LUẬN VĂN: Thực trạng, giải pháp để phát triển và hoàn thiện hoạt động kiểm toán ở Việt Nam
lượt xem 39
download
Tính cấp thiết của đề tài: Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đă trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng quản lý của các doanh nghiệp. Hạch toán kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế, ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết cho các quyết định kinh tế. Nếu kế toán làm nhiệm vụ tổ chức thu thập, xử lý và cung cấp những thông tin, thì kiểm toán chính là...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Thực trạng, giải pháp để phát triển và hoàn thiện hoạt động kiểm toán ở Việt Nam
- A- LUẬN VĂN: Thực trạng, giải pháp để phát triển và hoàn thiện hoạt động kiểm toán ở Việt Nam
- Lời mở đầu Tính cấp thiết của đề tài: Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đă trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng quản lý của các doanh nghiệp. Hạch toán kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế, ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết cho các quyết định kinh tế. Nếu kế toán làm nhiệm vụ tổ chức thu thập, xử lý và cung cấp những thông tin, thì kiểm toán chính là sự xác nhận tính khách quan, tính chuẩn xác của thông tin. Và qua đó để hoàn thiện các quy trình quản lý, quy trình tổ chức thông tin, phục vụ có hiệu quả cho các đối tượng sử dụng thông tin kế toán.Trong nền kinh tế thị trường có nhiều hoạt động đa dạng và sôi động, do đó nhu cầu kiểm toán được nảy sinh và ngày càng phát triển. Năm 1986, Đảng và Nhà nước ta thực hiện đường lối đổi mới nhằm chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan, liêu bao cấp sang kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Đó là cơ sở dẫn tới sự ra đời của các công ty kiểm toán ở Việt Nam, cùng với sự tham gia trong một số lĩnh vực của các công ty kiểm toán hàng đầu thế giới vào những năm đầu thập kỷ 90. Từ đó hoạt động kiểm toán ở Việt Nam đã được hình thành và từng bước phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, kiểm toán ở nước ta cũng gặp phải không ít khó khăn trong quá trình hoạt -- động.Do đó việc nghiên cứu vấn đề “Thực trạng, giải pháp để phát triển và hoàn thiện hoạt động kiểm toán ở Việt Nam” là rất cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả trong quản lý kinh tế. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Đề tài này được nghiên cuéu trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng của hoạt động kiểm toán ở nước ta trong những năm gần đây. Bố cục của chuyên đề : Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên đề gồm hai phần : -Phần 1 : Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán
- -Phần 2 : Thực trạng và phương hướng hoàn thiện hoạt động kiểm toán ở Việt Nam hiện nay. Nội dung Phần 1 : Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán A - khái niệm về kiểm toán: Kiểm toán có nguồn gốc từ Latin là “Audit”. Nguyên bản “Auditing” gắn liền với nền văn minh Ai cập và La mã cổ đại. Từ “Auditing” có nguồn gốc từ động từ Latin “Audive”, nghĩa là “nghe”. Hình ảnh của kiểm toán cổ điển là việc kiểm tra về tài sản, phần lớn được thực hiện bằng cách người ghi chép đọc to lên cho một bên độc lập “nghe” rồi chấp nhận. Các tác giả Alvin A.Arens và James K.Loebbecker trong giáo trình “kiểm toán “ đã nêu một định nghĩa chung về kiểm toán như sau : “Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chưngs về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể, nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã ddược thiết lập”. Các thuật ngữ trong định nghĩa này được hiểu như sau: 1. Các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền: Các chuyên gia này có thể là kiểm toán viên độc lập, kiểm toán viên nội bộ hay kiểm toán viên Nhà nước. Tuy có những đặc đIúm khác nhau, song các kiểm toán viên phải là những người độc lập và có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm toán. Kiểm toán viên cần phải độc lập về kinh tế và độc lập về quan hệ tình cảm với lãnh đạo đơn vị đưọc kiểm toán.Tuy nhiên, tính độc lập không phải là khái
- niệm tuyệt đối, nhưng nó phải là mục tiêu hướng tới và phải đạt được ở mức độ nhất định nào đó. 2. Thu thập và đánh giá các bằng chứng: Bằng chứng được định nghĩa một cách chung nhất là mọi thông tin mà kiểm toán viên đã thu thập đẻe xác định các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị có được trình bày và báo cáo phù hợp với các chuẩn mực được xây dựng hay không.Quá trình kiểm toán thực chất là quá trình kiểm toán viên sử dụng các phương pháp, các kỹ thuật kiểm toán để thu thập và đánh giá các bằng chứng cho mục đích nói trên. 3. Các thông tin có thể định lượng : Các thông tin có thể định lượng của một đơn vị bao gồm nhiều dạng khác nhau.Những thông tin này có thể là các thông tin trong báo cáo tài chính của một doanh nghiệp, một đơn vị hành chính, sự nghiệp; lượng thời gian mà một công nhân cần để hoàn thành công việc được giao; tổng chi phí (giá trị quyết toán) một hợp đồng xây dựng củaNhà nước hay bản khai thuế của một hộ kinh oanh có thể phải tiến hành kiểm tra… 4. Các chuẩn mực đã được xây dựng và thiết lập: Các chuẩn mực này là cơ sở để đánh giá các thông tin. Các chuẩn mực này cũng rất phong phú, đa dạng tuỳ thuộc chức năng từng cuộc, từng loại kiểm toán. Thông thường các chuẩn mực này là các quy định trong các văn bản pháp luật về các lĩnh vực khác nhau; các tiêu chuẩn’ định mức; các chuẩn mực kế toán của mỗi quốc gia…Các chuẩn mực được chọn lựa và sử dụng tuỳ thuộc vào mục tiêu của cuộc kiểm toán. 5. Đơn vị được kiểm toán: Trong bất cứ cuộc kiểm toán nào, phạm vi trách nhiệm của kiểm toán viên cũng được xác định một cách rõ ràng, trước hết là đơn vị kiểm toán.Một đơn vi, một tổ chức kinh tế thường là một tổ chức pháp nhân, như một doanh nghiệp Nhà
