intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tốt nghiệp: Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:33

123
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vốn luôn được coi là một trong những nhân tố quyết định trong quá trình phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, vấn đề tạo nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả đang đặt ra một cách cấp thiết đối với các cấp, các ngành, từ trung ương tới các địa phương. Có rất nhiều con đường để tạo lập nguồn vốn, nhưng song với điều kiện nước ta hiện nay, thị trường chứng khoán mới thành lập...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM ở Việt Nam hiện nay

  1. Luận văn Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM ở Việt Nam hiện nay 1
  2. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Nội dung bài viết: Phần I : Lý luận chung về tín dụng ngân hàng thương mại. I - Tín dụng và các loại tín dụng. 1 - Khái niệm 2 - Đặc điểm 3 - Sự cần thiết khách quan của quan hệ tín dụng. 4 - Chức năng và vai trò của tín dụng. 5 - Các loại tín dụng. II - Ngân hàng thương mại và vai trò của tín dụng. 1 - Ngân hàng thương mại 2 - Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng. 3 - Hiệu quả và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTM. Phần II : Thực trạng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. I - Tổng quan về hệ thống Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. II - Thực trạng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. 1 - Thực trạng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại. 1.1- Quy mô và cơ cấu tín dụng. 1.2- Chất lượng hoạt động tín dụng. 2 - Những vấn đề tồn tại cần khắc phục. Phần III : Một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. I - Giải mở rộng hoạt động tín dụng. II - Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng. III - Những kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan hữu quan. KẾT LUẬN Tài liệu tham khảo. 2
  3. LỜI NÓI ĐẦU Vốn luôn được coi là một trong những nhân tố quyết định trong quá trình phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, vấn đề tạo nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả đang đặt ra một cách cấp thiết đối với các cấp, các ngành, từ trung ương tới các địa phương. Có rất nhiều con đường để tạo lập nguồn vốn, nhưng song với điều kiện nước ta hiện nay, thị trường chứng khoán mới thành lập chưa phát huy được vai trò của mình thì hệ thống NHTM đóng vai trò chủ chốt để tập trung, huy động và điều hòa vốn giúp cho việc khai thác, sử dụng nguồn vốn có hiệu quả nhất. Tuy hình thành chưa lâu, nhưng việc huy động vốn của hệ thống NHTM trong dân cư đã đạt được những thành quả nhất định. Các ngân hàng đã không ngừng mở rộng huy động vốn và tiến hành cho vay, đầu tư, cung cấp một lượng vốn lớn cho công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, do còn thiếu kinh nghiệm nên hiệu quả quả hoạt động tín dụng của các NHTM còn chưa cao : số vốn huy động còn thấp và sử dụng chưa có hiệu quả, tỷ lệ nợ quá hạn cao là mối nguy hiểm cho các ngân hàng, vốn ứ đọng trong khi nhu cầu về vốn của nền kinh tế là rất lớn. Vì vậy để có cái nhìn toàn diện hơn về hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM đồng thời có thể tìm ra một giải pháp cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM, em đã chọn đề tài : “ Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM ở Việt Nam hiện nay. PHẦN I LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. I - TÍN DỤNG VÀ CÁC LOẠI TÍN DỤNG. 1- Khái niệm. Tín dụng là là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu (gọi là người cho vay) sang người sử dụng (gọi là người đi vay) để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. 3
