chú ý đến vai trò không gian nhà sàn dài truyền thống của tộc người ÊĐê. Tác giả không những nêu ra vai trò của nhà sàn dài về mặt tín ngưỡng, lễ hội, tâm linh, văn hóa mà còn chỉ ra sự biến đổi của nhà sàn dài và những nguy cơ từ sự biến đổi đó. Theo quan điểm của tác giả, việc người ÊĐê chuyển từ nhà sàn dài truyền thống sang nhà cá nhân giống như việc họ đang từ bỏ một phần quan trọng trong đời sống nghi lễ và xã hội, điều này sẽ dẫn đến nguy cơ nhà sàn dài bị giải thể trong tương lai [11]. Ngoài ra, đặc điểm của nhà sàn dài cũng như phương pháp bảo tồn nhà sàn dài Ê Đê cũng được nhắc đến trong trong một số nghiên cứu khác: Tác động của đô thị hóa đến văn hóa nhà dài của người ÊĐê của Nguyễn Thị Phương Thảo [29]; Nhà văn hóa cộng đồng ở Tây Nguyên: xây xong đóng cửa bỏ hoang của Nguyên Bình [26]; Nhà ở và sinh hoạt trong nhà của người ÊĐê ở Việt Nam của Nguyễn Thị Hòa [12] . Các nghiên cứu nói trên là nguồn tham khảo rất quý giá giúp tôi thực hiện luận văn này. 6. Một số đóng góp của luận văn Thứ nhất, về hướng tiếp cận, nếu các nghiên cứu trước đây thường chú trọng miêu tả các yếu tố kiến trúc, thì luận văn của tôi cố gắng nhìn sự biến đổi không gian cư trú trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Buôn Ma Thuột để thấy được các chiều tác động lên không gian sống của người ÊĐê. 8
- Thứ hai, luận văn không những làm rõ khái niệm không gian cư trú mà còn vận dụng các quan điểm lý thuyết phù hợp để đánh giá và phân tích các tư liệu dân tộc học. Thứ ba, luận văn làm rõ các chiều cạnh biến đổi trong không gian cư trú của người ÊĐê. Đồng thời, luận văn cũng chỉ ra những xu hướng biến đổi trong không gian cư trú của người ÊĐê ở Buôn Mê Thuột và đề xuất những phương hướng cũng như kiến nghị để bảo tồn và phát huy giá trị của không gian cư trú của người ÊĐê trong tổng thể kiến trúc đô thị thành phố. Với các đóng góp vừa nêu, luận văn sẽ là nguồn tài liệu hữu ích cho những ai quan tâm đến lĩnh vực không gian cư trú tộc người ở Việt Nam nói chung và ở Tây Nguyên nói riêng. Đồng thời, luận văn cũng cung cấp các thông tin đáng tin cậy cho các nhà quản lý địa phương trong việc hoạch định các chính sách bảo tồn văn hoá truyền thống phù hợp cho vùng đô thị Buôn Ma Thuột. 7. Cấu trúc của luận văn Luận văn được chia làm 3 chương và các nội dung chính như sau: Chương 1: Tổng quan. Trong chương này tác giả sẽ làm rõ các khái niệm cơ bản bao gồm: Khái niệm không gian văn hóa làng Việt truyền thống vùng Đồng bằng; Khái niệm không gian văn hóa buôn làng Tây Nguyên; Khái niệm không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống. Sau đó, tác giả sẽ chỉ ra bối cảnh tác động đến không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống bao gồm các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như sự chuyển dịch cơ cấu dân cư dân tộc ở một số buôn làng ÊĐê ở Tây Nguyên. Chương 2: Quá trình biến đổi không gian cư trú buôn làng ÊĐê. Chương này sẽ chỉ ra những khía cạnh biến đổi không gian cư trú - bao gồm: Biến đổi về cơ cấu dân cư, dân tộc và tôn giáo; Biến đổi về loại hình gia đình và kiến trúc nhà ở. Từ đó, sẽ tìm và chỉ ra hệ quả của sự biến đổi không gian 9
- cư trú buôn làng ÊĐê trên nhiều mặt như thay đổi trong đời sống gia đình cũng như thay đổi về mặt tiếp biến văn hóa. Chương 3: Xu hướng và vấn đề đặt ra từ quá trình biến đổi không gian cư trú buôn làng ÊĐê truyền thống. Tác giả sẽ chỉ ra những xu hướng biến đổi chính là: Xu hướng bảo tồn kết hợp hiện đại hóa và xu hướng giải thể. Từ những xu hướng này, tác giả sẽ nêu lên những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi và đưa ra các đề xuất nhằm quy hoạch và bảo tồn không gian cư trú truyền thống cho buôn làng ÊĐê. 10