- nước, mọtt công ty cổ phần, …Trong một só trường hợp cá biệt, đơn vị được xác định là một phân xưởng(đội, trạI sản xuất), một cửa hàng, thậm chí một cá nhân. 6. Báo cáo kết quả: Khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán là báo cáo kết quả của kiểm toán. Tuỳ thuộc vào loại kiểm toán, các báo cáo kiểm toán có thể khác nhau về bản chất, nhưng trong mọi trường hợp chúng đèu phải thông tin cho người đọc về mức độ tương quan và phù hợp giữa các thông tin có thể định lượng của một đơn vị và các chuẩn mực đã được xây dựng. Báo cáo kiểm toán cũng có thể khác nhau về hình thức và có thể thay đổi từ loại phức tạp (khi kiểm toán báo cáo tài chính) đến các báo cáo kết quả bằng miệng(trong trường hợp cuộc kiểm toán tiéen hành cho một người nào đó). Định nghĩa chung về kiểm toán có thể được tóm tắt bằng sơ đồ sau: Thu Các thông tin thập có thể định Báo Các và lượng của một cáo chuyên đánh đơn vị kết gia độc giá quả các Các chuẩn mực bằng đã được xây chứn dựng B - Phân loại kiểm toán: Có thể phân loại kiểm toán theo nhiều tiêu thức khác nhau.
- 1. Phân loại kiểm toán theo chức năng: Theo chức năng kiểm toán gồm 3 loại: Kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính. 1.1. Kiểm toán hoạt động (Operation Audit): Kiểm toán hoạt động là việc kiểm toán để đánh giá tính hữu hiệu (hiệu lực) và tính hiệu quả trong hoạt động của một bộ phận hay toàn bộ tổ chức, một đơn vị. - Tính hiệu lực là khả năng hoàn thành các mục tiêu hay nhiệm vụ được đề ra. - Tính hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Đối tượng của kiểm toán hoạt động rất đa dạng, từ việc đánh giá một phương án kinh doanh, một quy trình công nghệ, một loại tài sản thiết bị mới đưa vào hoạt động hay việc luân chuyển chứng từ trong một đơn vị…Vì thế, khó có thể đưa ra một khuôn mẫu cho loại kiểm toán này. Đồng thời, tính hiệu lực và hiệu quả của quá trình hoạt động rất khó được đánh giá một cách khách quan so với tính tuân thủ và tính trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính. Thay vào đó, việc xây dựng các chuẩn mực để đánh giá các thông tin có thể định lượng trong một cuộc kiểm toán hoạt động là một việc mang nặng tính chất chủ quan. Trong kiểm toán hoạt động, việc kiểm tra thường vượt ra khỏi phạm vi công tác kế toán –tàI chính mà liên quan đến nhiều lĩnh vực.Vì vậy, kiểm toán hoạt động sử dụng nhiều kỹ năng khác nhau: Kế toán, kinh tế, khoa học và kỹ thuật…Sản phẩm của kiểm toán hoạt động là một bản báo cáo ccho người quản lý về kết quả kiểm toán và những ý kiến đề xuát cải tiến hoạt động. 1.2. Kiểm toán tuân thủ (Compliance audit): Mục đích của kiểm toán tuân thủ là xem xét bên được kiểm toán có tuân thủ theo các thủ tục, các nguyên tắc, các quy chế mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc các cơ quan chức năng của nhà nước đã đề ra hay không.Kiểm toán tuân thủ, vì vậy còn có thể gọi là kiểm toán tính quy tắc.Các ví dụ về kiểm toán tuân thủ là:
- + Kiểm toán thế về việc tuân thủ các luật thuế ở các đơn vị. + Kiểm toán của các cơ quan chức năng của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị có sử dụng kinh phí của nhà nước về việc chấp hành các chính sách, các chế độ, các quy định về mặt pháp lý… +Kiểm toán việc chấp hành các đIều khoản của hợp đồng tín dụng đôia với các đơn vị sử dụng vốn vay của ngân hàng. v. v… 1.3. Kiểm toán các báo cáo tài chính (Audit of financial statement): Là việc kiểm toán để kiểm tra và xác nhận tính trung thục, hợp lý của báo cáo tài chính cũng như việc báo cáo tài chính có phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán dược thừa nhận rộng rãi hay không.Các báo cáo tài chính thường được kiểm toán nhiều nhất là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, kể cả các bản ghi chú, thuyết minh bổ sung báo cáo tài chính. Công việc kiểm toán báo cáo tài chính thường do các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp thực hiện để phục vụ cho các nhà quản lý, Chính Phủ, các ngân hàng và chủ đầu tư, cho người bán người mua… 2. Phân loại kiểm toán theo chủ thể kiểm toán: Căn cứ theo chủ thể kiểm toán có: Kiểm toán nội bộ, kiểm toán nhà nước và kiểm toán độc lập. 2.1. Kiểm toán nội bộ (Internal Audit): Là loại kiểm toán do các kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành Phạm vi của kiểm toán nội bộ xoay quanh việc “ kiểm tra và đánh giá tính hiệu lực và tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát noọi bộ cũng như chất lượng thi trong những trách nhiệm đươc giao”.