  4. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì tín dụng là sự vay mượn giữa hai chủ thể (người đi vay và người cho vay) trong đó hai bên thoả thuận một thời hạn nợ và mức lãi cụ thể. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì tín dụng là sự vận động của các nguồn vốn từ nời thừa tới nơi thiếu. Trong thực tế, tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng. Nhưng dù ở bất cứ dạng nào, tín dụng cũng luôn là các quan hệ kinh tế của nền sản xuất hàng hoá. Tính chất của tín dụng do mục đích và tính chất của nền sản xuất hàng hoá trong xã hội quyết định. Sự vận động của tín dụng luôn chịu sự chiphối của các quy luật kinh tế của phương thức sản xuất trong xã hội đó, 2 . Đặc điểm. Quan hệ tín dụng được xây dựng trên 3 nguyên tắc: có thời hạn, có hoàn trả và có đền bù. Mặc dù hình thức biểu hiện của tín dụng là sự di chuyển vốn vay từ người cho và sang người đi vay song về thực chất chỉ có sự di chuyển của quyền sử dụng vốn, còn quyền sở hữu vốn vẫn thuộc về người cho vay. Đó là do tính đặc thù của quan hệ tín dụng là có hoàn trả sau một thời gian nhất định. Và vì vậy mà trong quan hệ tín dụng, quyền sử dụng và quyền sở hữu vốn vay tách rời nhau. Khi quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn bị tách rời như vậy (do vốn được chuyển giao trong quá trình cho vay) thì mối quan tâm lớn nhất trong quan hệ tín dụng là vốn vay có quay trở lại người cho vay sau khi thời hạn tín dụng đã hết hay không ? Chính vì vậy mà quan hệ tín dụng chỉ có thể hình thành trên cơ sở lòng tin hay sự tín nhiệm của người cho vay về khả năng hoàn tả nợ đúng hạn. Sự tin tưởng này được tạo bởi các yếu tố như : tư cách người đi vay, tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh cho khoản vay, tính hiệu quả có khả năng mang lại trong tương lai của dự án xin vay. 3 . Sự cần thiết khách quan của quan hệ tín dụng. Để thấy rõ sự cần thiết khách quan của quan hệ tín dụng, trong phần tiếp theo chúng ta tìm hiểu xem tại sao nền kinh tế lại có nhu cầu vay vốn và tìm ở đâu nguồn vốn nhàn rỗi để đáp ứng cho nhu cầu đó. 3.1 . Nhu cầu về vốn vay của nền kinh tế. 4
  5. Nhu cầu về vốn vay xuất hiện trước tiên trong quá trình sản xuất kinh doanh. Do đặc điểm vốn tự có thường không đủ nên doanh nghiệp thường phải vay thêm vốn để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với các hộ gia đình, những nhu cầu chi tiêu lớn vượt quá khả năng thu nhập hiện tại (ví dụ mua nhà, xe hơi) hoặc những chi tiêu bất thường cũng làm nảy sinh nhu cầu vay mượn. Nhà nước và các chính quyền địa phương nhiều khi cũng có những khoản tiền lớn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá, trường học, bệnh viện . . . hoặc để khắc phục thiên tai, bù đắp bội chi ngân sách cũng phải vay mượn. 3.2 . Nguồn vốn cho vay. a) Từ nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi xuất hiện trong quá trình tái sản xuất. Trong quá trình tái sản xuất, có những doanh nghiệp thừa vốn một cách tương đối : Do đặc điểm của quá trình chu chuyển vốn cố định, giá trị TSCĐ thường không được chuyển hết và chi phí sản xuất trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh mà được khấu hao dần dần. Quá trình khấu hao tạo nên một số tiền tạm thời nhàn rỗi trong quỹ khấu hao. Do quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn lưu động có những khi doanh nghiệp đã bán được hàng, thu được tiền những chưa phải dự trữ nguyên vật liệu hay chưa phải trả lương cho cán bộ công nhân viên do đó có một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi trong quỹ tiền mặt hoặc quỹ lương của doanh nghiệp. Cuối cùng là lợi nhuận được tích luỹ lại trong quỹ tích luỹ của doanh nghiệp để mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng chưa dùng đến. b) Từ nguồn tiền nhàn rỗi thu được dưới dạng tiền gửi tiết kiệm của mọi tầng lớp trong xã hội. Nguồn tiền nhàn rỗi này hình thành từ khoản tiết kiệm được trích ra từ thu nhập của người dân và được xem là bộ phận quan trọng nhất trong vốn tín dụng của một quốc gia. 5
  6. Trong hai nguồn vốn cung trên thì nguồn vốn từ sản xuất kinh doanh thường tạo ra cung vốn ngắn hạn. Còn vốn từ tiết kiệm tạo ra cung vốn dài hạn cho nền kinh tế. 4 . Chức năng và vai trò của tín dụng. 4.1. Chức năng Tín dụng có ba chức năng cơ bản sau: a) Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hoàn trả. Tín dụng được xem như chiếc cầu nối giữa các nguồn cung và cầu về vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Thông qua chức năng này tín dụng đã trực tiếp tham gia điều tiết các nguồn vốn tạm thời thừa từ các cá nhân, các tổ chức kinh tế để bổ sung kịp thời cho những doanh nghiệp, Nhà nước hay cá nhân đang gặp thiếu hụt về vốn. Ở khâu tập trung, tín dụng là nơi tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Ở khâu phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng là nơi đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của các doanh nghiệp, các cá nhân và cả của ngân sách quốc gia. Trong nền kinh tế, phân phối lại vốn tiền tệ dưới hình thức tín dụng được thực hiện bằng hai cách: phân phối trực tiếp và phân phối gián tiếp. Phân phối trực tiếp là là phân phối vốn từ chủ thể có vốn tạm thời nhàn rỗi, chưa sử dụng sang chủ thể trực tiếp sử dụng vốn đó cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Còn phân phối gián tiếp là việc phân phối vốn được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính trung gian. b) Chức năng tiết kiệm tiền mặt. Qua hình thức tín dụng, những khoản vốn đang tạm thời nhàn rỗi sẽ được đưa vào chu chuyển, nghĩa là tín dụng đã làm tăng nhịp độ quay của đồng tiền, giảm lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Mặt khác, hệ thống ngân hàng phát triển đã thúc đẩy việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các đơn vị kinh tế. Điều này làm giảm khối lượng giấy bạc trong lưu thông cũng như các chi 6
  7. phí lưu thông giấy bạc ngân hàng như chi phí in giấy bạc, chi phí bảo quản tiền, chi phí vận chuyển . . . c) Phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế. Thông qua quá trình tập trung và phân phối vốn, tín dụng góp phần phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế về các mặt như : khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ… từ đó giúp ta có cái nhìn tổng quát về những quan hệ cân đối trong nền kinh tế, ví dụ quan hệ giữa tiết kiêm và tiêu dùng. Qua việc cho vay của ngân hàng, ngân hàng luôn thực hiện quá trình kiểm tra tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước. Ngoài ra, qua việc thanh toán không dùng tiền mặt còn tạo điều kiện để kiểm soát bằng tiền đối với các đơn vị kinh tế, ngân hàng sẽ có cái nhìn tổng quát về cấu trúc tài chính của các đơn vị. 4.2 . Vai trò. Tín dụng thể hiện vai trò tích cực của nó trong đời sống kinh tế – xã hội. Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Trước hết, tín dụng góp phần thúc đẩy việc tập trung và tích tụ vốn. Hai là, tín dụng góp phần điều phối lại vốn trong phạm vi xã hội. Ba là, giải quyết mâu thuẫn giữa việc tự do di chuyển vốn giữa các ngành với việc vốn sản xuất gắn chặt với hình thái tự nhiên đã định sẵn cho nó và giữa quy mô đầu tư với tính giới hạn của vốn cá nhân. 5 . Các loại tín dụng. 5.1 .Tín dụng nặng lãi. Tín dụng nặng lãi là hình thức tín dụng tiêu dùng mà lãi suất rất cao, có thể lên tới 50%, 100% . . . và thông thường không có giới hạn lãi suất cho loại tín dụng này. Hình thức này ra đời trong nền sản xuất thấp kém, những người gặp khó khăn thường đi vay để giải quyết nhu cầu trước mắt của cuộc sống như mua lương thực, thuốc men,đóng thuế . . . Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, tín dụng nặng lãi tuy bị đẩy lùi những không hề bị thủ tiêu. Nó vẫn tồn tại ở hàng thứ yếu và hoạt động trong lĩnh vực mà người đi vay không vì mục đích sản xuất. 7
  8. 5.2 . Tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trên cơ sở mua bán chịu hàng hoá với nhau thông qua thương phiếu thương mại. Sự tồn tại tín dụng thương mại là yêu cầu khách quan của nền kinh tế hàng hoá phát triển. Sự tách biệt giữa thời gian tiêu thụ và thời gian sản xuất thường xảy ra trong nền kinh tế làm cho có doanh nghiệp có hàng muốn bán những chưa cần tiền ngay trong khi có doanh nghiệp cần hàng những chưa tiêu thụ được sản phẩm của mình để có tiền mua. Quan hệ mua bán chịu giải quyết được mâu thuẫn này và thoả mãn nhu cầu về cả hai phía. Tín dụng thương mại có ưu thế là tiết kiệm được tiền mặt và chi phí lưu thông tiền mặt nhưng cũng có những hạn chế xuất phát từ bản chất tín dụng trực tiếp bằng hàng hoá : - Thứ nhất là hạn chế về quy mô tín dụng : quy mô tín dụng phụ thuộc vào lượng hàng hoá bán chịu, lượng hàng hoá này lại phụ thuộc vào quy mô sản xuất của doanh nghiệp, hơn nữa doanh nghiệp chỉ có thể bán chịu trong phạm vi số vốn nhàn rỗi, do đó khi nhu cầu mua chịu cao hơn lượng hàng hoá có thể bán chịu thì tín dụng thương mại không thể thực hiện được. - Thứ hai là hạn chế về thời hạn cho vay : tín dụng thương mại chỉ có thể thực hiện được khi thời hạn mà người cho vay muốn cung cấp và thời hạn mà người đi vay có nhu cầu phù hợp nhau. - Thứ ba là hạn chế về phương thức hoạt động : chiều vận động của thương phiếu do chiều vận động của giá trị sử dụng của hàng hoá quyết định vì vậy nó ấp ủ mầm mống khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa do tạo ra cầu giả tạo (do người tiêu dùng có xu hướng mua nhiều hơn để tích luỹ). - Thứ tư là nó loại bỏ khả năng kiểm soát : qua tín dụng thương mại người ta có thể rửa tiền. 5.3 . Tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa một bên là các ngân hàng với một bên là các chủ thể khác của nền kinh tế. Đây là hình thức hiện đại và có nhiều ưu điểm như về đối tượng cho vay, phạm vi cho vay, khả năng cho vay lớn do đó nó có vai trò hết sức quan trọng. 8
  9. Giữa tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Hoạt động tín dụng thương mại sẽ tạo cơ sở cung cấp tín dụng ngân hàng, thể hiện ở việc cấp tín dụng ngân hàng trên cơ sở thương phiếu của tín dụng thương mại. Ngược lại, hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần khắc phục các mặt hạn chế của tín dụng thương mại, tạo điều kiện để tín dụng thương mại phát triển. 5.4 . Tín dụng Nhà nước. Tín dụng Nhà nước là hình thức tín dụng giữa Nhà nước với các thành phần khác trong nền kinh tế hay giữa các Nhà nước với nhau. Mục đích tín dụng Nhà nước là bù đắp thâm hụt ngân sách, phân phối lại vốn, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các lĩnh vực trọng điểm và các vùng kinh tế còn yếu kém, đồng thời là công cụ tài chính để Nhà nước điều tiết vĩ mô, mở rộng kinh tế đối ngoại. 5.5 .Tín dụng thuê mua. Là quan hệ tín dụng giữa các công ty tài chính với người sản xuất kinh doanh hàng hoá dưới hình thức cho thuê tài sản cố định như máy móc, thiết bị, văn phòng . . . Đặc điểm của tín dụng thuê mua là ban đầu là cho thuê, sau chuyển giao quyền sở hữu. II – NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1 . Ngân hàng thương mại. 1.1 . Khái niệm. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng, hoạt động thường xuyên và chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của 9
  10. khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư cho nền kinh tế. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại bao gồm: + Nghiệp vụ huy động vốn (nghiệp vụ nợ). + Nghiệp vụ sử dụng vốn (nghiệp vụ có). + Nghiệp vụ trung gian. 1.2 . Chức năng. Ngân hàng thương mại có các chức năng cơ bản sau: Ngân hàng thương mại là thủ quỹ của doanh nghiệp làm chức năng thu hộ và thanh toán hộ doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại là nơi đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại là trung gian tín dụng: nó đứng giữa người đi vay và cho vay. Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi của khách hàng rồi cho cho vay, đầu tư cho nền kinh tế. Ngân hàng thương mại cũng là trung gian tài chính : cung cấp các dịch vụ tài chính ở những mức độ khác nhau như thanh toán, tư vấn đầu tư, bảo quản hộ tài sản có giá, thực hiện các nghiệp vụ uỷ thác. 1.3 . Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại. a) Nghiệp vụ huy động vốn (Nghiệp vụ nợ) Các NHTM muốn hoạt động kinh doanh cần phải có một lượng vốn nhất định. Trong khi vốn tự có của ngân hàng thì lại rất hạn chế, do đó các ngân hàng phải tiến hành huy động vốn từ đó hình thành nguồn vốn và đồng thời hình thành nghĩa vụ tài chính (Tài sản nợ). Vốn kinh doanh của các Ngân hàng thương mại có thể được hình thành từ các nguồn sau: - Tiền gửi không kỳ hạn: loại này không phải trả lãi, nhưng khách hàng có thể tiêu dùng bất kỳ lúc nào. Tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng lớn, 10
  11. và là đối tượng kinh doanh chính của ngân hàng. Tuy vậy tính chất vận động rất phức tạp, dễ rủi ro mất khả năng thanh toán. - Tiền tiết kiệm: chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng tính chất vận động ổn định - Đi vay: các ngân hàng có thể vay lẫn nhau hoặc vay của ngân hàng Nhà nước (vay tái chiết khấu). - Phát hành tín phiếu và kỳ phiếu. - Vốn tự có: đây là lượng vốn thuộc sở hữu của ngân hàng. - Tài sản nợ khác (nguồn vốn khác): loại này lúc có lúc không, ngân hàng này có ngân hàng khác có thể không có. Bằng hoạt động huy động vốn, ngân hàng đã nắm trong tay phần lớn của cải xã hội về mặt giá trị b) Nghiệp vụ sử dụng vốn. - Nghiệp vụ kho quỹ: đây là hoạt động nhằm đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên cho khách hàng. Để đảm bảo chi trả cho khách hàng khi có một luồng tiền rút ra ngân hàng phải thực hiện dự trữ bao gồm dự trữ bắt buộc (gửi tại ngân hàng trung ương), và dự trữ vượt quá (tồn quỹ nghiệp vụ ngân hàng). - Nghiệp vụ cho vay: là hoạt động cơ bản và chủ yếu của bất kỳ NHTM nào. Đại bộ phận số tiền đi vay hay huy động được là để cho vay nền kinh tế. Khoản mục này có tích luỹ kém nhất, độ rủi ro vỡ nợ cao, do đó ngân hàng thu được lợi tức cao nhất nhờ các khoản cho vay, chiếm 2/3 thu nhập của các NHTM. - Đầu tư: các ngân hàng có thể đầu tư vào các dự án, đầu tư vào chứng khoán. - Tài sản có khác: đây là hoạt động sử dụng vốn mang tính chất không thường xuyên như tài trợ, quảng cáo, các vốn hiện vật như các toà nhà ngân hàng, các trang thiết bị. . . c) Nghiệp vụ trung gian. 11
  12. Ngoài các hoạt động nhận tiền gửi và cho vay, Ngân hàng thương mại còn đứng giữa các khách hàng thực hiện các dịch vụ hoặc thực hiện “lệnh” của các khách hàng: - Chuyển tiền: theo lệnh của khách hàng chuyển tiền cho người thứ ba ở một địa phương nào đó. - Thanh toán không dùng tiền mặt: qua các hình thức như uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thư tín dụng L/C, séc. . . - Cung cấp các dịch vụ tài chính: mua bán hộ tài sản, quản lý danh mục đầu tư. . . 2 . Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng. 2.1 . Tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng quan hệ tín dụng giữa một bên là các ngân hàng với một bên là các chủ thể khác của nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ, bao gồmtiền mặt và bút tệ. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian, với tư cách vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. 2.2 . Vai trò của tín dụng ngân hàng. 2.2.1 - Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, có vai trò hết sức quan trọng trong việc tập trung, điều hoà lượng cung - cầu về vốn cho nền kinh tế. Hoạt động của tín dụng ngân hàng làm nhiệm vụ chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ các người tiết kiệm sang những nhà đầu tư, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Hoạt động tín dụng giúp tận dụng những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đưa vào sản xuất kinh doanh do đó nó góp phần thúc đẩy quá trình chu chuyển tiền tệ, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng. Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn là công cụ chhủ yếu để tài trợ, đầu tư cho các ngành, các lĩnh vực then chốt, các vùng kinh tế kém phát triển. Đồng thời nó tạo lượng tiền cung ứng, phát triển kinh tế đối ngoại, góp phần bình ổn giá cả và kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế. 12
  13. 2.2.2 - Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động của NHTM. Đối với các Ngân hàng thương mại, tín dụng là một nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Vì thế cần phải mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, đa dạng hoá hoạt động cho vay, đầu tư, đa dạng hoá khách hàng và thời hạn vay để ngân hàng có thể đứng vững trong cơ chế thị trường. 3 . Hiệu quả và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM. 3.1 . Hiệu quả hoạt động tín dụng. Theo các nhà Ngân hàng thì hoạt động tín dụng được coi là có hiệu quả khi đảm bảo ba yếu tố: khả năng sinh lợi, khả năng thu hồi nợ đúng hạn và khả năng thanh khoản từ phía nguồn. Điều này có nghĩa là các ngân hàng khi tiến hành cho vay thì khoản vay đó phải mang lại thu nhập cho ngân hàng, bảo đảm trang trải được chi phí trả lãi huy động hoặc đi vay, chi phí ngân hàng và rủi ro, cùng với khả năng trả nợ của khách hàng và sự cân xứng từ phía nguồn. Hiệu quả hoạt động tín dụng được đánh giá thông qua: - Quy mô tín dụng : + Doanh số cho vay. + Dư nợ tín dụng. - Chất lượng tín dụng : + Nợ quá hạn / Tổng dư nợ. + Tổng dư nợ / Nguồn vốn huy động. 3.2 . Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM. a) Chất lượng của công tác thẩm định dự án. Trước khi tiến hành cho vay đối với một dự án, việc đầu tiên rất quan trọng là phải tiến hành thẩm định dự án. Qua đó ngân hàng mới có thể đánh giá được tính khả thi và hiệu quả của dự án, tránh những rủi ro, tổn thất cho ngân hàng. 13
  14. Thẩm định dự án đầu tư là việc xem xét một cách khách quan toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án để quyết định xem có đầu tư hay không. Do vậy, phải vận dụng tổng hợp những hiểu biết về KHTN, KHXH, công nghệ ngân hàng và đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước để xem xét đánh giá, phân tích về quy mô, thiết bị, quy trình công nghệ, và hiệu quả kinh tế xã hội. Thẩm định dự án còn là cơ sở để ngân hàng xác định số tiền cho vay, lãi suất, thời gian cho vay, mức thu hồi nợ hợp lý tạo điều kiện cho dự án hoạt động có hiệu quả tối ưu. b) Lãi suất tín dụng. Lái suất tín dụng là giá cả của tín dụng hay giá phải trả cho quyền sử dụng vốn. Lãi suất tín dụng đóng vai trò đòn bẩy kinh tế nhạy bén đối với doanh nghiệp, cá nhân và ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược, hoạt động của họ. Trong hoạt động tín dụng lãi suất quá cao hay quá thấp đều ảnh hưởng tới hoạt động của khách hàng và toàn bộ nền kinh tế. Lái suất cho vay của NHTM thường được tính dựa trên cơ sở lãi suất đầu vào cộng với một tỷ lệ nhất định đủ để trang trải chi phí hoạt động và đảm bảo cho ngân hàng có lãi. NHTM huy động vốn tự nhiều nguồn khác nhau, mỗi nguồn đều có mức lãi suất nhất định. c) Ảnh hưởng của yếu tố rủi ro. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là hiện tượng bên vay vốn không trả được nợ khi đến hạn. Có rất nhiều nguyên nhân khiến khách hàng không trả được nợ: - Nguyên nhân khách quan: do thiên tai, do biến động của thị trường, do sự thay đổi của lãi suất, tỷ giá. . . Rủi ro thiên tai là rủi ro bất khả kháng đối với người vay, làm người vay thiệt hại nặng không trả được nợ. Rủi ro do biến động của thị trường, biến động lãi suất hay tỷ giá là do biến động tình hình kinh tế, chính trị do thay đổi chính sách kinh tế của Nhà nước dẫn đến những biến động gây bất lợi cho khách hàng. - Nguyên nhân chủ quan: là những nguyên nhân từ phía ngân hàng hay do khách hàng gây ra. Do việc sử dụng vốn sai mục đích của khách hàng, ngoài ra còn do sự quản lý yếu kém đối với vốn vay quản lý kinh doanh kém cũng là nguyên nhân dẫn đến thua lỗ, mất khả năng thanh toán, không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Về phía ngân hàng, do việc thẩm định dự án 14
  15. không chính xác, không phát hiện ra sai lầm của khách hàng trong việc tìm hiểu thị trường để tư vấn cho khách hàng, hoặc do cán bộ tín dụng cố tình hay thiếu kinh nghiệm nên khó tránh khỏi rủi ro khi cho vay. Nói chung, rủi ro là điều mà bất kỳ ngân hàng nào cũng có thể gặp phải, nhưng nếu hiểu rõ nguyên nhân gây rủi ro thì ta có thể có biện pháp hạn chế và tìm cách xử lý thích hợp. d) Ảnh hưởng của các chính sách kinh tế. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, nó chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Ngoài luật doanh nghiệp, luật ngân hàng thì trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của các quy định của Nhà nước về tỷ giá hối đoái, quy trình nghiệp vụ, lãi suất. Ngoài ra ngân hàng còn chịu ảnh hưởng gián tiếp từ các chính sách, quy chế, quy định điều chỉnh hoạt động của khách hàng vay vốn như chính sách thuế, chính sách XNK, chế độ kế toán, kiểm toán… Các chính sách này tác động đến kết quả kinh doanh của khách hàng từ đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng. 15
  16. PHẦN II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM. I. TỔNG QUAN HỆ THỐNG NHTM Ở VIỆT NAM. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, ngành ngân hàng có vai trò quan trọng, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Sau gần nửa thế kỷ hoạt động, trong đó có thời gian dài hoạt động dưới chế độ tập trung với nhiệm vụ phục vụ xây dựng miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước và phát triển kinh tế xã hội sau chiến tranh. Đầu thập kỷ 90, khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, ngnàh ngân hàng sớm đổi mới hoạt động từ một cấp sang hai cấp với sự ra đời của hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính tín dụng khác. Trong đó các NHTM đã thực sự trở thành một hệ thống, tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng hoạt động đóng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế. Hiện nay hệ thống NHTM ở Việt Nam đã có hàng trăm ngân hàng thuộc đủ các thể loại như NHTM quốc doanh (NHNN & PTNT, NHĐT & PT, NHCT, …), ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài, một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam. Nước ta, do thị trường chứng khoán mới ra đời, phát triển chưa mạnh, chưa phát huy hết hiệu quả nên hệ thống NHTM vẫn là kênh dẫn vốn chủ yếu, có vai trò tập trung, điều hòa vốn, đáp ứng phần lớn nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân và cả Nhà nước. Trong quá trình hoạt động, mặc dù các NHTM đã gặt hái được nhiều thành tựu nhưng vẫn còn những tồn tại cần được nhanh chóng khắc phục. II - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM Ở VIỆT NAM 1 . Thực trạng hoạt động tín dụng NHTM ở Việt Nam. 1.1 . Quy mô, cơ cấu huy động và cho vay.  Về khả năng tạo lập vốn: Ngay từ khi Pháp lệnh ngân hàng ra đời các NHTM đã chú trọng việc ổn định và ngày càng tăng trưởng nguồn vốn, coi đó là mục tiêu chiến lược của ngân hàng. Các NHTM một mặt có các giải pháp đa dạng hoá hình thức huy động vốn, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt, cạnh tranh; mặt khác áp 16
  17. dụng chính sách bảo vệ khách hàng, dịch vụ trọn gói : nhận tiền gửi, cấp tín dụng, mua bán ngoại tệ, thực hiện dịch vụ thanh toán… đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm tạo ra các giải pháp huy động vốn có hiệu quả. Nhìn chung, tổng nguồn vốn NHTM trong mấy năm qua tương đối ổn định và có chiều hướng tăng, trong đó vốn của các NHTMQD chiếm phần lớn. Tốc độ tăng trưởng bình quân 20 – 30% năm và đến những năm gần đây tốc độ này đã giảm do biến động chung của tình hình kinh tế khu vực và thế giới.  Về tình hình cho vay vốn: Từ khi hình thành tới nay, các NHTM đã không ngừng tăng dư nợ cho vay nền kinh tế, nhằm đảm bảo vốn cho sản xuất, tiêu dùng của xã hội. Cơ cấu cho vay cũng có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tăng dần tỷ lệ cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tỷ lệ vốn trung và dài hạn. Năm 1990, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chỉ chiếm 19% tổng dư nợ tín dụng nhưng đến năm 1996 đã tăng lên 48%. Nguyên nhân là do trước đây, khi mới chuyển đổi cơ chế số doanh nghiệp, hộ kinh doanh ngoài quốc doanh còn ít nên tỷ lệ cho vay thành phần này còn thấp. Đến nay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không ngừng tăng lên về quy mô cũng như số lượng nên đã nâng dần tỷ trọng vay vốn ngân hàng. Bảng 2: Tình hình dư nợ tín dụng qua một số năm Các chỉ tiêu đơn 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 vị Cho vay DNQD % 81 90 81 65 64 57 52 Cho vay ngoài % 19 1 19 35 36 43 48 quyết định Cho vay ngắn hạn % 95 85 83 77 67 69 62 Cho vay trung hạn % 5 2 4 14 18 24 25 Cho vay dài hạn % 0 13 13 9 15 7 13 (Nguồn: Thị trường tài chính tiền tệ 5 - 1997) Một điểm mới trong việc nới lỏng tín dụng là các NHTM mở rộng cho vay tiêu dùng và mua bán bất động sản. Hàng chục nghìn gia đình giáo viên, 17
  18. cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang được vay khoảng gần 10.000 tỷ đồng cho các nhu cầu xây dựng mới và sửa chữa nhà ở, mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng đắt tiền… Ngành ngân hàng cũng mở ra một lĩnh vực mới đó là cho vay tiền người đi xuất khẩu lao động. Các NHTM đã cung cấp phần lớn vốn cho đầu tư phát triển các lĩnh vực then chốt, đòi hỏi nhiều vốn theo kế hoạch của Nhà nước. Các NHTM đã cho vay những khoản hợp vốn bằng ngoại tệ cho những dự án lớn: Nhà nước khí điện đạm Cà Mau có tổng số vốn đầu tư trên 5700 tỷ VND, nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ. 6 NHTM đồng tài trợ 230 triệu USD cho dự án phân đạm Phú Mỹ. 3 TCTD đồng tài trợ 30 triệu USD cho Petro Việt Nam mua tàu chở dầu thô; 4 NHTMQD đồng tài trợ 95 triệu USD cho Dự án xi măng sông Gianh; dự án mỏ khí Lan Tây, Lan Đỏ và đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn được tài trợ 50 triệu USD… và hàng loạt dự án lớn khác thuộc lĩnh vực dầu khí, hàng không, điện lực, bưu chính viễn thông, đóng tàu… tổng cộng vốn tín dụng trị giá trên 1 tỷ USD.  Về tốc độ cho vay vốn: Trong mấy năm qua tốc độ cho vay của các NHTM còn thấp, chỉ chiếm khoảng 70% tổng dư nợ tín dụng (1997 là 73,15%; 1998 là 71,2%); lượng vốn tồn đọng trong hệ thống ngân hàng còn lớn, do vậy ngân hàng phải trả một khoản chi phí lớn chi lãi huy động trong khi không thu được lợi nhuận. Cho đến năm 1999 do tác động của giảm phát các ngân hàng đã hạ thấp lãi suất huy động vốn, áp dụng nhiều biện pháp nhằm khơi thông nguồn vốn trong hệ thống NHTM, nhưng tốc độ cho vay tăng rất chậm. Tốc độ huy động và cho vay của hệ thống NHTM năm 1999. QuýI QuýII Quý III Quý IV Huy động -------- 9,3 19,3 -------- Cho vay âm 6 8,5 10 (Nguồn : Chuyên san TBKT Việt Nam 98’ - 99’) Như vậy, tốc độ cho vay tăng chậm trong khi lượng tiền gửi vào ngân hàng vẫn tăng, mà chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn nên ngân hàng không thể cho vay để giải toả vốn. Điều này là giảm thu nhập và gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 18
  19. Có rất nhiều nguyên nhân gây đọng vốn tại ngân hàng nhưng có thể thấy hai nguyên nhân chính sau: Một là, do sự hạn chế của đầu ra. Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước có vốn tự có rất nhỏ so với quy mô hoạt động của nó, trong khi muốn vay vốn ngân hàng thì phải có các điều kiện về thủ tục, tài sản thế chấp, cầm cố, vì vậy các doanh nghiệp có vốn tự có nhỏ thì khả năng vay vốn bị hạn chế. Mặt khác, do thị trường tiêu thụ hàng hoá ở nước ta đã bão hoà mà các doanh nghiệp chưa có các biện pháp mở rộng thị trường mới. Trong khi đó, hàng hoá nước ngoài xâm nhập cạnh tranh quá khốc liệt trên thị trường nội địa làm cho các doanh nghiệp trong nước không thể mở rộng sản xuất vì thế không thể vay thêm vốn ngân hàng. Hai là, do các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước mà ở đây là chính sách tiền tệ. Hiện nay chúng ta đang giảm lãi suất và quy định mức chênh lệch lãi suất là 0,3%. Lãi suất cho vay giảm liên tục, khoảng cách giữa hai lần điều chỉnh quá ngắn, làm cho các NHTM luôn luôn bị động, vốn huy động vào với lãi suất cao chưa kịp cho vay ra đã phải cho vay theo lãi suất giảm, dẫn tới bị thua lỗ. Nhà nước thay đổi lãi suất buộc các Ngân hàng thương mại phải thay đổi kế hoạch kinh doanh, phải tính toán lại mức lãi suất cho phù hợp quy định Nhà nước. Và có thể các NHTM phải tìm một đầu ra thích hợp hơn là cho vay để khỏi bị hạn chế trần lãi suất. Đó cũng là nguyên nhân làm hẹp đầu ra của các Ngân hàng thương mại. 1.2 .Chất lượng hoạt động tín dụng. Những năm qua, hệ thống NHTM ở Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể, doanh số Cho vay và tổng dư nợ liên tục tăng. Tuy nhiên để xem xét, đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng thì ta cần xem xét chất lượng các khoản vay đó. Hiện nay, bên cạnh các mặt đã làm được, hoạt động của hệ thống NHTM còn nhiều vấn đề bất cập làm cho quá trình kinh doanh gặp nhiều thách thức mới. Một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay là mức dư nợ quá hạn rất lớn. Chất lượng tín dụng của các khoản vay rất thấp, nhất là các NHTM cổ phần đô thị, sau đó là các NHTM quốc doanh, các NHTM cổ phần nông thôn. Tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam được công bố vào cuối năm 1998 là 13,6% tương ứng với khoảng 14.000 tỷ đồng 19
  20. tăng gấp đôi so với tỷ lệ một năm trước đó và cuối năm 2000 con số này là 9,2%. Nếu xét riêng từng loại ngân hàng thương mại năm 1998 ta thấy: Các NHTM cổ phần đô thị có dư nợ quá hạn chiếm khoảng 20% và nợ khó đòi vào khoảng 10 % so với tổng dư nợ. Các NHTM quốc doanh có mức dư nợ quá hạn chiếmkhoảng 11% và nợ khó đòi khoảng 8% so với tổng dư nợ. Các NHTM cổ phần nông thôn mức dư nợ quá hạn chiếm khoảng 5,6% và nợ khó đòi là 0,7% so với tổng dư nợ. Với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh có các tỷ lệ rất thấp, nợ quá hạn chiếm khoảng 2,3%, còn nợ khó đòi chỉ khoảng 1,2% so với tổng dư nợ. Do vậy tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng trong nước là trên 15%, gấp 3 lần mức được coi là nguy hiểm. Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Tổng NQH/VTC 88,1 95,5 85 61,9 75,7 62,3 46 Tổng NQH/Tổng dư nợ 13,7 11,1 6,0 7,8 9,3 9,5 10 Tổng NQH/ Tổng TS 6,0 6,6 5,5 4,4 5,5 5,4 5,5 Có Vốn tự có/ Tổng TS 6,8 6,9 6,9 7,1 7,2 7,9 11,8 (Nguồn : Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề 12 - 1998). Một câu hỏi được đặt ra là trong những năm gần đây, ngành ngân hàng tập trung nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thấp nợ quá hạn, nhưng tại sao nợ quá hạn không giảm mà lại còn tăng? Trước hết, ngành ngân hàng tập trung tiến hành thanh tra kiểm soát, đối chiếu các khế ước vay vốn và hồ sơ vay vốn… nên nhiều khoản cho vay trước đây đảo nợ, làm các thủ thuật che giấu nợ quá hạn, nay phải báo cáo thật, thực trạng tín dụng được bộc lộ rõ, nợ quá hạn gia tăng. Thứ hai là, tình trạng ngân sách các cấp nợ vốn đầu tư các côngtrình ngày càng lớn, bên A không có tiền thanh toán cho bên B, còn bên B trước 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2