- Chương 1. Tổng quan 1.1. Các khái niệm 1.1.1. Không gian văn hoá buôn làng Trước khi tìm hiểu khái niệm không gian cư trú - vốn là khái niệm trung tâm của luận văn, chúng tôi muốn làm rõ một khái niệm liên quan là không gian văn hoá buôn làng vì không gian cư trú là một bộ phận không thể thiếu của không gian văn hoá buôn làng. Theo Đặng Hoài Giang, khái niệm không gian văn hóa buôn làng hàm chỉ một thực thể không gian đóng vai trò như là không gian sáng tạo, thực hành và nuôi dưỡng các giá trị văn hóa của cộng đồng buôn làng. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng không gian văn hóa buôn làng cũng còn có thể hiểu như là không gian văn hóa tộc người hay môi trường nuôi dưỡng, trao truyền các giá trị văn hóa tộc người [9, tr. 62]. Về mặt cấu trúc, Đặng Hoài Giang cho rằng không gian văn hoá buôn làng được cấu thành bởi 4 yếu tố: Không gian sản xuất: nơi cung cấp các nguồn lợi từ tự nhiên (đất, nước, hệ thực vật và động vật, khoáng sản ...) mà con người có quyền tiếp cận, khai thác nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn: đất để ở và để canh tác nông nghiệp; nguồn nước để phục vụ sinh hoạt và sản xuất; rừng để khai thác thực phẩm (rau, củ, quả, thịt thú rừng) và các loại vật liệu quan trọng (gỗ, dược liệu); các bãi chăn thả để chăn nuôi súc vật... Trong quá trình tương tác và thích nghi với không gian sản xuất, con người đã tích lũy tri thức về thế giới tự nhiên (tri thức bản địa) và định hình nên các khuôn mẫu văn hóa: các quy định về tiếp cận, sở hữu, chuyển nhượng đất đai và các loại tài nguyên; hình thức canh tác nông nghiệp (lịch mùa vụ, công cụ sản xuất và kỹ thuật canh tác, cơ cấu cây trồng); hình thức tiêu dùng, phân phối và trao đổi sản phẩm ... Không gian cư trú: nơi ở của các hộ gia đình trong cộng đồng, nơi diễn ra toàn bộ đời sống dân sự thường nhật. Nói đến không gian cư trú là nói đến 11
- phong cách kiến trúc (mô típ kiến trúc, vật liệu kiến trúc, cách sử dụng không gian kiến trúc, nghệ thuật trang trí), loại hình gia đình (hạt nhân hay mở rộng) và vô số nguyên tắc được đặt ra trong khung cảnh đời sống gia đình: hình thức thừa kế và phân chia tài sản, chức năng giới, hình thức lựa chọn đối tượng hôn nhân (đối tượng phối ngẫu) và cư trú sau hôn nhân, hình thức hợp tác giữa các gia đình cùng huyết thống ... Không gian sinh hoạt cộng đồng: nơi diễn ra các sinh hoạt chung của cộng đồng, trong đó đáng chú ý là nhà cộng đồng (communal house) và khu vui chơi, giải trí. Không gian sinh hoạt cộng đồng có chức năng thúc đẩy quá trình xã hội hóa cá nhân - giúp cá nhân nhập thân sâu hơn vào đời sống bên ngoài, nâng cao sự gắn kết xã hội và duy trì tính liên tục văn hóa của cộng đồng thông qua các thực hành văn hóa được tổ chức trong một số sự kiện đặc biệt; Không gian sinh hoạt tín ngưỡng: nơi con người tổ chức các sinh hoạt tín ngưỡng để tạo nên sự giao tiếp giữa thế giới thực mà họ đang sống với một thế giới tuy mơ hồ nhưng được xem là có mối liên hệ mật thiết với thế giới của họ: thế giới tâm linh. Đó là thế giới của các nhân vật siêu nhiên và của những người thân đã khuất. Các quan niệm và sinh hoạt gắn liền với không gian tín ngưỡng có chức năng điều tiết hành vi của con người. Đồng thời, nó cũng có vai trò duy trì và trao truyền các kĩ năng, các giá trị văn hóa giữa các thế hệ trong một cộng đồng. Vì mỗi sự kiện sinh hoạt tín ngưỡng, ngoài ý nghĩa tinh thần, còn là một cơ hội để các thành viên trong cộng đồng trình diễn những gì được cho là tốt đẹp nhất, tinh túy nhất trong vốn văn hóa của họ [9, tr. 64-65]. Như vậy, theo cách phân loại của Đặng Hoài Giang, không gian cư trú là một bộ phận hữu cơ của không gian văn hoá buôn làng. 12