- Trên thực tế, phạm vi của kiểm toán nội bộ rất biến động và tuỳ thuộc vào quy mô, cơ cấu của doanh nghiệp cũng như yêu cầu của các nhà quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, thông thường kiểm toán nội bộ hoạt động trong một vàI lĩnh vực sau: + Rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan, giám sát sự hoạt động của các hệ thống này cũng như tham gia hoan thiện chúng. +Kiểm tra lại các thông tin tác nghiệp và thông tin tài chính, bao gồm việc soát xét lại các phương tiện đã sử dụng đế xác định, tính toán, phân loại và báo cáo những thông tin này, thẩm định cụ thể các khoản mục cá biệt (kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số dư và các công việc). +Kiểm tra tính kinh tế, tính hữu hiệu và hiệu quả của các hoạt động, kể cả các quy định không có tính tài chính của đơn vị. Như vậy, lĩnh vực chủ yếu của kiểm toán nội bộ là kiểm soát hoạt động để đánh giá tính kinhtế, tính hữu hiệu và hiệu quả hoạt động của các bộ phận trong đơn vị. Bên cạnh đó, các kiểm toán viên nội bộ cũng tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ để xem xét việc chấp hành các chính sách, quy định của đơn vị. Bộ phận kiểm toán nội bộ có thể chỉ gồm một vài người ở những đơn vị trung bình nhưng có thể leen tới hàng trăm người ở những công ty rất lớn.Bọ phận kiểm toán nội bộ thường được tổ chức trực thuộc và báo cáo trực tiếp cho giám đốc, các thành viên cao cấp khác của đơn vị để bảo đảm hoạt động được hữu hiệu.ở những công ty rất lớn, bộ phận kiểm toán nội bộ thậm chí còn trực thuộc Uỷ ban kiểm toán của hội đồng quản trị. Uỷ ban này bao gồm một số thành viên của Hội đồng quản trị nhưng không giữ chức vụ hay đảm trách công việc gì trong đơn vị.Tính chất độc lập giúp cho Uỷ ban kiểm toán thực hiện chức năng giám sát của mình đối với mọi hoatj động của đơn vị. Tuy được tổ chức độc lập với bộ phận được kiểm tra, nhưng kiểm toán nội bộ là một bộ phận của đơn vị nên không thể hoàn toàn độc lập với đơn vị được. Vì vậy, các báo cáo của kiểm toán nội bộ được chủ doanh nghiệp rất tin tưởng nhưng ít có giá trị pháp lý.
- 2.2. Kiểm toán Nhà nước (Government Audit): Là công viêc kiểm toán trong do các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước(tàichính, thuế, …) và cơ quan kiểm toán Nhà nước tiến hành theo luật định.Kiểm toán Nhà nước thường tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành các chính sách, luật lệ và chế độ của Nhà nước tạI các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí củaNhà nước (ngoàI ra, kiểm toán Nhà nước còn thựuc hiện kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá sự hữu hiệu và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của Nhà nước). Về mô hình tổ chức, cơ quan kiểm toán có thể trực thuộc Chính phủ (cơ quan hành pháp), Quốc hội (cơ quan lập pháp) hoặc Toà án (cơ quan tư pháp). Chẳng hạn, ở Mỹ, Văn phòng kế toán trưởng của Hoa kỳ (GAO) là một cơ quan trung lập trong ngành lập pháp của chinhs quyền Liên bang. Tổ chức GAO có nhiệm vụ báo cáo và chịu trách nhiệm trực tiếp với Quốc hội. Á Liên bang Đức, cơ quan kiểm toán nhà nước liên bang cũng như của các bang đều do Quốc hội liên bang hoặc bang lạap ra nhưng có vị trí độc lập đối với cả cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, do đó có vị trí khách quan trong việc kiểm tra, giám sát các đơn vị sử dụng nguồn vốn do ngân sách Nhà nước cấp. Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội lập ra nhưng không phụ thuộc vào Quốc hội. Quốc hội không có quyền ra lệnh cho kiểm toán, nhưng có thể yêu cầu kiểm toán tiến hành kiểm tra cơ quan Nhà nước nào xét thấy cần thiết. Trong khi đó, Toà thẩm kế Cộng hoà Pháp là một mô hình đặc biệt trong lĩnh vực kiểm toán Nhà nước. Toà này vừa thực hiện chức năng của cơ quan kiểm toán nhà nước là kiểm tra quyết toán ngân sách Nhà nước các cấp, đồng thời làm chức năng của một cơ quan xét xử như một toà án, không phụ thuộc vào cơ quan lập pháp cũng như cơ quan hành pháp.Toà thẩm kế pháp có quyền tiến hành kiểm tra tài khoản, chứng từ, sổ kế toán của tất cả cơ quan chính quyền Nhà nước (trừ tài khoản của Tổng thống, Quốc hội, Thượng viện và Uỷ ban tư pháp), các công sở quốc gia, các doanh nghiệp công, các tổ chức đảm bảo xã hội. Toà thẩm kế Pháp còn có quyền xét xử như một toà án. Bằng các phán quyết của mình, toà có thể quy kết trách nhiệm cá nhân và tiền bạc của kế toán viên công và các quỹ mà họ nắm giữ. Có thể ra lệnh cho họ lấy tiền túi ra đền cho các khoản chi trả không hợp lệ hay các khoản do thiếu trách nhiệm để thất thoát…
