intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Thị trường chứng khoán Việt Nam và các giải pháp trong thời gian tới

Chia sẻ: Pham Ngoc Linhdan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

455
lượt xem
154
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thị trường chứng khoán Việt Nam khép lại năm 2011 với chỉ số VN-Index ở mốc 351,55 điểm, giảm 27,46%; HNX-Index đóng cửa ở mốc 58,74 điểm, giảm 48,6%, xuống mức thấp nhất trong lịch sử. Mặc dù đang gặp rất nhiều khó khăn xuất phát từ nhiều khía cạnh như ảnh hưởng của bối cảnh khó khăn chung của kinh tế trong, ngoài nước hay do chính từ những vấn đề nội tại. Mời các bạn tham khảo tài liệu để tìm hiểu kỹ hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Thị trường chứng khoán Việt Nam và các giải pháp trong thời gian tới

  1. BÀI LUẬN ĐỀ TÀI Thị trường chứng khoán Việt Nam và  các giải pháp trong thời gian tới Nhóm 5-K21.Đêm 1
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 3 NỘI DUNG ........................................................................................................................... 4 I. LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (TTCK): ................................... 4 1. Cơ sở hình thành thị trường chứng khoán: ................................................................ 4 2. Khái niệm, bản chất, cơ cấu tổ chức và vai trò của thị trường chứng khoán:.............. 4 3. Phân loại thị trường chứng khoán:............................................................................. 6 4. Các chủ thể hoạt động trên thị trường chứng khoán: ................................................. 8 5. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán: .......................................... 10 II. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY:... 11 1. Sơ lược về thị trường chứng khoán Việt Nam: ......................................................... 11 2. Nguyên nhân sụt giảm của thị trường chứng khoán 2011: ............................... 16 III. CÁC GIẢI PHÁP KIỆN TOÀN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI: ................................................................................................ 19 1. Chủ trương vực dậy thị trường chứng khoán tại Việt Nam trong thời gian tới: ....... 19 2. Một số giải pháp kiện toàn thị trường chứng khoán Việt Nam: ................................ 21 KẾT LUẬN......................................................................................................................... 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 26 2
  3. LỜI MỞ ĐẦU Thị trường chứng khoán Việt Nam khép lại năm 2011 với chỉ số VN-Index ở mốc 351,55 điểm, giảm 27,46%; HNX-Index đóng cửa ở mốc 58,74 điểm, giảm 48,6%, xuống mức thấp nhất trong lịch sử. Mặc dù đang gặp rất nhiều khó khăn xuất phát từ nhiều khía cạnh như ảnh hưởng của bối cảnh khó khăn chung của kinh tế trong, ngoài nước hay do chính từ những vấn đề nội tại, bất cập của thị trường chứng khoán Việt Nam nhưng với quan điểm của các cơ quan quản lý Nhà nước thì thị trường chứng khoán vẫn được xem là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế nước ta. Do đó, nhiệm vụ cần phải đề ra trong thời gian tới là vực dậy, tiếp tục thúc đẩy phát triển và hoàn thiện thị trường chứng khoán Việt Nam. Tiếp cận vấn đề từ việc đánh giá thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, qua đó kiến nghị một số giải pháp nhằm vực dậy và phát triển thị trường chứng khoán trong thời gian tới, tiểu luận môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ của Nhóm có kết cấu 03 phần như sau: − Phần 1: Lý thuyết về thị trường chứng khoán; − Phần 2: Thực trạng thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện nay; − Phần 3: Các giải pháp kiện toàn thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới. 3
  4. NỘI DUNG I. LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (TTCK): 1. Cơ sở hình thành thị trường chứng khoán: Do sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về tích vốn trong xã hội tăng lên và trở nên đa dạng, phong phú; người thì cần vốn cho mục đích tiêu dùng hay đầu tư, người thì có vốn nhàn rỗi muốn cho vay để sinh lời. Đầu tiên, họ tìm gặp nhau trực tiếp trên cơ sở quen biết. Tuy nhiên sau đó, khi cung cầu vốn không ngừng tăng lên thì hình thức vay, cho vay trực tiếp dựa trên quan hệ quen biết không đáp ứng được. Vậy cần phải có một thị trường cho cung và cầu gặp nhau, đáp ứng các nhu cầu tài chính của nhau – đó là thị trường tài chính. Thông qua thị trường tài chính, nhiều khoản vốn nhàn rỗi được huy động vào tiêu dùng, đầu tư, tạo đòn bẩy cho phát triển kinh tế. Căn cứ vào thời gian luân chuyển vốn, thị trường tài chính bao gồm: − Thị trường tiền tệ: mua bán, trao đổi các công cụ tài chính ngắn hạn dưới một năm. − Thị trường vốn: mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn. Tóm lại: ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân chưa cao và nhu cầu về vốn chủ yếu là vốn ngắn hạn. Theo thời gian, sự phát triển kinh tế, nhu cầu về vốn dài hạn cho đầu tư phát triển ngày càng cao. Chính vì vậy, thị trường vốn đã ra đời để đáp ứng các nhu cầu này. Để huy động được vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và doanh nghiệp còn huy động vốn thông qua hình thức phát hành chứng khoán. Khi một bộ phận các chứng khoán có giá trị nhất định được phát hành, thì xuất hiện nhu cầu mua, bán chứng khoán; và đây chính là sự ra đời của thị trường chứng khoán với tư cách là một bộ phận của thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán và trao đổi chứng khoán các loại. 2. Khái niệm, bản chất, cơ cấu tổ chức và vai trò của thị trường chứng khoán: 2.1 Khái niệm thị trường chứng khoán: TTCK là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán, các giấy ghi nợ trung và dài hạn (thường từ một năm trở lên) nhằm mục đích kiếm lời. 4
  5. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, TTCK được quan niệm là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều khiển, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn giữa những người phát hành chứng khoán và mua chứng khoán hoặc kinh doanh chứng khoán. Chứng khoán là chứng thư hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người chủ sở hữu và có thể mua bán, chuyển nhượng trên thị trường. 2.2 Bản chất của thị trường chứng khoán: Bản chất của TTCK là nơi phân phối lại các nguồn vốn tiết kiệm từ chủ thể thặng dư vốn sang chủ thể thiếu vốn. Là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. TTCK là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa. 2.3 Cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán: Bất cứ một TTCK nào của bất cứ nước nào, dù mới thành lập hay đã phát triển, đều cấu thành bởi hai bộ phận thị trường có tổ chức khác nhau: Thị trường sơ cấp (primary market) là giai đoạn khởi đầu của TTCK. Đây là nơi mua bán - những chứng khoán mới phát hành. Vì vậy, trong thực tế thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường phát hành chứng khoán. Nguồn vốn chủ yếu của thị trường này là nguồn tiết kiệm của công chúng cũng như một số tổ chức phi tài chính. Như vậy thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của TTCK đó là chức năng kinh tế: mang nguồn tiền nhàn rỗi đến cho người cần sử dụng, đưa nguồn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. Vai trò của thị trường sơ cấp là tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thị trường thứ cấp (secondary market) còn được gọi là thị trường cấp hai, là nơi giao dịch mua - bán các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp và là một bộ phận quan trọng của TTCK, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Những chứng khoán giao dịch ở đây có thể được mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau. Vì vậy trong thực tế, thị trường thứ cấp còn được gọi là thị trường giao dịch luân chuyển chứng khoán, là nơi chủ yếu tạo điều kiện trao đổi chứng khoán “cũ”, mà chủ sở hữu của chúng lúc này nhà đầu tư, chứ không phải là của công ty phát hành, càng không phải của Sở giao dịch. Thị trường thứ cấp thực hiện các chức năng: tạo dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằm thu tiền mặt, lấy ngân quỹ, tức là tạo cho các công cụ 5
  6. tài chính tăng cao tính thanh khoản; kiếm lời từ việc nắm giữ chứng khoán; xác định giá chứng khoán hợp lý trên cơ sở đấu giá tự do (cạnh tranh hoàn hảo); giá hợp lý trên thị trường thứ cấp ảnh hưởng đến giá phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. 2.4 Vai trò của thị trường chứng khoán: TTCK có vai trò góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài, kích thích các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn và lành mạnh hơn. TTCK là hình thức huy động vốn mà không gây ảnh hưởng đến lạm phát và thực thi chính sách tiền tệ, là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh, là phong vũ biểu của nền kinh tế. 3. Phân loại thị trường chứng khoán: 3.1 Căn cứ về phương diện pháp lý, thị trường chứng khoán được chia làm các loại sau: Thị trường sàn giao dịch hay Sở giao dịch hoặc thị trường niêm yết tập trung: thị trường sàn - giao dịch là một thị trường được tổ chức tập trung có địa điểm giao dịch cố định. Chứng khoán được mua bán là loại đã được niêm yết tại Sở giao dịch, việc mua bán được thực hiện theo phương thức đấu giá hai chiều giữa đại diện người mua và đại diện người bán. Các môi giới sàn giao dịch cùng nhau trả giá cạnh tranh và sẽ thực hiện giao dịch khi đạt được giá thỏa đáng nhất cho khách hàng đầu tư. Thị trường phi tập trung – Thị trường OTC: đúng như tên gọi, thị trường phi tập trung được tổ - chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định như thị trường sàn giao dịch, mà dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế chào giá cạnh tranh và thương lượng giữa các công ty chứng khoán với nhau, thông qua một sự trợ giúp quyết định nhiều đến hiệu quả hoạt động, đó là phương tiện thông tin. Việc giao dịch và thông tin được dựa vào hệ thống điện thoại và internet với sự trợ giúp của các thiết bị đầu cuối. Thị trường OTC là nơi ít “kén” chứng khoán giao dịch hơn thị trường sàn giao dịch. Tuy nhiên, chứng khoán giao dịch vẫn phải là loại đáp ứng các chuẩn mực và được phép giao dịch đại chúng. Đặc biệt, đây là thị trường đảm nhận vai trò bán ra các chứng khoán phát hành mới, do công ty chào bán lần đầu. Thị trường thứ ba: đây là thị trường giao dịch các chứng khoán đã niêm yết tại Sở giao dịch - nhưng theo cơ chế OTC. Ở Mỹ thị trường này được lập ra do yêu cầu của các nhà đầu tư cần mua 6
  7. bán với số lượng lớn, có thể gọi là “mua sỉ” chứng khoán niêm yết thông qua thương lượng. Các thương vụ được thu xếp bởi các công ty chứng khoán là nhà tạo giá của thị trường OTC, các công ty này phải đăng ký và được phép mua bán lô lớn chứng khoán niêm yết. Thị trường thứ tư: để tạo thuận lợi cho các tổ chức tài chính chuyên nghiệp có điều kiện trực - tiếp mua bán chứng khoán cho tổ chức của mình, các thị trường lớn có lập ra một mạng giao dịch nội bộ gọi là “INSTINET” phục vụ cho việc giao dịch các khối lượng lớn chứng khoán giữa họ với nhau. Cả loại niêm yết trên sàn hoặc loại mua bán OTC đều có thể đem ra giao dịch. Các tổ chức tham gia vào mạng này thường là các ngân hàng, các quỹ hỗ tương đầu tư, các đại diện quản lý quỹ hưu trí và nhiều tổ chức khác tùy theo quy định. 3.2 Căn cứ vào địa điểm phát hành, thị trường chứng khoán được chia làm hai loại: TTCK chính thức – Sở giao dịch chứng khoán còn gọi là TTCK tập trung như đã trình bày ở - trên. TTCK phi chính thức gồm có 2 loại: một là TTCK bán tập trung, một là thị trường thứ ba cũng - đã trình bày ở trên. 3.3 Căn cứ vào phương thức giao dịch, thị trường chứng khoán được chia làm 2 loại: Thị trường giao ngay: còn gọi là thị trường thời điểm, có nghĩa là thị trường giao dịch mua bán - theo giá của ngày hôm đó. Còn việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày tùy theo mỗi TTCK quy định riêng số ngày này. Thị trường tương lai: là thị trường mua bán chứng khoán theo những hợp đồng mà giá cả được - thỏa thuận ngay trong ngày giao dịch, nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ hạn nhất định ở tương lai (có thể là 1 tháng, 6 tháng hay 1 năm…). 3.4 Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hóa lưu hành trên thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán chia làm 3 loại: Thị trường cổ phiếu: giao dịch mua bán những cổ phiếu thường và những cổ phiếu ưu đãi. - Thị trường trái phiếu: giao dịch mua bán trái phiếu dài hạn kho bạc, trái phiếu đô thị, công trái - nhà nước, trái phiếu công ty, trái phiếu cầm cố. 7
  8. Thị trường các công cụ có nguồn gốc chứng khoán: giao dịch mua bán những hợp đồng về - quyền lựa chọn, những giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu… 4. Các chủ thể hoạt động trên thị trường chứng khoán: Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán. 4.1 Chủ thể phát hành: Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Chủ thể phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của TTCK. Chủ thể phát hành gồm có: Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu - địa phương, trái phiếu kho bạc, nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ cho những công trình lớn thuộc cơ sở hạ tầng, phát triển sự nghiệp văn hóa giáo dục, y tế hoặc bù đắp thiếu hụt ngân sách; Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty; - Các tổ chức tài chính như là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ - thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ. 4.2 Nhà đầu tư: Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. Các nhà đầu tư cá nhân: nhà đầu tư cá nhân là các hộ gia đình, những người có vốn nhàn rỗi - tạm thời tham gia mua bán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận; Các nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế tài chính thường xuyên mua bán chứng khoán với số - lượng lớn trên thị trường. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường là các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ… 4.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán: Công ty chứng khoán: là các doanh nghiệp hoạt động theo quy định của Pháp luật hoạt động - trên TTCK. Tùy theo số vốn điều lệ và nội dung trong đăng ký kinh doanh mà công ty chứng 8
  9. khoán có thể thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán như: môi giới chứng khoán, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và lưu ký chứng khoán. Các ngân hàng thương mại: ở một số nước các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có - để tăng và đa dạng hóa lợi nhuận qua việc đầu tư vào chứng khoán. Ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại thành lập các công ty con chuyên doanh trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các trung gian tài chính khác như quỹ đầu tư, … - 4.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán: Cơ quan quản lý Nhà nước: nhận thấy cần thiết phải có một cơ quan bảo vệ lợi ích của các nhà - đầu tư và đảm bảo cho TTCK hoạt động một cách thông suốt cũng như việc thanh tra giám sát hoạt động của các chủ thể trên thị trường chính là việc cần thiết phải có một cơ quan thực hiện các nhiệm vụ trên. Ở Việt Nam có Ủy ban chứng khoán nhà nước thuộc Bộ Tài Chính. Sở giao dịch chứng khoán: Sở giao dịch chứng khoán thực hiện việc vận hành thị trường thông - qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ cho các họat động giao dịch trên Sở giao dịch. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao dịch trên Sở giao dịch phù hợp với quy định của Pháp luật. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là một tổ chức tự quản và thường thực hiện một số - chức năng chính sau: khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán, ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở của Pháp luật về chứng khoán, điều tra và giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên trong thẩm quyền, hợp tác với các cơ quan nhà nước và các cơ quan khác để giải quyết các vấn đề có liên quan đến hoạt động chứng khoán. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và - tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán. Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là các công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực - thanh toán vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. Các mức hệ số tín nhiệm vì thế thường gắn với một đợt phát hành cụ thể chứ không phải cho công ty. 9
  10. Ngoài ra, chủ thể hoạt đông trên TTCK còn có các công ty dịch vụ máy tính chứng khoán, các tổ chức tài trợ chứng khoán… 5. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán: 5.1 Nguyên tắc trung gian: Mọi hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán trên TTCK đều được thực hiện thông qua các trung gian, hay còn gọi là các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực hiện giao dịch theo lệnh của khách hàng và hưởng hoa hồng. Ngoài ra, nhà môi giới còn có thể cung cấp các dịch vụ khác như cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng trong việc đầu tư... Theo nguyên tắc trung gian, các nhà đầu tư không thể trực tiếp thỏa thuận với nhau để mua bán chứng khoán. Họ đều phải thông qua các nhà môi giới của mình để đặt lệnh. Các nhà môi giới sẽ nhập lệnh vào hệ thống để khớp lệnh. 5.2 Nguyên tắc đấu giá: Giá chứng khoán được xác định thông qua việc đấu giá giữa các lệnh mua và các lệnh bán. Tất cả các thành viên tham gia thị truờng đều không thể can thiệp vào việc xác định giá này. Có hai hình thức đấu giá là đấu giá trực tiếp và đấu giá tự động: − Đấu giá trực tiếp là việc các nhà môi giới gặp nhau trên sàn giao dịch và trực tiếp đấu giá. − Đấu giá tự động là việc các lệnh giao dịch từ các nhà môi giới được nhập vào hệ thống máy chủ của Sở giao dịch chứng khoán. Hệ thống máy chủ này sẽ xác định mức giá sao cho tại mức giá này, chứng khoán giao dịch với khối luợng cao nhất. 5.3 Nguyên tắc công khai: Tất cả các hoạt động trên TTCK đều phải đảm bảo tính công khai. Sở giao dịch chứng khoán công bố các thông tin về giao dịch chứng khoán trên thị trường. Các tổ chức niêm yết công bố công khai các thông tin tài chính định kỳ hàng năm của công ty, các sự kiện bất thường xảy ra đối với công ty, nắm giữ cổ phiếu của giám đốc, người quản lý, cổ đông đa số. Các thông tin càng được công bố công khai minh bạch, thì càng thu hút đuợc nhà đầu tư tham gia vào TTCK. Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán được hình thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch. Do đó, ở hầu hết các nước trên thế giới hiện 10
  11. nay, mỗi nước chỉ có một Sở giao dịch chứng khoán duy nhất (tuy nhiên, người dân mọi miền đất nước đều có thể tiếp cận thị trường thông qua các phòng giao dịch của công ty chứng khoán mở tới các điểm dân cư). Một số nước khác còn tồn tại vài Sở giao dịch chứng khoán do lịch sử để lại thì đều nối mạng với nhau hoặc giao dịch những chứng khoán riêng biệt. II. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY: 1. Sơ lược về thị trường chứng khoán Việt Nam: Đối với các nước phát triển, các chỉ báo của TTCK được xem như là một công cụ phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và khá chính xác nhất. Chính vì vậy, TTCK luôn được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế. TTCK Việt Nam trải qua hơn 10 năm xây dựng và phát triển (từ năm 2000 đến năm 2011) đã từng bước khẳng định vai trò của nó như là một kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế bổ sung cho hệ thống ngân hàng. Có thể sơ lược lịch sử hình thành TTCK Việt Nam như sau: 1.1 Diễn biến thị trường chứng khoán giai đoạn 2000-2005: Năm 2000, với 02 công ty niêm yết khi đưa Thị trường giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh vào hoạt động, TTCK đã có mức tăng trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan hiếm, chỉ số VN-Index liên tục tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày 25/06/2001. Sau đó, thị trường đã liên tục sụt giảm trong suốt 03 năm sau đó trước khi tăng mạnh trở lại vào cuối năm 2003. Năm 2005, sau khi Thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội đi vào hoạt động, tổng số các công ty niêm yết trên cả hai thị trường là 44 công ty với tổng giá trị niêm yết là 4,94 ngàn tỷ đồng. Tuy nhiên, nhìn chung giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn hoạt động khá trầm của TTCK Việt Nam. 1.2 Diễn biến thị trường chứng khoán giai đoạn 2006-2008: TTCK Việt Nam giai đoạn cuối năm 2006 và đầu năm 2007 chính là giai đoạn mà thị trường bùng nổ nhất. Năm 2006 chỉ số VN-Index đã tăng tới 146% và trong 03 tháng đầu năm 2007, chỉ số này tiếp tục tăng thêm 46% đạt mức đỉnh 1.170 vào ngày 12/3. Biến động của thị trường này có thể được chia làm 03 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị bức phá do Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO, giai đoạn thị trường tăng trưởng mạnh và giai đoạn điều chỉnh. Trong giai đoạn đầu, những sự kiện kinh tế chính trị tích cực của quốc gia như Việt Nam gia nhập WTO, tổ chức thành công hội nghị APEC đã tạo hình ảnh Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư. Từ tháng 12/2006, sự bùng nổ về số 11
  12. lượng các công ty niêm yết cộng với kết quả kinh doanh tốt tạo ra một sự bùng nổ cho thị trường cho đến tháng 3/2007. Diễn biến chỉ số VN-Index và các sự kiện quan trọng giai đoạn từ tháng 06/2006 đến tháng 07/2007(Nguồn: Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn) Diễn biến 2 chỉ số VN-Index và HNX-Index và các thông tin quan trọng giai đoạn từ tháng 12/2007 đến tháng 7/2008 (Nguồn: Công ty cổ phần Chứng khoán Bảo Việt) Những tháng cuối năm 2008, thị trường giảm điểm và kéo dài đến đầu năm 2009. 12
  13. 1.3 Diễn biến thị trường chứng khoán 2009: Từ ngày 01/01/2009 đến 31/12/2009 VN-Index tăng thêm 171,96 điểm từ 312,49 điểm lên đến 494,77 điểm tương đương với mức tăng là 58%. Nếu tính từ đáy thấp nhất trong năm khi VN-Index ở mốc 234,66 điểm vào ngày 24/02/2009 và đỉnh cao nhất là 633,21 điểm vào ngày 23/10/2009 thì VN-Index đã tăng 2,69 lần. Tương tự ở sàn HNX mức tăng trưởng trong năm 2009 của HNX-Index là 60,9%; và nếu so từ đáy thấp nhất 78,06 điểm lên đỉnh cao nhất trong năm 218,38 điểm thì HNX-Index đã tăng 2,79 lần. Tính đến cuối năm 2009, đã có 541 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán và 4 chứng chỉ quỹ đại chúng niêm yết, với tổng giá trị niêm yết đạt 127,489 nghìn tỷ đồng, tăng 66,5 lần so với cuối năm 2005. Tổng giá trị vốn hóa thị trường tính từ thời điểm ngày 31/12/2009 ước đạt 620,551 nghìn tỷ đồng tương đương với gần 38% GDP cả năm 2009. 1.4 Diễn biến thị trường chứng khoán 2010: Sang đến năm 2010, xu hướng thị trường được chia làm 04 giai đoạn chính: − Giai đoạn 1 (từ 01/10-04/11): giảm nhẹ, đi ngang xen kẽ các đợt tăng nhẹ. TTCK mở cửa năm 2010, với liên tiếp các phiên giảm điểm ảnh hưởng bởi thông tin không chính thức từ việc tăng lãi suất cơ bản, VN-Index rơi mạnh từ 530 xuống còn 478 điểm. Tiếp đó, VN-Index tăng quay lại ngưỡng 530 do được hỗ trợ bởi thông tin lãi suất cơ bản vẫn được giữ ở mức 8% và việc phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu chính phủ tại thị trường Mỹ. Kỳ vọng về kết quả kinh quý I của các doanh nghiệp khiến VN-Index tăng nhẹ trở lại vào cuối tháng tư. − Giai đoạn 2 (từ 05/11-08/11): giảm, đi ngang và giảm mạnh. Đầu tháng 5, VN-Index đột ngột quay đầu giảm điểm do ảnh hưởng từ khủng khoảng nợ châu Âu lan rộng mà khơi ngòi là Hy Lạp. Tiếp đó, tin đồn về thông tư 13 ra đời đã kiến cho VN-Index tiếp tục rơi. Từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 7, VN-Index lình xình đi ngang, một phần bị ảnh hưởng lớn bởi số lượng cổ phiếu niêm yết bổ sung và niêm yết mới. Trong giai đoạn này có khoảng 3.058.308.677 cổ phiếu được đưa vào giao dịch chiếm khoảng 43% tổng số cổ phiếu niêm yết bổ sung và niêm yết mới năm 2010. Vào cuối tháng 7, VN-Index tiếp tục bị giáng một đòn khá mạnh từ thông tin chính phủ quyết định tái cơ cấu tập đoàn công 13
  14. nghiệp tàu thủy Vinashin. Với khoản nợ là 4,5 tỷ USD. Việc rơi tự do của VN-Index, còn được củng cố thêm bằng việc bán giải chấp của hầu hết các mã chứng khoán do dùng đòn bẩy tài chính. Cuối tháng 8, VN-Index tạo đáy tại vùng 420-424. − Giai đoạn 3: tăng nhẹ và đi ngang rồi giảm nhẹ. Sau một quá trình tăng mạnh ngắn ngủi, VN-Index có một khoảng đi ngang khá dài do không có tin tức vĩ mô gì đột biến hỗ trợ. Đồng thời, với lực cung cổ phiếu khá mạnh trong thời điểm từ đầu tháng 9 đến đầu tháng 11 (chỉ trong vòng 2 tháng đã có khoảng 1.830.529.826 cổ phiếu, chiếm khoảng 25% tổng số lượng cổ phiếu niêm yết mới và niêm yết bổ xung cả năm 2010) là một yếu tố cơ bản ngăn cản sự tăng giá của VN-Index. Giữa tháng 11, VN-Index giảm nhẹ do dòng tiền đã ra khỏi thị trường, để tìm kiếm lợi nhuận ở kênh đầu tư khác như vàng, USD. Đây là thời điểm vàng và USD tăng khá mạnh. − Giai đoạn 4: tăng trưởng bắt đầu cuối tháng 11 đến gần cuối năm. Sau một thời gian dài đi ngang và giảm vào cuối tháng 11, khi mà tất các các tin tức vĩ mô ảnh hưởng xấu đến thị trường đều đạt đến đỉnh điểm, như lãi suất cơ bản tăng từ 8% lên 9%, vàng và USD đều có một giai đoạn tăng nóng. Dòng tiền bắt đầu chảy vào chứng khoán khi nhận thấy kênh này có thể đem lại được lợi nhuận cao. Các cổ phiếu chứng khoán, tài chính, bất động sản lần lượt là điểm sáng kéo thị trường tăng mạnh từ 421 đến 495 vào thời điểm gần cuối năm. Tại thời điểm này thanh khoản của thị trường tăng mạnh, bình quân khoảng trên 100 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng mỗi phiên cho cả hai sàn. Tóm lại xu thế chủ đạo của năm 2010 là đi ngang và giảm mạnh. Thị trường đón nhận một khối lượng niêm yết mới và niêm yết bổ sung cổ phiếu kỷ lục. 1.5 Diễn biến thị trường chứng khoán năm 2011: Năm 2011 là một năm khá khó khăn của nền kinh tế Việt Nam và thế giới, nó đã tác động tiêu cực đến TTCK Việt Nam theo đó. Trong cả năm, thị trường chỉ có được hiếm hoi hai đợt phục hồi ngắn vào cuối tháng 5 và khoảng giữa tháng 8, toàn bộ khoảng thời gian còn lại thị trường chủ yếu đi xuống trong sự chán nản và mệt mỏi của các nhà đầu tư. Chốt phiên ngày 30/12/2011, VN Index và HNX Index lần lượt đóng cửa ở 351,55 và 58,74 điểm, như vậy so với đầu năm 2011 sàn Hồ Chí Minh đã giảm mạnh 27,46% còn sàn Hà Nội thì lao dốc đến hơn 48,6%. Thanh khoản của TTCK cũng giảm mạnh, so với 14
  15. con số của năm 2010 thì giá trị trung bình của mỗi phiên giao dịch của mỗi sàn đều sụt giảm mạnh đến xấp xỉ 60%. VN-Index và HNX-Index trong năm 2011 (Nguồn: VCBS tổng hợp) Phần đông các công ty chứng khoán (CTCK) gặp khó khăn và chịu thua lỗ trong năm 2011: cùng với sự sụt giảm cả về điểm số lẫn giá trị giao dịch của TTCK Việt Nam thì, theo thống kê chưa đầy đủ, trong năm 2011, số lượng công ty chứng khoán chịu thua lỗ chiếm ưu thế áp đảo. Trong số hiếm hoi những công ty có lợi nhuận thì các khoản này chủ yếu đến từ mảng kinh doanh khác ngoài dịch vụ môi giới cũng như tự doanh. Tính đến thời điểm hiện tại có khoảng 105 CTCK đang hoạt động thì hơn 80% con số này phải đối diện với Báo cáo tài chính lợi nhuận âm khi doanh thu sụt giảm trong khi chi phí lại đội lên cao. 1.400 tỷ đồng là số tiền mà 18/27 CTCK niêm yết ghi lỗ trong 09 tháng đầu năm 2011. Để tiếp tục tồn tại, một số công ty đã phải cắt giảm nhân sự thậm chí là loại bỏ một số nghiệp vụ, trong đó có môi giới cụ thể như trường hợp của CTCK SME, chứng khoán Gia Anh, chứng khoán Đông Dương, chứng khoán Hà Nội… và lấn sân sang lĩnh vực bất động sản, như CTCK Kim Long (KLS), CTCK Sài Gòn (SSI)… hoặc chuyển tiền gửi tiết kiệm ngân hàng. Các CTCK không kiểm soát chặt chẽ quy trình nội bộ và quản lý rủi ro, dẫn đến thời điểm thanh toán không chuyển đủ tiền thanh toán vào tài khoản. Điển hình cho hiện tượng này trong thời gian qua là vụ việc của CTCK SME, TAS. Bên cạnh đó hiện tượng cắt giảm nhân sự cũng diễn ra trên diện rộng. Với hơn 100 CTCK hoạt động 15
  16. trong khi thị trường diễn biến ảm đảm, thị phần của từng công ty bị thu hẹp lại, hoạt động môi giới, tư vấn trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Nhiều CTCK phải cắt giảm từ 15% - 20% nhân sự. Các doanh nghiệp niêm yết: năm 2011 vừa qua là một năm đầy khó khăn và thử thách với các doanh nghiệp, trong khi phải đối mặt với lạm phát cao khiến chi phí đầu vào tăng mạnh thì việc tiếp cận vốn vay cũng không dễ dàng khi mặt bằng lãi suất liên tục ở mức cao. Sự suy giảm của TTCK kéo theo hơn 50% số cổ phiếu niêm yết có thị giá rơi xuống dưới mệnh giá (10.000 đồng) và thấp hơn nhiều so với giá trị ghi sổ của doanh nghiệp. Kết thúc quý III/2011, theo báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết, có tới 14 doanh nghiệp có Tổng nợ/Tổng tài sản lớn hơn 90%, hơn 50 doanh nghiệp có hệ số nợ từ 80%-90%, hơn 80 doanh nghiệp từ 70%-80%. Đòn bẩy vốn của doanh nghiệp lên tới 9 lần. Mức đòn bẩy tài chính này kéo theo không ít rủi ro trong bối cảnh kinh tế khó khăn và nguồn lợi tạo ra từ vay nợ không đủ bù đắp chi phí vốn phải trả. Số dư hàng tồn kho cuối quý III/2011 của các doanh nghiệp niêm yết tăng hơn 30% so với cùng kỳ. 2. Nguyên nhân sụt giảm của thị trường chứng khoán 2011: 2.1 Kinh tế thế giới: Tình hình Nợ công tại Châu Âu tiếp tục căng thẳng mà vẫn chưa có giải pháp cụ thể, tăng trưởng của các nền kinh tế vẫn trì trệ, lòng tin của người dân giảm sút. Tương tự châu Âu, vấn đề trần nợ Mỹ cũng được ví như quả bom nổ chậm của kinh tế thế giới, quá trình thỏa hiệp chính trị giữa các Đảng phái trong Chính phủ liên bang Mỹ về cắt giảm chi tiêu diễn ra rất chậm chạp. Ngày 06/08/2011, Cơ quan đánh giá tín dụng quốc tế Standard & Poor tuyên bố hạ bậc xếp hạng tín dụng của Mỹ từ AAA xuống còn AA+ kèm theo đánh giá triển vọng tiêu cực. Đây là lần đầu tiên Mỹ mất xếp hạng AAA. Chính những yếu tố này đã tác động tiêu cực tới thị trường xuất khẩu Việt Nam và dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết, dòng vốn chảy vào TTCK Việt Nam. 2010 2011* 2012* Tăng trưởng GDP (%) Thế giới 5.2 3.9 3.8 Châu Á-Thái Bình Dương 8.4 6.3 6.5 Châu Á-Châu Đại Dương 2.6 1.8 3.3 16
  17. 2010 2011* 2012* Tăng trưởng GDP (%) 3.3 3.7 3.2 Đông Âu Mỹ La-tinh 6.1 4.5 4.0 Trung Đông và Châu Phi 4.7 4.4 4.3 3.0 1.6 1.8 Bắc Mỹ Đông Âu 2.3 1.9 0.7 Tăng trưởng kinh tế thế giới và các khu vực (Nguồn: IMF; *Số liệu dự báo được công bố vào tháng 12/2011) 2.2 Kinh tế trong nước: 2.2.1 Lạm phát: Trong năm 2011, lạm phát trung bình 12 tháng tăng 18,58% so với giai đoạn tương ứng của năm 2010 và 18,13% so với tháng 12/2010. Mức lạm phát tăng cao trong 04 tháng đầu năm, đỉnh điểm lên tới mức 3,32% trong tháng 4. Đây là hệ quả từ việc cung tiền những năm trước, tăng tỷ giá (ngày 11/02/2011 tăng 9,3%), giá nguyên vật liệu trong nước tăng (nguồn nguyên liệu Việt Nam đang phụ thuộc nhập khẩu quá nhiều), giá năng lượng tăng (xăng dầu, điện) dẫn đến giá hàng hoá các loại đồng loạt tăng theo. Từ tháng 5 trở đi, nhờ những nỗ lực ổn định hóa quyết liệt của Chính phủ, CPI đã liên tục giảm tốc và xuống dưới 1% kể từ tháng 08/2011. 2.2.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2011 tiếp tục suy giảm. Cụ thể nguồn vốn FDI năm 2011 đạt 14,7 tỷ USD, giảm 26% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó vốn đăng ký mới giảm tới 35% chỉ đạt 11,6 tỷ USD. Nguyên nhân giảm sút là do nền kinh tế thế giới còn chịu nhiều áp lực từ khủng hoảng nợ công tại Châu Âu, thiên tai và bất ổn chính trị tại nhiều nước. Tuy nhiên sự yếu kém nội tại của nền kinh tế Việt Nam với lạm phát cao, hiệu quả đầu tư của nền kinh tế thấp (chỉ số ICOR cao), hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình đốn cũng như các yếu tố nguồn lực hạn chế (như thiếu lao động có kỹ năng, thiếu điện, hạ tầng giao thông yếu kém) cũng là những yếu tố tác động tâm lý các nhà đầu tư nước ngoài. 2.2.3 Tỷ giá: Cuối năm 2010 căng thẳng tỷ giá đã diễn ra do tình trạng nhập siêu, dữ trữ ngoại hối sụt giảm mạnh, tín dụng ngoại tệ tăng cao dẫn đến sức ép tỷ giá và thị trường ngoại tệ đã 17
  18. tồn tại hai tỷ giá từ những tháng cuối năm 2010 tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do tăng mạnh và vượt xa khỏi tỷ giá chính thức 10% và dao động xung quanh mức 21.000 - 21.500. Để giải quyết vấn đề tỷ giá vào đầu tháng 2 (11/02/2011) Ngân hàng Nhà nước đã phá giá đồng nội tệ lên tới 9,3%, đây là lần phá giá cao nhất từ năm 2008 (Tỷ giá liên ngân hàng tăng từ 19.500->20.693 VND/USD) với mức điều chỉnh tăng giảm cho phép trong biên độ từ +-3% giảm xuống +/-1%. Ngay sau khi phá giá VND, tình hình kinh tế đã phản ứng khá mạnh, tỷ giá liên tục tăng. Tuy nhiên sau khi lập đỉnh vào ngày 19/04/2011, cùng với những biện pháp kiểm soát ngoại tệ như kết hối, thắt chặt tín dụng ngoại tệ nên tỷ giá đã được kiểm soát trong một thời gian dài từ tháng 5-10/2011. Tuy nhiên vào giữa tháng 08/2011 trước những biến động mạnh của thị trường vàng và việc nhập khẩu vàng nên tỷ giá đã có những biến động trở lại, tỷ giá trên thị trường tự do đã có lúc lên đến 21.900. Cụ thể, cán cân thanh toán tổng thể năm 2011 ước đạt khoảng 2,5 – 4,5 tỷ USD. 2.2.5 Giá vàng: Thị trường Vàng là một trong những kênh cạnh tranh vốn với TTCK, chính vì vậy những biến động trên thị trường vàng sẽ là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến TTCK. Năm 2011, trước những diễn biến phức tạp của khủng hoảng Nợ công thế giới như Ireland, Hy Lạp và Bồ Đào Nha, vàng đã được nhiều nhà đầu tư trên thế giới lựa chọn vàng là kênh trú ẩn an toàn. Giao dịch vàng trên thế giới tăng mạnh và đã đẩy giá vàng thế giới lên cao và lập kỷ lục ở mức $1.920/oz vào đầu tháng 9 sau đó giảm dần trong quý IV. Giá vàng trong nước cũng đã giao động với biên độ mạnh, tăng từ mức khoảng 37 triệu đồng/lượng lên tới mức cao nhất là 49 triệu đồng/lượng, sau đó giảm dần và đứng quanh mốc 44 triệu đồng/lượng vào thời điểm cuối năm 2011. 2.2.6 Chính sách tiền tệ: Trước áp lực lạm phát tăng cao, ngay từ đầu năm, Chính phủ đã ra Nghị quyết 11/NQ- CP, chính sách tiền tệ thắt chặt đã được thực hiện khá nhất quán trong suốt cả năm 2011. Về lãi suất điều hành, lãi suất cơ bản giữ nguyên ở mức 9% trong cả năm nhưng lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn đều đã được điều chỉnh tăng. Cụ thể, lãi suất tái chiết khấu đã được điều chỉnh tăng từ 7% lên mức 12% trong Quý I và lên mức 13% cho 18
  19. Quý III và IV, còn lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng từ mức 9% trong tháng 1 lên tới 15% từ Quý IV. Lãi suất cho vay VND bình quân thực tế khá cao, cụ thể, lãi suất cho vay nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu khoảng 17-19%/năm, lãi suất cho vay lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác khoảng 17-21%năm, lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất khoảng 22- 25%/năm. TTCK là nơi chịu những tác động trực tiếp từ chính sách tiền tệ thắt chặt, trong đó có tín dụng phi sản xuất kiểm soát dưới 16%. III. CÁC GIẢI PHÁP KIỆN TOÀN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI: 1. Chủ trương vực dậy thị trường chứng khoán tại Việt Nam trong thời gian tới: Năm 2011, TTCK Việt Nam đã hoạt động khó khăn để lại nhiều hệ lụy cho toàn hệ thống kinh tế, lượng cổ phiếu phát hành trong năm chỉ đạt 13.000 tỷ đồng, giảm 60% so với cùng kỳ, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ khi giá cổ phiếu dưới mệnh giá không thể phát hành được. Doanh nghiệp huy động vốn qua TTCK quá khó khăn, hàng loạt cổ phiếu trở nên “rẻ rúng”, mệnh giá chỉ dưới 10.000 đồng. Khoảng 67% doanh nghiệp niêm yết có thị giá thấp hơn giá trị sổ sách, 38% công ty niêm yết trên HOSE có thị giá dưới mệnh giá và trên HNX là 55%. Điều này khiến TTCK suy giảm mạnh và khó hồi phục nếu như không có chính sách, giải pháp hợp lý. Mặc dù TTCK đang có nhiều khó khăn, nhưng với vai trò là kênh dẫn vốn dài hạn quan trọng, nên cần thiết phải tiếp tục thúc đẩy phát triển. Chính vì vậy cuối năm 2011 đã có khá nhiều lời hứa từ phía lãnh đạo Bộ tài chính (BTC), Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Ủy ban chứng khoán (UBCK) về việc vực dậy TTCK trong năm 2012: − BTC đã có văn bản báo cáo tổng thể và có giải pháp thúc đẩy TTCK trình Chính phủ. Qua đó, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo BTC khẩn trương triển khai các giải pháp tái cấu trúc TTCK, để sớm đưa TTCK trở thành kênh huy động vốn chủ yếu cho nền kinh tế. − UBCK cho biết năm 2012 sẽ triển khai T+2 và đề xuất với NHNN về việc tách tín dụng chứng khoán ra khỏi nhóm phi sản xuất, để “cởi trói” dòng vốn chảy vào chứng khoán. − NHNN cho biết dòng vốn vào chứng khoán sắp tới sẽ vẫn phải kiểm soát nhưng hợp lý hơn. Bên cạnh đó, Thống đốc NHNN cũng cho biết sẽ khống chế tốc độ tăng trưởng của hệ thống ngân 19
  20. hàng, để hệ thống không hút hết tiền của nền kinh tế. Từ đó, lãi suất ngân hàng sẽ giảm, kéo theo lãi suất cho vay giảm. Trong thời gian tới, NHNN sẽ xác lập lại vị thế cân bằng giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn nhằm khôi phục TTCK. Trên cơ sở đó, trong thời gian gần đây các cơ quan quản lý Nhà nước đã có chủ trương và ban hành một số chính sách nhằm vực dậy lại TTCK như: − Năm 2011, BTC đã ban hành nhiều thông tư nhằm phát triển TTCK như Thông tư 74 cho phép margin, mở nhiều tài khoản, giao dịch cổ phiếu trong ngày; Thông tư 183 về quỹ mở; Thông tư 37 hướng dẫn thi hành Nghị định 85 về xử phạt vi phạm chứng khoán, quy trách nhiệm cụ thể đến từng cá nhân. − Kể từ ngày 01/04/2012, Thông tư số 226 chính thức có hiệu lực thi hành. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện việc quản lý, giám sát, tái cấu trúc các công ty chứng khoán trên cơ sở phân loại, xử lý theo các mức cảnh báo, kiểm soát, kiểm soát đặc biệt. Thậm chí nếu công ty chứng khoán không khắc phục được theo yêu cầu sẽ đình chỉ hoạt động. − BTC đang xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán theo hướng tập trung vào công tác quản trị, quản lý an toàn tài chính, hướng dẫn cụ thể về việc hợp nhất, sáp nhập, giải thể. Ngoài ra, sẽ tăng cường công tác giám sát đối với công ty chứng khoán thông qua việc ban hành quy định đánh giá xếp hạng, phân loại hoạt động theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, xây dựng hệ thống chấm điểm mức độ rủi ro và quy trình hoạt động của công ty chứng khoán để áp dụng cơ chế kiểm tra, giám sát theo mức độ rủi ro. − BTC và UBCK đã xây dựng Đề án tái cấu trúc TTCK. Đề án sẽ là cơ sở để BTC, UBCK thực hiện từng bước tái cấu trúc TTCK từ nay đến năm 2015 trên các lĩnh vực: cải cách cơ sở hàng hóa; tăng cường chất lượng nhà đầu tư; nâng cao hiệu quả của thị trường trái phiếu; tái cấu trúc tổ chức kinh doanh chứng khoán; tái cơ cấu Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm lưu ký chứng khoán tại Việt Nam. − Để hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn này, BTC hiện đang xây dựng giải pháp tháo gỡ tài chính và đã trình Chính phủ để giãn thuế cho doanh nghiệp. Tùy vào diễn biến năm 2012, BTC sẽ tiếp tục tham mưu về giãn và miễn thuế. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2