- 1.1.2. Không gian cư trú Trong luận văn này, không gian cư trú được đặt trong bối cảnh của không gian văn hoá buôn làng, và được hiểu là khu vực sinh sống của các hộ gia đình trong một làng. Không gian ở bao gồm cả khía cạnh “cứng” như kiểu gia đình, kiến trúc và cấu trúc dân tộc và những khía cạnh “mềm” liên quan đến chúng như các quy tắc trong hôn nhân và thừa kế tài sản, tập quán hàng ngày định hình cuộc sống của các gia đình: văn hóa ẩm thực và trang phục, các hoạt động tôn giáo, v.v. Về cơ bản, cái mà chúng tôi gọi là “khía cạnh mềm” là cách sống của các hộ gia đình trong một cộng đồng. Rõ ràng, cả hai khía cạnh này có mối quan hệ tương hỗ và phụ thuộc vào nhau, do đó, một điểm khác biệt khác của luận văn này so với các công trình trước đó là làm rõ sự liên quan giữa sự thay đổi của các khía cạnh hữu hình với sự thay đổi của các mặt vô hình trong toàn bộ không gian cư trú. 1.2. Các quan điểm lý thuyết Trước hết, luận văn này dựa vào lý thuyết tiếp biến văn hóa để làm định hướng phân tích và giải mã tài liệu. Từ "tiếp biến văn hóa" có lẽ do nhà nhân học Mỹ J. W. Powell sử dụng từ năm 1880 khi đề cập đến sự biến đổi của lối sống và lối suy nghĩ của người di dân khi tiếp xúc với xã hội Mỹ. Tuy nhiên, phải đợi đến những năm 1930 mới có các hệ thống lý thuyết về hiện tượng gặp gỡ giữa các nền văn hóa và có định nghĩa về mặt khái niệm. Năm 1936, Hội đồng nghiên cứu khoa học xã hội Mỹ lập ra một ủy ban để tổ chức nghiên cứu các sự kiện tiếp biến văn hóa, trong đó có Robert Redfield, Ralph Linton và Medville Herskovits. Trong Bản ghi nhớ nghiên cứu về tiếp biến văn hóa (1936) có nêu ra định nghĩa: "Tiếp biến văn hóa bao gồm tất cả các hiện tượng do việc tiếp xúc liên tục và trực tiếp giữa các nhóm cá thể có văn hóa khác nhau, dẫn đến những biến đổi đáng kể trong các mô thức văn hóa 13
- ban đầu của một hoặc của hai nhóm này. Cũng trong bản ghi nhớ này, "tiếp biến văn hóa" được phân biệt với: “Biến đổi văn hóa” (culture change), thường được dùng trong nhân học Anh. Tiếp biến văn hóa mới chỉ là một phương diện của biến đổi văn hóa vì biến đổi văn hóa có thể là kết quả của những nguyên nhân nội tại. “Đồng hóa văn hóa” vì đây chỉ là giai đoạn cuối của tiếp biến văn hóa và, vì nó hàm ý sự biến mất hoàn toàn của nền văn hóa gốc và việc du nhập hoàn toàn nền văn hóa của nhóm thống trị. “Truyền bá văn hóa”, vì truyền bá xuyên suốt quá trình tiếp biến văn hóa nhưng vẫn có thể có truyền bá mà không có tiếp xúc liên tục và trực tiếp, và dù sao nó cũng chỉ là một phương diện của quá trình tiếp biến văn hóa vốn phức tạp hơn nhiều. Bản Ghi nhớ cũng đưa ra một hệ thống phân loại các tiếp xúc văn hóa: Theo các tiếp xúc diễn ra giữa toàn bộ các nhóm, hoặc giữa toàn bộ nhóm cư dân với một nhóm của một nhóm cư dân khác (ví dụ truyền giáo, thực dân, người di cư...). Theo các tiếp xúc hòa hảo hay là thù địch; Theo các tiếp xúc diễn ra giữa các nhóm có độ lớn tương đương và giữa các nhóm có độ lớn không đều nhau; Theo các tiếp xúc có các nền văn hóa có độ phức hợp lớn hay không; Theo các tiếp xúc sinh ra từ thực dân hóa hay là di cư. Sau đó có thể có các: Tình huống "thống trị" (domination) và "bị trị" (subordination) trong đó xảy ra tiếp biến văn hóa; 14