- 2.3. Kiểm toán độc lập (Independent Audit): Kiểm toán độc lập là loại kiểm toán được tiến hành bởi các kiểm toán viên độc lập thuộc các công ty, các văn phòng kiểm toán chuyên nghiệp. Kiểm toán độc lập là hoạt động dịch vụ tư vấn được pháp luật thừa nhận và bảo hộ, được quản lý chạt chẽ bởi các hiệp hội chuyên ngành về kiểm toán. Các kiểm toán viên độc lập là đội ngũ hành nghề chuyên nghiệp, có kỹ năng nghề nghiệp và đạo đức, phải trảI qua các kỳ thi quốc gia và phải đạt được những tiêu chuẩn nhất định về bằng câp và kinh nghiệm. Kiểm toán viên độc lập chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính. NgoàI ra tuỳ theo yêu cầu của khách hàng, kiểm toán viên độc lập còn có thể thực hiện kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ hoặc tiến hành các dịch vụ tư vấn tài chính – kế toán khác. ỏ các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, dịch vụ kiểm toán độc lập rất phổ biến, vì vậy khái niệm “ kiểm toán” thường được dùng như kiểm toán độc lập. Chẳng han, theo định nghĩa của Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) thì: “Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến mình về báo cáo tài chính”. ậ Mỹ, kiểm toán viên độc lập được gọi là kế toán viên công cộng và theo tiến sĩ Robert. N.Anthong, giáo sư trường ĐạI học Harvard thì: “ Kiểm toán là việc xem xét, kiểm tra các việc ghi chép kế toán bởi các kế toán viên công cộng (được thừa nhận, độc lập và ở bên ngoàI tổ chức được kiểm tra)”. C – khái quát về quá trình kiểm toán. Quá trình kiểm toán thường gồm ba giai đoạn: Lập kế hoạch kiểm toán, Thực hiện kiểm toán và Hoàn thành kiểm toán. 1. Lập kế hoạch kiểm toán: Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên cần thiết cho mọi cuộc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán bao gồm những nội dung chủ yếu sau: -Tập hợp những hiểu biết về hoạt động kinh doanh, hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng.
- -Xác định mức độ tin cậy dự kiến đối với hệ thống kiểm soát nội bộ. -Lập chương trình, xác định nội dung, thời gian và phạm vi của các phương pháp kế toán sẽ được thực thi. -Tổ chức phối hợp các bước công việctrong quá trình thực hiện kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán thích hợp sẽ giúp cho kiểm toán viên xác định được các vấn đề trọng tâm cần tâpj trung chú ý, những bộ phận có thể có rủi ro, những vấn đề cần được nhận biết để tránh sai sót và hoàn tất công việc nhanh chóng. Kế hoạch cũng giúp cho việc sử dụng các trợ lý một cách có hiệu quả, phối hợp ăn ý giữa những người tham gia kiểm toán và sử dụng có hiệu quả tư liệu của các chuyên gia hoặc kiểm toán viên khác. Phạm vi của kế hoạch tuỳ thuộc vào quy mô và mức độ phức tạp của cuộc kiểm toán, các kinh nghiệm kiểm toán lần trước của kiểm toán viên, cũng như các hiểu biết của kiểm toán viên về đặc thù hoạt động kinh doanh của khách hàng. Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán gồm các công việc sau: -Lập kế hoạch chiến lược (kế hoạch chung) -Lập kế hoạch chi tiết -Soạn thảo các chương trình kiểmtoán 2. Thực hiện kiểm toán: Thực chất giai đoạn này là kiểm toán viên áp dụng các phương pháp kiểm toán để thu thập, đánh giá các bằng chứng kiểm toán theo kế hoạch và chương trình kiểm toán đã vạch ra. Các bằng chứng kiểm toán thu thập đươc là cơ sở cho các ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về baó cáo tài chính của đơn vị. Trong quá trình triển khai kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải lưu ý đến các vấn đề sau: -Các điều khoản của hợp đồng kiểm toán và các trách nhiệm pháp lý có liên quan.
- -Nội dung, thời gian của báo cáo hoặc các truyền đạt khác cho khách hàng đã được dự kiến trước trong hợp đồng kiểm toán. -Chế độ kế toán mà khách hàng đang áp dụng và những thay đổi trong chế độ kế toán đó. -ảnh hưởng của các quy địng mới về kế toán và kiểm toán đối với công việc kiểm toán. -Xác định các trọng đIúm cần kiểm tra. -Xác định mức độ quan trọng của mục đích kiểm toán. -Độ tin cậy của kiểm toán viên đối với hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. -Bản chất, phạm vi các bằng chứng đã thu được. -Các tư liệu của kiểm toán viên nội bộ và phạm vi mà nó có thể liên quan đến kiểm toán. -Các tư liệu có liên quan của các kiểm toán viên khác về hoạt động của các chi nhánh, công ty con của doanh nghiệp. -ý kiến của các chuyên gia có liên quan. Thực hành kiểm toán thường được tiến hành theo hai bước: -Nghiên cứu, kiểm tra và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị bằng các bước kiểm toán tuân thủ. Kết quả của việc áp dụng phương pháp này là căn cứ để kiểm toán viên mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi các bước kiểm toán cơ bản. -Thực hiện các thử nghiệm cơ bản(các bước thử nghiệm theo số liệu-Substantive Procedure)và đánh giá kết quả.Các bước kiểm nghiệm cơ bản bao gồm thủ tục phân tích đánh giá tổng quát và việc thử nghiẹm để kiẻem tra chi tiết các nghiệp vụ và các số dư tài khoản.Các thử nghiệm cơ bản sẽ cung cấp những bằng chứng về sự trung thực và hợp lý của các số liệu theo báo cáo tài chính.
- 3. Hoàn thành kiểm toán: Trong giai đoạn hoàn tất cuộc kiểm toán, kiểm toán viên sẽ lập và phát hành báo cáo kiểm toán trong đó trình bầy các ý kiến của kiểm toán viên về các báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Trong cả ba giai đoạn của quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải dẫn chứng bằng tài liệu về quá trình làm việc của mình, cũng như các bằng chứng thu thập được để làm cơ sở cho tổ chức công tác kiểm toán và làm nền tảng pháp lý cho báo cáo kiểm toán. các tài liệu này gọi là hồ sơ kiểm toán(Audit Working Papers) và được lưu trữ ở tổ chức kiểm toán theo những quy định nghiêm ngặt.
- Phần 2: Thực trạng và phương hướng hoàn thiện hoạt động kiểm toán ở việt nam hiện nay B- Thực trạng hoạt động kiểm toán ở việt nam hiện nay 1. Kiểm toán Nhà nước (KTNN): Việc chuyển từ chế độ hành chính bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hưướng XHCN, một vấn đề nổi cộm lên là tình hình quản lý kinh tế tài chính bất cập ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt là công tác kế toán, vừa yếu vừa tuỳ tiện, tạo đIều kiện cho nạn tham nhũng phát triển. Trước tình hình đó để tăng cường sự kiểm tra tài chính nói chung, nhằm giảm bớt sự căng thẳng bội chi NSNN, ổn định và phát triển kinh tế, Chính phủ đã quan tâm xây dựng kiểm toán Việt nam. Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập theo Nghị Định số 70 / CP ngày 11 /7 /1994 của Chính Phủ và sau đó Quyết Định số 61 /TTg ngày 21 /1 /1995 của Thủ Tướng chính phủ ban hành đIũu lệ tổ chức và hoạt động của kiểm toán Nhà nước. Kiểm toán Nhà nước Việt Nam tuy còn non trẻ nhưng trải 5 năm, vừa xây dựng vừa thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, thông qua hoạt độnh đã tự khẳng định được vị trí trong kiểm tra tài chính công và đã chứng minh được tính tất yếu khách quan của kiểm toán Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới về kinh tế và tiến tơí xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Theo quy định hiện hành, KTNN Việt Nam là cơ quan trực thuộc Chính Phủ, có con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do NSNN cấp. KTNN thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các số liệu, tài liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các cơ quan sự nghiệp hành chính nhà nước, các chương trình, dự án Chính phủ, các tổ chức quần chúng, xã hội có sử dung kinh phí do NSNN cấp. KTNN thực hiện kiểm toán theo kế hoạch hàng năm được Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt và Quyết định của tổng KTNN. Kế hoạch và quyết định kiểm toán là pháp
- lệnh nên không cần đơn đặt hàng của đối tượng kiểm toán, không cần ký hợp đồng kinh tế và không được thu lệ phí của đơn vị. KTNN có trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán với Chính Phủ, Quốc Hội, UBTTQH khi có yêu cầu. Hệ thống tổ chức KTNN ở nước ta hiện nay có cơ quan KTNN ở TW (gồm các vụ KTNN chuyên ngành và văn phòng tổng KTNN) và các cơ quan KTNN khu vực và trực thuộc KTNN. Cơ quan KTNN ở TW chịu trách nhiệm kiểm toán tổng quyết toán NSNN, quyết toán ngân sách của các Bộ, các tỉnh, thành phố lớn, các doanh nghiệp Nhà nước quan trọng, các chương trình dự án trọng đIúm của Chính phủ và các đối tượng kiểm toán đặc biệt (an ninh, quốc phòng, dự trữ quốc gia, …). Các cơ quan KTNNkhu vực phía Bắc (Hà Nội), phía Nam (TP. HCM), miền Trung (TP. Đà Nẵng) chịu trách nhiệm kiểm toán quyết toán ngân sách của các tỉnh, các cơ quan đơn vị thuộc đối tượng KTNN do địa phương quản lý đóng trên địa bàn và một số đối tưoựng do tổng KTNN giao. Sau hơn 5 năm hoạt động, cơ quan KTNN đã không ngừng lớn mạnh. Tính đến hết năm 1999, KTNN đã thực hiện gần 3000 cuộc kiểm toán có quy mô lớn, nhỏ khác nhau tạI các cơ quan, đơn vị có sử dụng NSNN trên hầu hết các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước. Thông qua kết quả kiểm toán đã phát hiện và kiến nghị tăng thu, tiết kiệm cho NSNN hàng ngàn tỷ đồng; trong đó đáng kể nhất là kiến nghị truy thu thuế, các khoản chi sai chế độ, để ngoàI quyết toán ngân sách. Hoạt động KTNN trong những năm qua đã góp phần tăng cường đáng kể công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính công. Đã cung cấp cho các cơ quan quản lý Nhà nước các thông tin về tình trạng kinh doanh, thu-chi ngân sách và công tác quản lý đIũu hành NSNN của các cấp, các ngành. Kiến nghị nhiều giảI pháp nhằm xử lý các sai phạm được phát hiện trong quá trình kiểm toán để giúp Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan đIũu hành có hiệu quả các hoạt động quản lý của mình, góp phần ngăn chặn các tệ nạn về tham ô, lãng phí, thất thoát công quỹ và tài sản quốc gia, giúp cho Chính Phủ, Quốc Hội đưa ra các quyết định kịp thời trong việc lập lại kỷ cương trong hoạt động tài chính nói riêng, trong quản lý kihn tế nói chung. Tuy nhiên cần phải nhận thức rằng: những kết quả đạt được của KTNN so với yêu cầu của Quốc Hội, Chính phủ đặt ra và yêu vầu của nền kinh tế còn rất khiêm tốn. Nền kinh tế vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn thử thách, tệ nạn tham ô lãng phí, đục
- khoét tài sản công vẫn còn diễn ra có tính chất phổ biến và với một mức độ ngày càng nghiêm trọng. Các hoạt động kiểm tra tài chính đang đứng trước nhiều mâu thuẫn. Nừu tăng cường đồng loạt kiểm tra giám sát thường xuyên các loại hình kiểm tra như thanh tra Nhà nước, Thanh tra tài chính, Thanh tra thuế vào một đối tượng, …sẽ gây khó khăn cho các đơn vị trong nền kinh tế trên tất cả các khía cạnh: thời gian, chi phí, bí mật và uy tín của đơn vị. Trong khi kết quả kiểm tra chưa hẳn đáng tin cậy, đặc biệt không thể làm cơ sở để giảI toả trách nhiệm trong các mối quan hệ kinh tế được vì trách nhiệm về kinh tế trong các kết luận của cá loại hình kiểm tra này không được ghi rõ. Ngược lại nếu không kiểm tra thì các tệ nạn tiêu cực trên sẽ còn nghiêm trọng hơn rất nhiều. Mâu thuẫn này, về bản chất do sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, các chuẩn mực kiểm tra trước đây nhìn chung cần phải có sự điều chỉnh và cải cách lớn. Hoạt động kiểm toán Nhà nước xét cho cùng là loại hình duy nhất kiểm tra giám sát tài chính công một cách thường xuyên. Dù có hay không có sai phạm thì định kỳ các đơn vị Nhà nước cần phải được kiểm toán. Hơn nữa, kiểm toán không còn là sự kiểm tra thuần tuý mà là nhu cầu của các đơn vị để tạo niềm tin với các đối tác và giảI toả trách nhiệm cho các nhà quản lý đIều hành trước Quốc Hội và trước nhân dân. Rõ ràng Kiểm toán Nhà nước có một vai trò hết sức quan trọng đối với việc kiểm tra giám sát các hoạt động tài chính công trong giai đoạn kinh tế thị trường. Trên đây là những kết quả mà KTNN đạt được, những thách thức khó khăn đối với KTNN trong hoạt động, thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình. Chúng ta phải phát huy một cách tích cực những kết quả đó, đồng thời khắc phục những khó khăn, thách thức làm cho KTNN vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ của mình, đóng góp sức mình vào công cuộc đổi mới đất nước vì một nước Việt Nam phồn vinh và giàu đẹp. 2. Kiểm toán độc lập (KTĐL): Kiểm toán độc lập mới thực sự xuất hiện ở Việt Nam từ sau khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường. KTĐL ra đời, một mặt là do yêu cầu của hệ thống pháp luật có liên quan như: Luật ĐTNN, Luật DNNN, Luật công ty, …và mặt khác, để hoà nhập với hệ thống quốc tế. Xuất phát từ đòi hỏi khách quan đó, được sự đồng ý của Thủ Tướng Chính Phủ, Bộ tài Chính đã ký quyết định số 165-TC / QĐ /TCCB thành lập công ty
- Kiểm Toán Việt Nam với tên giao dịch VACO và quyết định số 164-TC/QĐ/TCCB thành lập công ty Dịch vụ kế toán Việt Nam với tên giao dịch ASC, sau này đổi tên là công ty Dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán-AASC(Quyết định 639- TC/TCCB ngày 14/9/1993). Theo số liệu năm 1997, ở Việt Nam chính thức đã có 13 công ty kiểm toán độc lập, cụ thể là : -Năm công ty là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ tài chính: +Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) +Công ty AASC +Công ty Kiểm toán và tư vấn (A&C) +Công ty tư vấn và kiểm toán Sài Gòn (AFC) +Công ty Kiểm toán Đà Nẵng(DAC) -Một công ty là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc UBND T.P Hồ Chí Minh: +Công ty Kiểm toán và dịch vụ tin học (AISC) -Một công ty TNHH trực thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh: +Công ty kiểm toán Hạ Long (HAACO) -Bốn công ty TNHH 100% vốn nước ngoài trực thuộc Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư: + Công ty Ernst &Young Việt Nam (E&Y) +Công ty Peat Marwick Việt Nam (KPMG) +Công ty Price &Water_House Việt Nam (PW) +Công ty Arthur Andersen Việt Nam (AA) -Hai công ty liên doanh TNHH có vốn ĐTNN trực thuộc Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư : +Công ty Kiểm toán Việt Nam-Deloitte Touch Touhmatsu (VACO-DTT)
- +Công ty Coopers &Lybrand-AISC Tất cả các công ty này đã nhanh chóng mở ra nhiều dịch vụ tài chính, không chỉ nghiệp vụ kế toán, giúp cho khách hàng có được sự lựa chọn ngày càng rộng rãi hơn như: Giám định kế toán tài chính, dánh giá tài sản và vốn góp, lập đò án cổ phần hoá doanh nghiệp, tư vấn tài chính, kế toán, thuế vụ, đào tạo bồi dương kiến thức quản trị- tàI chính-kế toán, … Sở dĩ KTĐL ở Việt Nam sớm trở thành một ngành nghề có ý nghĩa đặc biệt trong nền kinh tế, chính là nhờ sự tác động mạnh mẽ của chính phủ, Bộ tài chính và cơ quan chính quyền các cấp.Sự tác động đó không chỉ dừng lại ở việc đưa ra quy chế hoạt động kiểm toán, ban hành các văn bản pháp quy tạo nhu cầu kiểmtoán đối với một số loại doanh nghiệp, một số trường hợp phải có kiểm toán các báo cáo tài chính. Quan trọng hơn, sự tác động đó còn thể hiện ở chổ ngày càng có nhiều cơ quan nhà nước sử dụng kiểm toán như một coong cụ hữu hiệu trong việc quản lý nhà nước. Một điểm cần nhấn mạnh nữa là, sự hiện diện của các công ty kiểm toán độc lập nước ngoài tại Việt Nam là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy ngành kiểm toán Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong vài năm gần đây và sẽ còn phát triển vững chắc trong tương lai. Sự hiện diện này không những giúp cho các công ty kiểm toán độc lập trong nước có đIũu kiện tiếp cận để học hỏi kinh nghiệm, cạnh tranh vươn lên mà còn diễn ra những cuộc “ chuyển giao công nghệ kiểm toán” cho đội ngũ kiểm toán viên Việt Nam ngày càng có tay nghề cao hơn, vững chắc hơn. Chính vì vậy, các công ty Kiểm toán độc lập Việt Nam đã ngày càng đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ tài chính cung cấp cho nhiều dạng đối tượng khách hàng, từ các doanh nghiệp trong nước đến các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoàI, từ các cơ quan Nhà nước đến các tổ chức quốc tế và dự án nhận vốn tài trợ của SIDA, WB, EC, ADB, … Sau 7 năm hoạt động, khoảng 5000 bản báo cáo tài chính của DN có vốn đàu tư nước ngoàI và 1.500 bản báo cáo tài chính của các DN trong nước đã được kiểm toán.
- Các công ty kiểm toán cũng đã cung cấp trên 10 loại dịch vụ khác nhau, với khoảng 10.000 bản hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, KTĐL Việt Nam vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó khăn, trong đó có những khó khăn mà những người hoạt động trong ngành này chưa thể tự vượt qua được. Khó khăn lớn nhất vẫn là khung pháp lý cho hoạt động kiểm toán, bao gồm: - Thứ nhất, mặc dù đã có quy chế về KTĐL (Nghị định 07 / CP ngày29/1/1994), nhưng vẫn chưa xây dựng xong các chuẩn mực quốc gia. Vì vậy, nhiều công ty kiểm oán độc lập phải vận dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế, dù răng có nhiều đIểm không phù hợp với khung cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi. Từ đó đã dẫn tới: + Việc đánh giá chất lượng của một báo cáo kiểm toán vẫn còn nhiều căn cứ chung để làm thước đo. + Khi có những tranh chấp xảy ra, chúng ta cũng chưa có những cơ sở pháp lý giảI quyết các vấn đề thuộc trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên. Vãn còn lẫn lộn giữa trách nhiệm và quyền hạn giữa kiểm toán viên và nhân viên kiểm toán. Chẳng hạn, quy định: khi gây thiệt hạI cho khách hàng thì phải bồi thường, trách nhiệm này thuộc về kiểm toán viên hay nhân viên kiểm toán ? + Cũng chính vì thiếu hệ thống chuẩn mực này cho nên quan đIểm của các kiểm toán viên vẫn còn khoảng cách so với quan đIểm của công ty thuế vụ. Chính điều này đã khiến cho nhiều doanh nghiệp có vốn nước ngoài ngạc nhiên vì sao các báo cáo kết quả kiểm toán ít được cơ quan thuế thừa nhận, dẫn đến sự nghi ngờ chất lượng kiểm toán. -Thứ hai, về vấn đề tư cách pháp lý của các công ty KTĐL có hai điểm cần lưu ý xem xét:
- + Khá nhiều công ty KTĐL Việt Nam thuộc loại hình doanh nghiệp, Có cơ quan chủ quản là Bộ tài Chính đã khiến cho rất nhiều người băn khoăn, nghi ngờ về tính độc lập của những công ty này. + Theo các đạo luật về loại hình doanh nghiệp Việt Nam thì hầu hết các công ty KTĐL ở Việt Nam đều thuộc loại hình TNHH. Kể cả các công ty KTĐL ở nước ngoài đang thuộc loại công ty hợp doanh, chịu trách nhiệm vô hạn nhưng khi vào Việt Nam, theo luật ĐTNN, lại được thành lập doanh nghiệp theo loại hình công ty TNHH. ĐIều này cứ tiếp tục sẽ khiến cho những người sử dụng báo cáo kết quả kiểm toán nghi ngờ về khả năng bồi thường của công ty khi có sự cố xảy ra. -Thứ ba, chưa có quy định về việc xử lý đối với những đơn vị thuộc diện phải kiểm toán hàng năm nhưng không thực hiện kiểm toán. Đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đén tình trạng khá nhiều doanh nghiệp không thực hiện kiểm toán hàng năm nhưng cũng không ai biết và không ai xử lý. Bản thân những quy định hiện hành cũng chưa khẳng định nhiệm vụ bắt buộc này. ĐIều 4 của “ Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân “ ban hành kèm theo Nghị Định số 07 / CP đã quy định: “ Tổ chức kiểm toán độc lập là một DN (công ty kiểm toán hoặc văn phòng kiểm toán) được thành lập theo quy định hiện hành về các loại DN…”. TạI đIều 7 của Nghị Định này còn quy định: “ đối tượng có yêu cầu kiểm toán được tự do lựa chọn các tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động hợp pháp ở Việt Nam để ký hợp đồng kiểm toán “. Những quy định trên là phù hợp với quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nhưng nó không có ý nghĩa buộc các doanh nghiệp – “đối tượng yêu cầu kiểm toán” phải ký hợp đồng kiểm toán. -Thứ tư, giá phí kiểm toán hiện nay quá cao, đang là một trong những nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp Việt Nam “ né, tránh “ việc ký hợp đồng kiểm toán. ĐIều 22, quy chế về KTĐL trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị Định số 07 / CP giao cho Bộ tài chính “ Quy định khung giá phí kiểm toán để áp dụng thống nhất trong hoạt động kiểm toán”. Điều đó là không hợp lý vì các công ty kiểm toán hiện nay do Bộ tài chính quản lý. Do đó, Bộ tài chính quy định khung giá phí tức là “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Vì vậy, tại mục IV Thông tư 22 TC / CĐKT ngày 19 /3 /1994,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị bán hàng ở Công ty Thực phẩm Hà Nội
98 p | 929 | 210
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đối với tín dụng trung - dài hạn tại chi nhánh Ngân Hàng No&PTNT Đông Hà Nội
68 p | 399 | 171
-
luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng tại huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang
59 p | 553 | 166
-
Luận văn: " Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty XNK và kỹ thuật bao bì "
97 p | 305 | 115
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đấu thầu trong xây dựng cơ bản trong giai đoạn hiện nay
30 p | 255 | 72
-
Luận văn: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM NÔNG SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
41 p | 559 | 71
-
Luận văn - Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống phân phối tại công ty cổ phần vật tư BVTV Hoà Bình
62 p | 301 | 64
-
Luận văn: Thực trạng phát triển và một số giải pháp chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy trong giai đoạn hiện nay
70 p | 270 | 61
-
Luận văn: Thực trạng kinh doanh và giải pháp Marketing nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Thiết bị và phát triển chất lượng
66 p | 206 | 56
-
LUẬN VĂN: Thực trạng - Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Tổng công ty Thương mại Hà Nội trong bối cảnh kinh tế hiện nay
101 p | 152 | 41
-
Luận văn: Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện công tác đầu tư phát triển ngành chè Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
102 p | 152 | 39
-
Luận văn: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính BHXH tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
68 p | 133 | 28
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp triển khai công tác chi trả Bảo hiểm xã hội ở huyện Cẩm xuyên Hà Tĩnh giai đoạn 2000-2002
46 p | 188 | 23
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển nhà ở cho đối tượng thu nhập thấp tại Hà Nội trong 10 năm trở lại đây ( giai đoạn 19922002 )
115 p | 116 | 20
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam giai đoạn 2001-2005
73 p | 145 | 20
-
Luận văn: Thực trạng và các giải pháp hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh tại Công ty Bóng đèn Phích nước Rạng Đông
63 p | 109 | 19
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp bước đầu đánh giá tổng giá trị kinh tế của rừng Dẻ xã Hoàng Hoa Thám Chí Linh - Hải Dương cho việc hoạch định chính sách duy trì rừng Dẻ này trong giai đoạn hiện nay
81 p | 132 | 18
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp sử dụng hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách cho đầu tư phát triển trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh (tỉnh Hà trê địa thị (tỉ Tĩnh) giai đoạn 2000 - 2010
67 p | 121 | 11
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn