intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tiền tệ ngân hàng

Chia sẻ: Nguyễn Hoa | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

129
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn nhất là trong lĩnh vực kinh tế với chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN.Trong sự phát triển đó, NHTW đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế, điều tiết các mối quan hệ trong nền kinh tế, chống lạm phát, thiểu phát và các nhược điểm phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Một trong những công cụ được NHTW sử dụng nhiều nhất để thực hiện các chức năng của mình là công cụ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tiền tệ ngân hàng

  1. Luận văn tiền tệ ngân hàng
  2. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ................................ ................................ ................................ ...................... 3 Căn cứ vào loại hình tín dụng, lãi suất được chia làm các loại sau:................................... 3 Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất ..................................................................................... 4 Căn cứ vào cách đo lường lãi suất : ..................................................................................... 4 1. 3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế: ......................................................................... 4 1.3.2. Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp ....................................... 5 1.3.3. Là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế ....................................................................... 5 1.3.4. Là công cụ phân phối có hiệu quả nhằm khai thác và sử dụng triệt để các nguồn lực của nền kinh tế. .............................................................................................................. 5 1.3.5. Là công cụ đo lường nền kinh tế ................................................................................ 5 2.2.Chính sách điều hành lãi suất của NHTW mỹ................................................................ 9 2.1.2.Qúa trình điều chỉnh lãi suất ................................ ................................ ...................... 9 Ngu ồn: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/11/05/2108/ ............................... 10 Bảng 2: Diễn biến lãi suất chỉ đạo của FED trong năm 2004 -2006 ................................ .. 10 Ngu ồn: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/11/05/2108/ ............................... 11 Lãi suất thị trường ổn định và tiếp tục xu hướng giảm dần: ................................ ........... 11 Cơ chế điều hành lãi suất trước năm 1996 ........................................................................ 14 Điều hành lãi suất giai đoạn 1996-2000 ............................................................................. 15 Điều hành lãi suất từ sau năm 2000................................................................................... 16 Chính sách lãi suất bị động, đi sau diễn biến kinh tế vĩ mô.............................................. 20 Điều hành lãi suất quá dựa vào tín hiệu từ các doanh nghiệp.......................................... 20 3.4.Định hướng điều hành lãi suất ở Việt Nam ................................ ................................ .. 21 ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH TRONG THỜI GIAN TỚI ............................................ 22 4.1.Đối với NHTW các nước trên thế giới ......................................................................... 26
  3. LỜI NÓI ĐẦU Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn nhất là trong lĩnh vực kinh tế với chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN.Trong sự phát triển đó, NHTW đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế, điều tiết các mối quan hệ trong nền kinh tế, chống lạm phát, thiểu phát và các nhược điểm phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Một trong những công cụ được NHTW sử dụng nhiều nhất để thực hiện các chức năng của mình là công cụ lãi suất. Đây là m ột công cụ của chính sách tiền tệ được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm và được nhiều quốc gia sử dụng như một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Đồng thời, đây cũng được coi là một công cụ nhạy cảm nhất và là vấn đề nóng bỏng thu hút được nhiều sự quan tâm của các thành phần dân cư trong xã hội. Là một công cụ có vai trò quan trọng như vậy, nên lãi suất là một trong những biến số đ ược theo dõi một cách chặt chẽ vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi người dân và có những ảnh hưởng rất to lớn tới nền kinh tế. Nó tác động mạnh đến quyết định tiết kiệm hay chi tiêu dùng của người dân, đầu tư công nghệ hay giảm thiểu chi tiêu của Doanh nghiệp... đồng thời có thể ảnh hưởng đến rất nhiều thị trường trong nền kinh tế mà đặc biệt là thị trường chứng khoán. Trên thực tế, vào ngày 19-05- 2008 Ngân hàng Nhà nước ra quyết định tăng lãi suất cơ bản đồng thời huỷ bỏ mức lãi suất trần huy động vốn và khi quyết định này có hiệu lực th ì thị trường chứng khoán đã chao đảo mạnh vì các nhà đ ầu tư rút tiền khỏi thị trường chứng khoán và gửi vào ngân hàng. Đây là một cú sốc mạnh và thị trường vẫn chưa thể phục hồi tại thời điểm này. Trong từng thời kỳ nhất định, việc tìm ra và thi hành một chính sách lãi suất phù hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò quyết định thuộc về ngân hàng nhà nước. Cùng với sự thay đổi và phát triển không ngừng của nền kinh tế, chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương cũng thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với các tình hình mới của nền kinh tế, tạo điều kiện cho phát triển cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh tế khác 1.TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT 1.1.Khái niệm lãi suất Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan chặt chẽ đến các phạm trù kinh tế khác, phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể sử dụng vốn (người vay vốn) với chủ thể sở hữu vốn (người cho vay) theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn kèm theo lãi ở thị trường vốn ở một thời điểm nhất định. Nói cách khác, lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Lãi suất được sinh ra là bởi lẽ người đi vay đ ã sử dụng vốn đó để phục vụ các nhu cầu sinh lợi của mình (trong hoạt động sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng) trong khi người cho vay đã hi sinh quyền đó. Đánh đổi cho sự hi sinh quyền được sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của người cho vay chính là lãi suất. 1.2. Phân loại: Căn cứ vào loại hình tín dụng, lãi suất được chia làm các lo ại sau:
  4. 1.2.1 Lãi suất thương mại: áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. 1.2.2Lãi suất tín dụng ngân hàng: áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong hoạt động tái cấp vốn của NHTW cho các ngân hàng với nhau trên thị trường liên ngân hàng Lãi suất tiền gửi: là lãi suất được trả cho các khoản tiền gửi của người đi vay. Lãi suất tiền vay: Là lãi suất người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử dụng vốn vay của ngân hàng. Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng co khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hay các giấy tờ có giá trị khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỉ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá trị và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. Lãi suất tái triết khấu: áp d ụng khi Ngân hàng trung ương tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hay các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán cho các ngân hàng. Nó được tính bằng tỉ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi Ngân hàng Trung ương cấp vốn tiền vay cho Ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở ổn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản có thể do NHTW ấn định hoặc do bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt đọng của ngân hàng mình 1.2.3 Lãi su ất tín dụng Nhà nước: áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể kinh tế khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hay trái phiếu. Mức lãi suất có thể do nhà nước ấn đinh căn cứ vào lãi suất tiền gửi của ngân hàng, vào các yếu tố khác như: sự biến động của lạm phát, nhu cầu cấp thiết về vốn của Nhà nước hoặc được hình thành thông qua hoạt động đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Nhà nước. 1.2.4. Lãi suất tính dụng doanh nghiệp: áp dụng khi doanh nghiệp đi vay của các chủ thể kinh tế khác trong xã hội dưới hình thức phát hành trái phiếu Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất  Lãi suất danh nghĩa  Lãi suất thực tế Căn cứ vào cách đo lường lãi suất :  Lãi suất dơn  Lãi suất kép  Lãi suất hoàn vốn 1. 3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế: 1.3.1.Là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiết kiệm của các chủ thể kinh tế tạo nên quỹ cho vay phục vụ cho nhu cầu của nền
  5. kinh tế. Theo lý thuyết tài chính ta có phương trình về thu nhập như sau: Thu Nhập = Tiết Kiệm + Tiêu dùng Tuy nhiên, nâng lãi suất đến mức nào thì cần phải có sự tính toán lỹ lưỡng nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà của nền kinh tế. 1.3.2. Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp Chính sách lãi suất là một bộ phận trong chính sách tiền tệ của Nhà nước nhằm điều tiết lưu thông tiền tệ, kích thích và hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Lãi suất phải trả cho các khoản vay là chi phí của doanh nghiệp. Do vậy, lãi suất thấp sẽ khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất và ngược lại lãi suất cao sẽ khiến doanh nghiệp hạn chế vay vốn đầu tư. Lãi suất là công cụ của Nhà nước nhằm khuyến khích các Doanh nghiệp đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế thông qua các ưu đãi về lãi suất, về điều kiện cung cấp tín dụng và thời hạn thanh toán... 1.3.3. Là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế - Lãi suất thấp → kích thích đầu tư, kích thích tiêu dùng → tăng tổng cầu → sản lượng tăng, giá tăng, thất nghiệp giảm → đồng nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ. - Lãi suất cao → giảm thiểu đầu tư, hạn chế tiêu dùng → giảm tổng cầu → sản lượng giảm, giá giảm, thất nghiệp tăng → đồng nội tệ có xu hướng tăng so với ngoại tệ - N hư vậy bằng cách giảm lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện cho các ho ạt động kinh tế phát triển. Tương tự, Ngân hàng Nhà nước có thể tăng lãi suất khi muốn thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, giảm bớt lượng khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng. 1.3.4. Là công cụ phân phối có hiệu quả nhằm khai thác và sử dụng triệt để các nguồn lực của nền kinh tế. K hi Nhà nước muốn khuyến khích phát triển một ngành nghề quan trọng nào đó trong nền kinh tế, Nhà nước có thể thực hiện bằng cách ưu đãi về lãi suất cho vay (như giảm lãi suất cho vay...), và ngược lại khi muốn hạn chế phát triển của các ngành chưa cần thiết để dành nguồn lực cho các ngành khác thì Nhà nước có thể tăng lãi suất cho vay của ngành đó. Do đó chính sách lãi suất là một công cụ để phân phối cơ cấu của nền kinh tế nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực. 1.3.5. Là công cụ đo lường nền kinh tế Thực tế cho thấy, trong giai đoạn phát triển thì lãi suất thường có xu hướng tăng do cung cầu quỹ cho vay đều tăng, trong đó tốc độ tăng của cầu quỹ cho vay lớn hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược lại, trong giai đoạn suy thoái lãi suất thường có xu hướng giảm. Do đó khi nhìn vào sự biến động của lãi suất ta có thể thấy được tình trạng của nền kinh tế như tính sinh lời của các dự án đ ầu tư, m ức độ lạm phát, mức độ thiếu hụt ngân sách và qua đó còn có thể dự báo đ ược tình hình nền kinh tế trong tương lai 2.Chính sách điều hành lãi suất của một số nước trên thế giới
  6. 2.1.Chính sách điều hành lãi suất của NHTW các nước trong những năm gần đây N hìn lại hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của các nền kinh tế lớn trên thế giới giai đoạn 2001 đến nay, có thể nhận thấy hoạt động điều hành chính sách tiền tệ - trong đó chủ yếu là điều chỉnh chính sách lãi suất của các nền kinh tế lớn - đặc biệt là Mỹ gắn liền với tăng trưởng kinh tế, thương m ại và đ ầu tư của các nước, đồng thời mang tính chu kỳ tương đối rõ nét. Trong giai đo ạn năm 2001 - 2003, hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới đều áp dụng chính sách tài chính và tiền tệ nới lỏng nhằm kích cầu trong nước và ngăn chặn hiện tượng kinh tế suy giảm trên toàn cầu do tác động của khủng hoảng tài chính - tiền tệ những năm trước đó . Trong giai đoạn này, tăng trưởng của hầu hết các nước trên thế giới có xu hướng giảm sút so với trước đó - kể cả khối các nước phát triển và khối các nước đang phát triển. Thương mại quốc tế cũng có sự giảm sút mạnh mẽ. Đầu tư quốc tế trong giai đoạn này cũng có dấu hiệu suy giảm. Theo Ngân hàng Thế giới, dòng FDI đã giảm từ 818 tỷ USD năm 2001 xuống còn 681 tỷ USD năm 2002 và 580 tỷ USD năm 2003. Đ ể khắc phục tình trạng tăng trưởng kinh tế suy giảm và thương mại, đầu tư giảm sút, các nước, đặc biệt là các nước phát triển buộc phải lựa chọn giải pháp nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Đi đ ầu trong việc thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ nới lỏng giai đoạn 2001-2003 là Mỹ. Từ năm 2001 đến cuối năm 2003, để kích thích tăng trưởng, chống giảm phát, FED đã 13 lần cắt giảm lãi suất, đ ưa m ức lãi suất c ơ bản từ 6% năm 2001 xuống còn 1% (mức thấp kỷ lục kể từ năm 1958) vào 25-6-2003. Cũng theo chiều hướng này, từ 2001 đến tháng 6-2003, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) cũng đ ã 13 lần điều chỉnh chính sách lãi suất, đưa mức lãi suất của khu vực này xuống còn 2% - m ức thấp nhất kể từ sau Thế chiến II. V iệc Mỹ và EU cắt giảm lãi suất đã khiến hàng loạt các ngân hàng trung ương khác phải cắt giảm lãi suất theo. Trung Quốc cũng đã phải giảm lãi suất liên tục trong giai đoạn 1998-2003 nhằm kích cầu trong nước. Chính sách tiền tệ nới lỏng của các nước trong giai đoạn này đ ã góp phần thúc đ ẩy tăng trưởng kinh tế, hoạt động đầu tư và thương mại toàn cầu. Năm 2004, GDP thực tế to àn cầu đạt 5,3% -mức cao nhất trong vòng 20 năm trước đó. Tốc độ tăng thương mại toàn cầu cũng đạt mức 10,8%, cao hơn so với mức 5,5% của năm 2003 và mức 0,2% của năm 2001. Năm 2004, lượng vốn FDI của toàn thế giới đạt khoảng 612 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2003. Đây là năm đầu tiên FDI toàn cầu tăng so với năm trước sau khi đạt mức cao nhất vào năm 2000. Sau khoảng gần 3 năm áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng, cùng với sự phục hồi về kinh tế, đầu tư và thương mại, hầu hết các nước trên thế giới phải đối mặt
  7. với lạm phát leo thang mà biểu hiện là giá cả nguyên nhiên vật liệu, giá cả hàng tiêu dùng và lương thực thực phẩm đều tăng mạnh. Thêm vào đó, cuộc chiến Iraq và khủng hoảng dầu mỏ cũng làm cho mặt bằng giá thế giới tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của các nước đặc biệt là Mỹ trong giai đoạn 2003- 2005 có dấu hiệu tăng mạnh. Tốc độ tăng GDP thực tế của Mỹ năm 2005 là 3,1% trong khi CPI cùng năm lên tới 3,4%. Đứng trước nguy cơ lạm phát leo thang, từ giữa năm 2004 đến năm 2006, Mỹ và các nền kinh tế lớn bắt buộc phải chấm dứt chính sách tiền tệ nới lỏng và từng bước chuyển sang chu kỳ điều hành chính sách tiền tệ theo hướng bắt buộc hơn. Từ giữa năm 2004 đến hết năm 2006, FED đ ã liên tiếp 17 lần điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản đồng USD, đưa lãi suất cơ bản của đồng USD từ 1% lên 5,25% năm 2006 và tiếp tục duy trì trong nửa đầu năm 2007, tạo nên một làn sóng tăng lãi suất mạnh m ẽ ở hầu hết các nước trên thế giới. Cùng với Mỹ, trong giai đoạn này, ECB cũng đã 3 lần tăng lãi suất từ 2% lên 2,75%. Tuy chậm hơn, song từ năm 2006, làn sóng tăng lãi suất cũng đã lan tới châu Á với việc Ngân hàng Trung ương các nước H àn Quốc, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ liên tiếp tăng mạnh lãi suất vào năm 2006 nhằm kiềm chế lạm phát. Trong năm 2006, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc đã bất ngờ tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ của mình lên mức 4,25% - mức cao nhất trong vòng 3 năm qua nhằm bình ổn giá cả. Ngân hàng Trung ương Thái Lan cũng quyết định tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ của mình thêm 0,25% lên mức 5%. Tăng mạnh nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, Ngân hàng Trung ương nước này đã tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ của mình từ mức 13,25% lên mức 15% nhằm bình ổn thị trường sau khi lạm phát ở đây có dấu hiệu tăng mạnh và đồng Lira của Thổ Nhĩ Kỳ đang mất giá. N gay cả Nhật Bản, từ năm 2006 cũng đã hướng tới điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt khi tuyên b ố từ bỏ chính sách lãi suất bằng 0 kéo dài suốt giai đoạn 2001-2005. Từ năm 2006, Trung Quốc cũng bắt đầu thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, cụ thể là, từ 10/4/2006 đến nay, Trung Quốc đã liên tục tăng lãi suất cơ b ản và nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại. Từ tháng 4/2006, lãi suất cơ bản cho vay bằng đồng USD kỳ hạn 1 năm đ ã được điều chỉnh 3 lần, mỗi lần tăng 0,27% từ mức 5,13% lên mức 6,31%. Lãi suất tiền gửi bằng đồng NDT sau đó cũng đã được điều chỉnh 2 lần, từ mức 1,98% lên mức 2,25%. Trong năm 2006, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng đã liên tục đ ược điều chỉnh 3 lần, nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên 1,5% trong năm lên mức 9%. Năm 2007, Trung Quốc tiếp tục nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 12,5%. Chính sách tiền tệ thắt chặt được các nước áp dụng trong giai đoạn 2004- 2006 đã khiến tăng trưởng, lạm phát của các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản có chiều hướng chứng lại sau khi đã tăng đỉnh điểm vào năm 2004.
  8. Sau thời gian d ài liên tục áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm ngăn chặn tình trạng lạm phát leo thang, bước sang năm 2007, dường như m ọi dự báo của các tổ chức kinh tế quốc tế đều cho thấy, nền kinh tế thế giới có dấu hiệu tăng trưởng khả quan và các hoạt động kinh tế tài chính vĩ mô tương đối ổn định, lạm phát của các khối kinh tế lớn đã từng bước được kiểm soát. Tuy nhiên, đến giữa năm 2007, dấu hiệu nguy cơ khủng hoảng tín dụng của các khối kinh tế lớn bắt đầu xuất hiện. Đây được xem là một trong những hệ quả của việc tăng lãi suất liên tục của FED trong giai đoạn 2004-2006. K hởi đầu là tình trạng nợ xấu gia tăng trong lĩnh vực cho vay cầm cố ở Mỹ. Để khuyến khích người dân vay tiền mua nhà, trong suốt một thời gian dài, các tổ chức tín dụng đ ã áp dụng cơ chế cho vay linh hoạt mà không tính tới khả năng chi trả của khách hàng. Cụ thể là, các công ty địa ốc của Mỹ đã đưa ra những sản phẩm vay trả góp mới với lãi suất thả nổi. Rủi ro phát sinh khi FED liên tục tăng lãi suất cơ bản của đồng USD trong thời gian dài làm cho lãi suất cho vay cầm cố của Mỹ cũng tăng theo, dẫn đến người dân không thể trả nợ ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống tín dụng tăng cao và lên tới 300 tỷ USD. Nhiều tập đoàn, ngân hàng, quỹ đầu cơ, các nhà cho vay cầm cố lớn của Mỹ rơi vào tình trạng khó khăn. Khủng hoảng cho vay thế chấp của Mỹ nhanh chóng lan sang Anh và một số nước Châu Âu, ảnh hưởng sâu sắc tới thị trường tài chính thế giới, buộc các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới phải phối hợp để ngăn chặn. Chính sách tiền tệ nới lỏng được xem là một trong những phương thuốc hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng này, với các biện pháp cụ thể sau: Thứ nhất, hầu hết các ngân hàng trung ương lớn đã đều phải nhiều lần bơm tiền vào hệ thống tín dụng nhằm cứu vãn thị trường tài chính trước cơn bãokhủng hoảng thế chấp của Mỹ. Trong năm 2007. FED đã 3 lần b ơm tiền nhằm cứu vãn thị trường tiền tệ. Lần thứ nhất là 88 tỷ USD tiền mặt để hỗ trợ các ngân hàng; lần thứ hai là 3,5 tỷ USD vào cuối tháng 8-2007; lần thứ ba là 20 tỷ USD vào tháng 12-2007. N gân hàng Trung ương Anh (ECB) cũng đã phải bơm tiếp 14,3 tỷ USD. Trước tác động lan tỏa của khủng hoảng tín dụng Mỹ, ECB cũng ngay lập tức quyết định rót 94,8 tỷ Euro vào Quỹ hỗ trợ khẩn cấp các thị trường và bơm tiếp 61,05 tỷ Euro vào hệ thống ngân hàng. Đến cuối tháng 12-2007, trước ảnh hưởng lan rộng của khủng hoảng tín dụng ở Mỹ, ECB cũng đã tuyên bố sẽ chi 500 tỷ USD cho các ngân hàng khu vực với lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường. Theo thông báo của ECB, hiện đã có tới 390 ngân hàng yêu cầu vay kho ản vốn hỗ trợ từ ECB. N gân hàng Trung ương Nhật Bản cũng đã phải bơm 8,4 tỷ USD vào thị trường tiền tệ khi mối lo về khủng hoảng vay thế chấp của Mỹ làm ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán nước này.
  9. N gân hàng Dự trữ Australia đã bơm 4,19 tỷ USD vào hệ thống tiền tệ trong nước. Thứ hai, hàng loạt ngân hàng trung ương các nước - đặc biệt là các nước phát triển đồng loạt thực hiện chính sách cắt giảm lãi suất - mở ra một chu kỳ điều hành lãi suất mới. Từ tháng 9-1997 đ ến hết tháng 1-2008, FED đ ã 5 lần cắt giảm lãi suất, đưa mức lãi suất cơ bản từ 5,25% xuống còn 3%. Đồng thời với việc cắt giảm lãi suất cơ b ản, FED cũng tiến hành cắt giảm lãi suất chiết khấu từ mức 6,25% xuống còn 5,75%. Tiếp sau Mỹ, ngân hàng trung ương Canađa cũng thực hiện cắt giảm lãi suất cơ bản 0,25% xuống còn 4,25% vào ngày 4/12/2007. 2.2.Chính sách điều hành lãi suất của NHTW mỹ 2.1.1.Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ H ệ thống dự trữ liên bang (viết tắt là FED – Federal Reserve System) là một tổ chức nhà nước của Mỹ, chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ của nước này trong quá trình cung ứng tiền tệ. FED ra đời dựa trên Luật dự trữ liên bang năm 1913, nhằm điều tiết những mục tiêu về tối đa việc làm, ổn định giá cả và điều chỉnh lãi suất dài hạn. Cấu trúc chính thức của Hệ thống dự trữ liên bang là nhằm phân rộng quyền lực theo vùng lãnh thổ, giữa khu vực tư nhân và nhà nước; giữa các ngân hàng, giới kinh doanh và công chúng. 2.1.2.Qúa trình điều chỉnh lãi suất Từ 2001 đến hết tháng 1-2008, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã 35 lần điều chỉnh lãi suất, trong đó, mỗi đợt tăng giảm lãi suất cơ bản đều có quan hệ chặt chẽ với những biến động của kinh tế toàn cầu và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của các nước trên thế giới. Q ua Biểu đồ 1, ta thấy sự tăng/giảm của lãi suất chủ đạo mà FED điều chỉnh tác động vào giá trị đồng đôla từ đó để thực thi chính sách điều hành nền kinh tế của mình.
  10. N guồn: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/11/05/2108/ Cùng với sự thăng trầm của lãi suất, diễn biến của đồng USD trong thời gian qua vô cùng phức tạp. Từ năm 2001, lãi suất chủ đạo của nền kinh tế Mỹ bắt đầu giảm mạnh và giữ mức 1-2% từ 6 tháng cuối năm 2001 đến cuối năm 2003. N guồn: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/11/05/2108/ Cuối quý I.2005 sau khi FED tiếp tục nâng lãi suất đồng USD lên 0,25%, đạt mức mới là 2,75% vào ngày 22.3.2005. Kết quả là đồng USD đã liên tiếp tăng giá tới 4% so với đồng Euro, bảng Anh, đồng Y ên Nhật. Đ ầu năm 2005 với chính sách một đồng đôla mạnh, nổ lực tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ, thắt chặt ngân sách và việc tăng lãi suất. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2005, đồng USD đã tăng giá tới 13% so với đồng Euro, 7,5% so với đồng bảng Anh và đồng Y ên Nhật. Lý do đầu tiên cho cuộc phục hồi này là do FED liên tục tăng lãi suất. Đến thời điểm bây giờ, tổng cộng FED đ ã tiến hành 17 lần tăng lãi suất chủ đạo. Bảng 2: Diễn biến lãi suất chỉ đạo của FED trong năm 2004-2006
  11. N guồn: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/11/05/2108/ 3.Chính sách điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương việt nam 3.1.Thực trạng lãi suất ở Việt Nam trong những năm gần đây Lãi suất thị trường ổn định và tiếp tục xu hướng giảm dần: - Thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay đang phải đối mặt với áp lực lạm phát và với sức phục hồi nền kinh tế còn thiếu vững chắc: Mặc dù tăng trưởng kinh tế quí I/2010 đạt 5,83%, cao hơn nhiều mức tăng trưởng quí I/2009, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 26,23%, cao hơn rất nhiều mức tăng 9% của quý I/2009, song nhập siêu vẫn ở mức đáng lo ngại (xuất khẩu đạt 14 tỷ USD, nhập khẩu đạt 17,5 tỷ USD, nhập siêu đạt 3,5 tỷ USD), lạm phát tuy vẫn trong tầm kiểm soát nhưng đang có xu hướng tăng trở lại. - Cho đến thời điểm hiện nay, có thể thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đặc biệt trong việc ứng dụng các công nghệ ngân hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao: Xét trong hệ thống các tổ chức tín dụng với 73 ngân hàng và 08 tổ chức tín dụng phi ngân hàng chỉ có một số ít các ngân hàng thương mại có vốn điều lệ và tài sản có lớn. Riêng khối NHTM nhà nước (3 NHTM nhà nước, 2 NHTM m à trong đó Nhà nước chiếm cổ phần chi phối, 1 Ngân hàng Chính sách xã hội) vốn điều lệ đã chiếm 27,28% tổng vốn điều lệ của cả khối, thị phần huy động vốn và cung cấp tín d ụng khoảng 60%; mức chênh lệch trong chiếm lĩnh thị phần của một ngân hàng lớn nhất với một ngân hàng lớn kế tiếp là tương đ ối lớn. Mức độ lớn về vốn điều lệ và tài sản có quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Đối với những ngân hàng có vốn nhỏ vẫn có sức mạnh trong cạnh tranh thị trường, song với một cấu trúc thị trường có
  12. tồn tại nhiều các NHTM có vốn và thị phần thấp thường nảy sinh những hành vi hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, đối với nhóm ngân hàng lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ thống, những hành vi chi phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới tác động tổng thể của chính sách NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng. Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm 2008 và những biểu hiện của thị trường những tháng đầu năm 2010 là sự biểu hiện rõ nét của tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh. Khi NHNN thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi suất cho vay rất cao, khoảng 18%. Mức lãi suất này đ ã hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM (mức tăng trưởng tín dụng quí I chỉ đạt 3,34%). Trong quí I/2010, tăng trưởng tín dụng không cao, nguồn vốn vay của các NHTM từ NHNN để đáp ứng thanh khoản tăng lên, điều đó cho thấy vốn của các NHTM là không khan hiếm. Do vậy, với mức lãi suất huy động mà NHNN đã khuyến cáo các NHTM cần thực hiện theo thỏa thuận của Hiệp hội Ngân hàng là 10,5% và lạm phát mục tiêu của Chính phủ là 7% thì đã đảm bảo một mức lãi suất thực hợp lý cho người gửi tiền, nhưng phản ứng của các NHTM là vẫn đua nhau tăng mức lãi suất huy động cao hơn dưới nhiều hình thức. Những hiện tượng này biểu hiện sự bất cập lớn của thị trường, nếu không có những biện pháp ngăn chặn sẽ gây ra những bất ổn của hệ thống ngân hàng, từ đó có thể gây ra khủng hoảng ngân hàng. Trong cấu trúc thị trường hiện nay, còn có một đặc điểm ảnh hưởng không nhỏ đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng áp dụng mức lãi suất chính sách là không nhỏ. Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa... Các chính sách ưu đ ãi này là cần thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế hiện nay, nhưng ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó. - Các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo “bầy đàn” - là đ ặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của Việt Nam hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ - một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột. - Về lý thuyết, khi cân nhắc lợi ích thu được từ các quyết định đầu tư, kinh doanh, các chủ thể trong nền kinh tế thường sẽ quan tâm đến mức lãi suất thực mà mình được nhận được là bao nhiêu. Nhìn vào thực tế của Việt Nam, hiện tại, mức lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung
  13. bình trong 3 tháng đầu năm 2010 khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình thức khuyến mại khác. Tuy nhiên, lãi suất thực đang có xu hướng giảm xuống bắt đầu từ tháng 2 do ảnh hưởng của tốc độ gia tăng CPI. Và trong trường hợp này, thường để theo đuổi mục tiêu lãi suất thực dương thì lãi suất danh nghĩa sẽ đ ược tăng dần lên. Như vậy có nghĩa là các NHTM sẽ vẫn có thể tăng lãi suất huy động để cạnh tranh thu hút vốn nếu như NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động vào thời điểm này. Hơn nữa, với xu hướng này, một tín hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát. Mặt khác, xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay, các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương đối cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả ước lượng mô hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo phương pháp OLS (41 quan sát từ quý I/2000 đến tháng 3/2010 với mức ý nghĩa 10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm 0,04% so với quý trước. Điều này là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về mối quan hệ ngược chiều giữa lãi suất, đầu tư và tổng sản lượng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, ngoài lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế, vì vậy, mức độ biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động của tăng trưởng kinh tế. - Là một nền kinh tế đôla hóa, lãi suất đồng nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có m ối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi suất đồng ngoại tệ cộng với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ của các thành viên trong thị trường, điều này sẽ gây ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền đồng cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá nổi lên như một điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng hàng loạt các chính sách khác (như yêu cầu các tổng công ty lớn bán ngoại tệ cho NHNN, điều chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, qui định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp...) đã phải hướng tới sự ổn định này. Theo báo cáo của NHNN, trong tháng 5/2010, lãi suất cho vay ngắn hạn VND của nhóm các NHTM Nhà nước ở mức 13 -14%/năm; trung và dài hạn ở mức 13,5-14,5%/năm; lãi suất cho vay ngắn hạn VND của nhóm các NHTM cổ phần là 14 – 14,5%/năm; trung và dài hạn ở mức 14,5 -15,5%/năm; riêng đối với cho vay sản xuất nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu mức lãi suất thấp hơn từ 0,5- 1 %/năm. Đ ể có được những kết quả này, trong những tháng đầu năm 2010, NHNN đã rất chủ động, khẩn trương và quyết liệt triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm ổn định lãi suất thị trường như: Yêu cầu các TCTD không được huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng vượt quá 20% tổng huy động vốn trên thị trường tín dụng; thực hiện mua vào trên 1 tỉ đô la Mỹ từ tháng 4/2010 để tăng cường cho quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia và tạo thanh khoản cho thị trường; tiếp tục hỗ trợ
  14. thanh khoản thông qua nghiệp vụ thị trường mở, SWAPS ngoại tệ, tái cấp vốn…cho các TCTD để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng; yêu cầu các TCTD báo cáo về lãi suất huy động và dư nợ cho vay ngo ại tệ cũng như đưa ra cảnh báo sẽ thanh tra các TCTD có lãi suất huy động vượt quá 12%/năm; phối hợp với Hiệp hội ngân hàng và chỉ đạo các NHTM nhà nước tiếp tục nâng cao vị thế và giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn, từng bước điều chỉnh giảm dần mặt bằng lãi suất cho phù hợp với diễn biến kinh tế và quy luật thị trường… Chính những động thái điều hành chính sách tiền tệ cương quyết, linh hoạt và đúng hướng đã đóng góp quan trọng vào việc ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô . Theo thống kê, tăng trưởng kinh tế quý 1 đạt 5,83% (dự báo 6 tháng tăng trưởng trên 6%), tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 26,2%; CPI 5 tháng tăng 4,55% so với 31/12/2009 và tăng 8,76% so 5 tháng cùng kỳ năm 2009. Đ ến nay, tăng trưởng tín dụng đ ã lấy lại nhịp độ bình thường: tháng 1 tăng 0,26%; tháng 2 tăng 2,09%, tháng 3 tăng 2,26%, tháng 4 tăng 1,64%, tháng 5 tăng 1,7%. Mặc dù nhiều ý kiến cho rằng 6 tháng đầu năm tăng trưởng tín dụng đạt thấp so với chỉ tiêu định hướng cả năm là 25% nhưng trước bối cảnh hiện nay của kinh tế trong nước và quốc tế, mức tăng trưởng tín dụng dự kiến 10 ,52% trong 6 tháng đầu năm là tương đối hợp lý. Cũng trong tháng 5/2010, Kho bạc Nhà nước đã tổ chức thành công 3 phiên phát hành trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn từ 3 - 5 năm, huy động được 8.125 tỉ đồng, lãi suất 10,9%/năm trong đó đối tượng mua trái phiếu Chính phủ phần lớn là các TCTD. Đây là những tín hiệu tích cực chuẩn bị cho việc hạ dần lãi suất, bởi trái phiếu Chính phủ là chứng từ có giá để TCTD thế chấp vay vốn từ NHNN với lãi suất 7%-8%/năm, kỳ hạn 7 -28 ngày. Từ đó, các TCTD sẽ cân đối nguồn vốn để hạ lãi suất huy động, kéo lãi suất cho vay đi xuống. Theo ý kiến của hầu hết các chuyên gia kinh tế, lãi suất, tín dụng ngân hàng hiện đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các TCTD và doanh nghiệp hiện nay; chính vì vậy, việc Chính phủ chỉ đạo hệ thống ngân hàng tiếp tục hạ thấp mặt bằng lãi suất nhằm giúp doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và những dấu hiệu tích cực về việc lãi suất tín dụng tiếp tục xu hướng giảm có được từ cam kết đồng thuận của các TCTD đã tạo kỳ vọng và động lực đáng kể cho nền kinh tế. Dự báo, lãi suất từ nay tới cuối năm lãi suất sẽ tiếp tục giảm hơn nữa. 3.2.Qúa trình điều chỉnh lãi suất trong những năm gần đây Cơ chế lãi suất của Việt Nam dần dịch chuyển từ kế hoạch hóa tập trung, tách biệt với mặt bằng lãi suất của kinh tế thế giới sang điều chỉnh linh hoạt, từng bước tự do hóa, hội nhập với hệ thống tài chính toàn cầu. Thời gian qua, cơ chế điều hành lãi suất đã có những thay đổi căn bản, nhất là từ khi hệ thống ngân hàng hai cấp được thiết lập(1). C ơ chế điều hành lãi su ất trước năm 1996
  15. NHTW can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định mức lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay. Cơ chế lãi suất âm và mang nặng tính chất bao cấp được duy trì suốt thời kì này với mức lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước thấp hơn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh NHTW đ ã có nhiều bước điều chỉnh trong điều hành chính sách lãi suất: chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực d ương, xóa bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế, thay vì ấn định mức lãi suất cụ thể bằng quản lí lãi suất theo một khung bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay. Bắt đầu từ tháng 10/1993 trần lãi suất cho vay có hai loại (1,8%/tháng đối với DNNN và 2,1%/tháng cho kinh tế ngoài quốc doanh) và NHNH cho phép NHTM đư ợc thỏa thuận lãi suất với khách hàng (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kì phiếu – lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/tháng Đ iều hành lãi suất giai đoạn 1996-2000 Trần lãi suất được điều hành linh hoạt trong thời kỳ từ năm 1996 đến tháng 7-2000. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã bước đầu thực hiện tự do hóa lãi suất huy động. Thay thế cho khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi và tối đa về tiền vay, NHNN chỉ quy định các mức lãi suất "trần" theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy động vốn bình quân ở mức 0,35%/tháng (tương đương 4,2%/năm). Quy định này nhằm khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn do b iến động kinh tế khu vực và thế giới. Tới cuối tháng 1 -1998, quy định chênh lệch lãi suất được xóa bỏ, chỉ giữ lại quy định trần lãi suất cho vay. Song hành với việc nới lỏng kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm ngưỡng trần và mức khống chế, đặc biệt trong hai năm 1998-1999. Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung – cầu vốn trên thị trường và thực hiện giải pháp kích cầu của Chính phủ. Lãi suất tái cấp vốn năm 1997 là 1,1%/tháng, giảm xuống còn 0,7%/tháng kể từ ngày 4-9-1999. Các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu giấy tờ có giá cho ngân hàng thương mại cũng được đưa vào sử dụng để bổ sung thêm công cụ điều chỉnh lãi suất. Lãi suất tái chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn 0,05%/tháng so với lãi suất tái cấp vốn. Từ tháng 7-2000, nghiệp vụ thị trường mở được áp dụng với lãi suất hình thành qua các phiên giao dịch. Trong một thời gian dài, từ cuối những năm 80 cho tới năm 2000, cơ chế lãi suất của Việt Nam luôn cố gắng duy trì mức lãi suất thực dương – như một giải pháp cho vấn đề lạm phát. Mục tiêu kiểm soát lạm phát đ ã đạt được. Thậm chí, có những thời điểm còn xuất hiện thiểu phát. Nếu chia lãi suất dương cho tỷ lệ
  16. lạm phát thì tỷ lệ này rất cao… Năm 1999 là 5.350% và năm 2000 là trên 6.000% (2). Lãi suất cao, trong tương quan với các nền kinh tế khu vực, là cơ hội tốt đầu tư vào trái phiếu Việt Nam trong thời kỳ này. Cơ chế điều hành lãi suất với một mức cơ bản kèm biên độ dao động đ ược NHNN áp dụng kể từ tháng 8-2000 thay cho cơ chế lãi suất trần. Hai chỉ tiêu này được công bố chính thức định kỳ hàng tháng và điều chỉnh kịp thời trong trường hợp cần thiết. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung – cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Đây là nền tảng cho việc xác định điểm cân bằng tỷ giá theo cách tính sức mua tương đương (PPP), từ đó, hình thành một cơ chế tự điều chỉnh. Đ iều hành lãi suất từ sau năm 2000 Đ ến tháng 5-2001, NHNN từng bước chuyển sang áp dụng hình thức cho vay bằng ngoại tệ. Và kể từ sau tháng 5-2002, cơ chế lãi suất thỏa thuận được áp dụng trong hoạt động tín dụng. Trước sự vận động bất lợi của thị trường chứng khoán và lạm phát tăng cao ngay từ đầu năm 2008, NHNN thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, sử dụng đồng thời các công cụ lãi suất và hoạt động thị trường mở. Công cụ lãi suất được phát huy tối đa, liên tục có điều chỉnh và triển khai quyết liệt. Từ giữa tháng 1- 2008, dự trữ bắt buộc đã tăng thêm 1% với tiền gửi nội tệ và ngoại tệ từ không kỳ hạn tới dưới 12 tháng. Lãi suất tái cấp vốn cũng tăng gấp hai lần trong kho ảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 6-2008. Mức lãi suất chiết khấu so với cuối năm 2007 tăng thêm 8,5%, ở mức 13%/năm kể từ 10-6 -2008. Thời điểm này, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 14%/năm. Với quy chế điều hành là cho phép tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% lãi suất cơ b ản, trần lãi suất cho vay lên tới 21%/năm. Đặc điểm đáng chú ý trong giai đo ạn các ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản này là lãi suất huy động ngắn hạn bằng, thậm chí cao hơn lãi suất huy động dài hạn. N ăm 2008 chứng kiến sự biến động mạnh của lãi suất với sự điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và uyển chuyển của NHNN. Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện theo cả hai hướng mở rộng và thắt chặt tiền tệ đã không tạo tác động đáng kể nào tới lãi suất. Trong tuần thứ ba của tháng 2-2008, NHNN bổ sung 33.000 tỉ đồng vào lưu thông nhưng các ngân hàng thương mại vẫn tiếp tục tăng lãi suất huy động tiền gửi. Tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (SHB), lãi suất huy động điều chỉnh 3 lần chỉ trong vòng 10 ngày và tăng lên 12,5%/năm với kỳ hạn 1 tháng. Thông báo phát hành 20.300 tỉ đồng tín phiếu bắt buộc được đ ưa ra vào giữa tháng 2-2008 và thực hiện một tháng sau đó. Trong bối cảnh mặt bằng lãi suất đang đi lên, rất khó xác định ảnh hưởng của nghiệp vụ này tới lãi suất. Trong tháng 6-2008, lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại tiến gần tới trần lãi suất cho vay. Ngày 30 -6-2008, Ngân hàng
  17. Kiên Long áp dụng lãi suất huy động tiền đồng cao kỷ lục là 20%/năm cho khách hàng gửi tiền kỳ hạn 12 tháng. Hiệu lực không thật rõ ràng của các nghiệp vụ thị trường mở vào thời kỳ lạm phát gia tăng là tín hiệu sự tồn tại bẫy thanh kho ản trong hệ thống tín dụng, tại thời điểm đó. Nếu đúng vậy, điều chỉnh tăng dần các công cụ lãi suất là giải pháp hợp lý và sớm mang lại kết quả bình ổn thị trường tiền tệ. Cuối tháng 6-2008, 2 tỉ đồng trái phiếu chính phủ kỳ hạn 2 năm với lãi suất 11%/năm đã đ ược huy động thành công(3). Mặc dù khối lượng không lớn nhưng dấu hiệu này gợi mở khả năng tiếp tục duy trì các chính sách tiền tệ – tài chính vĩ mô. Lưu ý rằng, chỉ hai tuần trước đó, phiên đấu thầu hai loại trái phiếu chính phủ ngày 13-6-2008 có kỳ hạn 2 năm và 3 năm đ ã không thu hút được bất kỳ thành viên nào tham gia. Trên thị trường, có tổ chức tài chính sẵn sàng chuyển nhượng lượng trái phiếu đang sở hữu với mức chiết khấu lên tới 40% mệnh giá, nhưng vẫn không tìm được đối tác quan tâm. So với giai đoạn khủng hoảng tiền tệ khu vực 1997-1998, chính sách tiền tệ của Việt Nam trong năm 2008 sử dụng nhiều công cụ hơn và cường độ điều chỉnh dồn dập hơn. Nhằm hỗ trợ các đ ơn vị kinh doanh vượt qua khó khăn trong bối cảnh khủng hoảng tài chính khu vực, chính sách tiền tệ được mở rộng trong các năm từ 1997 đến 1999. Với mức lãi suất thực dương, các liệu pháp tiền tệ đã phát huy tác động ổn định kinh tế vĩ mô. Chi phí lãi vay cao kết hợp với tăng giá đầu vào tạo ra áp lực lớn với sự vận hành sản xuất, kinh doanh trong năm 2008. Chấp nhận chi phí đầu vào tăng cao, hạn chế mở rộng tín dụng là những dấu hiệu cho thấy hệ thống ngân hàng thương m ại cũng gặp khó khăn với vấn đề thanh khoản. Điều này có thể là kết quả của những khoản tín dụng chất lượng thấp đã cung cấp trong thời gian trước, với tỷ lệ không nhỏ dành cho các d ự án bất động sản và đầu tư tài chính. 3.3.Thành tựu và những tồn tại trong qúa trình điều chỉnh lãi suất 3.3.1.Thành tựu: V ào năm 1999 với việc áp dụng công cụ trần lãi suất cho vay thay vì khống chế lãi suất cho vay của các NHTM là cơ sở để các tổ chức tin dụng tăng lãi suất huy động vốn, tạo đ iều kiện cho việc huy động đủ vốn nhằm đáp ứng các yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội, đồng thời phù hợp với quan hệ cung - cầu về vốn tín dụng đối với nền kinh tế. Sau này, với việc từ bỏ lãi suất trần huy động vốn và áp dụng mức lãi suất cơ bản đã tạo ra một mặt bằng lãi suất ổn định trên thị trường, giúp ngăn ngừa những biến động lớn trên thị trường tiền tệ và tín dụng. Nó là cơ sở để các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh của mình và đưa hoạt động tín dụng đi theo đúng khuôn khổ pháp luật. Nó cũng giúp chấm dứt cuộc đua lãi suất giữa các NHTM d iễn ra gay gắt trong thời gian trước đó. Ngoài ra, cơ chế này còn giúp xua đi những tín hiệu xấu về tình hình tài chính cảu các NHTM và phản
  18. của các NH này. ánh tình hình tài chính N hìn lại năm 2009, khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã đặt hệ thống ngân hàng Việt Nam đứng trước một năm đầy khó khăn và thách thức. Trên cơ sở bám sát chỉ đạo, điều hành của Chính phủ cùng với sự nỗ lực của toàn ngành, hoạt động ngân hàng năm 2009 đã đ ạt được nhiều kết quả tích cực. Trong đó, nổi bật là việc triển khai kịp thời cơ chế hỗ trợ lãi suất, điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) trong năm 2009 đã có sự ổn định tương đối so với năm 2008. Tuy nhiên, trên thực tế, những biến động và căng thẳng trên thị trường tiền tệ vẫn còn tồn tại, ở một số thời điểm, đã có những ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp và tâm lý của người dân trong nền kinh tế, đồng thời cũng đặt ra những thách thức đối với hoạt động của ngành Ngân hàng trong năm 2010. Một trong những vấn đề của năm 2009, mặc dù đã có những giải đáp cụ thể về chính sách điều hành, song, trong những tháng đầu năm 2010, vẫn nổi lên những vấn đề tranh luận xoay quanh việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN, đặc biệt là việc dỡ bỏ trần lãi suất huy động có được thực hiện hay không đã gây ảnh hưởng không tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Chính sách lãi suất là một trong những công cụ chính của chính sách tiền tệ. Tuỳ thuộc vào từng mục tiêu của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp, nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả nguồn vốn trong nền kinh tế. các Đ ầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đ ã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ -NHNN về việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định, Ngân hàng Nhà nước sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng. Các ngân hàng thương mại đối mặt với khó khăn thiếu hụt nguồn cung tiền đồng sau những quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Tình trạng thiếu hụt tiền đồng của các ngân hàng thể hiện qua việc lãi suất cho vay qua đ êm của các ngân hàng trong vòng một tháng qua đã có lúc lên tới 30%. Điều này đã đẩy các ngân hàng đến chỗ đua nhau tăng lãi suất huy động. Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ -NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế
  19. cuộc đua này. Đến ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ- cũng không còn hiệu lực. NHNN ngày 26/02/2008 Q ua đó, đã ngăn chặn đ ược nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục đ ược tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định. Biện pháp điều hành lãi suất đ ã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước, đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một, cách thận trọng. V iệc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước q uan tâm, theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết tế vĩ mô. kinh 3 .3.2.Hạn chế: Đ iều hành lãi suất là một hành động quan trọng của ngân hàng trung ương đối với ổn định và tăng trưởng kinh tế. Mặc dù có những thành công trong việc điều hành hệ thống ngân hàng đem lại tăng trưởng và ổ n định cho nền kinh tế,
  20. cách thức điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vẫn cho thấy một vài điểm chưa hoàn thiện. N gười ta luôn chứng kiến trong vài năm gần đây tình trạng lúc thừa, lúc thiếu thanh khoản, hay tình trạng căng thẳng trong lãi suất trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Một trong những lý do giải thích những hiện tượng đó, có thể, bắt nguồn từ cách tiếp cận không hợp lý trong việc ra quyết định lãi suất của NHNN. C hính sách lãi suất bị động, đi sau diễn biến kinh tế vĩ mô Tại sao Việt Nam lại phải liên tục chứng kiến những biến động trái triều trong lãi suất và thanh khoản của hệ thống ngân hàng nhiều như vậy? Có lẽ hiện tượng này bắt nguồn từ cách điều hành lãi suất thường chậm so với diễn biến thực tế. Một đặc trưng hay yêu cầu cơ bản của điều hành chính sách tiền tệ chính là tính chất đi trước, dẫn dắt, và đ ịnh hướng. Trong khi đó, ở V iệt Nam người ta dễ dàng nhận thấy hiện tượng chính sách chỉ đ ược đề ra khi mà có quá nhiều phàn nàn từ thực tế, hoặc bản thân các nhà làm chính sách không thể không nhận thấy sức ép quá lớn từ thực tế. Và họ nhận thấy không làm sẽ phải đối mặt với những hậu quả to lớn và hết sức nghiêm trọng. Chính đặc trưng ra quyết định chính sách như thế làm cho kinh tế vĩ mô luôn bị biến động. Và khi kinh tế vĩ mô biến động thì việc ra quyết định chính sách vẫn theo nếp chậm cũ, chờ tới khi ai cũng thấy sức ép lớn mới tiến hành lại càng làm cho sự biến động trở nên rất khó lường. N ăm 2008, sau nhiều tháng các ngân hàng lâm vào tình trạng thiếu thanh kho ản nặng nề, NHNN mới chấp nhận nâng lãi suất cơ bản (lên 14%). V à trong năm 2009, hết quý III thì các chỉ số kinh tế trong nước đã cho thấy sự phục hồi khá chắc chắn sau chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ. Đặc biệt, những số liệu về việc làm đ ã cho thấy tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam đã thuyên giảm. Biến công việc làm (thất nghiệp) là biến đ ược xem là chậm nhất trong kinh tế. Khi biến này đã thay đổi tích cực thì đó chính là thời điểm phải rút bớt các chính sách kinh tế. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ lãi suất đã đ ược bãi bỏ quá chậm. Đ iều hành lãi suất quá dựa vào tín hiệu từ các doanh nghiệp D ường như, việc ra quyết định về lãi suất của NHNN Việt Nam là luôn chậm vì không chú trọng đủ mức vào những dấu hiệu vĩ mô phản ánh khuynh hướng của nền kinh tế.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2