- Tiến trình tiếp biến văn hóa tức là các thể thức "chọn lọc" các yếu tố vay mượn hay là "phản kháng" lại sự vay mượn; Các hình thức hội nhập các yếu tố này vào trong mô hình văn hóa gốc; Các cơ chế tâm lý tạo điều kiện thuận lợi hay không đối với tiếp biến văn hóa; Cuối cùng, những hệ quả có thể của tiếp biến văn hóa, bao gồm cả những phản ứng tiêu cực, đôi khi có thể tạo ra những phong trào "chống-tiếp biến văn hóa". Các nhà nhân học Mỹ dùng khái niệm "khuynh hướng" vay mượn từ ngôn ngữ học của Sapir để giải thích rằng tiếp biến văn hóa không bao giờ đơn thuần là một sự cải hóa từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác. Sự biến đổi của nền văn hóa gốc diễn ra bằng cách "chọn lọc" các yếu tố văn hóa vay mượn, và sự chọn lọc này được thực hiện theo "khuynh hướng" nội tại của nền văn hóa gốc. Herskovits đưa ra khái niệm "diễn giải và biểu đạt lại" (réinterprétation) được định nghĩa là "tiến trình trong đó những ý nghĩa cũ được gán cho các yếu tố mới hoặc là những giá trị mới làm thay đổi những ý nghĩa văn hóa của các hình thức cũ”. Một quy luật chung được rút ra là các yếu tố không phải là biểu trưng (kỹ thuật và vật chất) của một nền văn hóa thì sẽ dễ chuyển được sang nền văn hóa khác hơn là các yếu tố biểu trưng (tôn giáo, tư tưởng, vv.) Để mường tượng được sự phức hợp của tiến trình xúc tiến văn hóa, H. G. Barnett phân biệt: "hình thức" (biểu đạt hiện hữu); "chức năng" và "ý nghĩa" của các nét văn hóa. Từ cách phân biệt này, có ba hợp thức phụ có thể được nêu ra: 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Ảnh hưởng của truyện tranh Nhật Bản (Manga) đối với giới trẻ Việt Nam - Trường hợp THPT Khoa học giáo dục
106 p | 270 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Thờ kính tổ tiên trong đạo công giáo Việt Nam
115 p | 179 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: So sánh xu hướng phát triển thương mại điện tử Việt Nam và Trung Quốc
101 p | 85 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
107 p | 106 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Những điểm mới về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ XII (2016)
91 p | 102 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Khai thác giá trị làng nghề khu vực Bắc Quảng Nam nhằm phát triển du lịch cộng đồng
132 p | 26 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Văn hóa ẩm thực đối với phát triển du lịch thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
180 p | 38 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Tác động của đầu tư nước ngoài đối với cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam
91 p | 69 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào Cai, Việt Nam và nhóm ở Má Ga Tý, Kim Bình, Vân Nam, Trung Quốc)
130 p | 76 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: So sánh chính sách của nhà nước Việt Nam và Trung Quốc đối với các cộng đồng dân cư khu vực biên giới Việt – Trung từ 1986 đến nay
112 p | 47 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Vai trò của ngành dệt may đối với nền kinh tế Việt Nam
101 p | 88 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Cộng đồng người Bố Y ở phía Bắc Việt Nam trong cái nhìn so sánh về văn hóa với cộng đồng người Bố Y ở Tây Nam Trung Quốc
119 p | 48 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Quan hệ Liên bang Nga - Việt Nam giai đoạn 1991 - 2016
104 p | 59 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam
96 p | 49 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Từ vay mượn trong tiếng Việt sử dụng trên mạng internet
76 p | 62 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: So sánh việc đào tạo giáo viên tiếng Trung, tiếng Việt cho người nước ngoài
103 p | 54 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: Hiện tượng “ngân hàng” tự phát và tác động của nó đối với kinh tế biên mậu ở một số khu vực biên giới Trung - Việt
143 p | 30 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Việt Nam học: So sánh chương trình đào tạo chuyên ngành Quản lý văn hóa giữa trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội Việt Nam và Học viện Nghệ thuật Quảng Tây Trung Quốc
108 p | 57 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn