intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tốt nghiệp: Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi Thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

116
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thuế do Nhà nước tổ chức và thực hiện. Đó là sự chuyển dịch một chiều thu nhập từ phía doanh nghiệp và dân cư (khu vực tư) vào khu vực công. Phía sau quá trình chuyển dịch này gồm nhiều vấn đề đặt ra như: tương quan giữa số thuế thu được trong hiện tại và tương lai; ảnh hưởng của thuế đến hành vi kinh doanh, đến động thái tiêu dùng xã hội; thuế và tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội... Do đó, thuế là một lĩnh vực phức tạp, bởi lẽ không chỉ thể...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi Thực trạng và giải pháp

  1. LUẬN VĂN: Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi - Thực trạng và giải pháp
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thuế do Nhà nước tổ chức và thực hiện. Đó là sự chuyển dịch một chiều thu nhập từ phía doanh nghiệp và dân cư (khu vực tư) vào khu vực công. Phía sau quá trình chuyển dịch này gồm nhiều vấn đề đặt ra như: tương quan giữa số thuế thu được trong hiện tại và tương lai; ảnh hưởng của thuế đến hành vi kinh doanh, đến động thái tiêu dùng xã hội; thuế và tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội... Do đó, thuế là một lĩnh vực phức tạp, bởi lẽ không chỉ thể hiện ra những vấn đề kinh tế mà còn chứa đựng nhiều vấn đề xã hội sâu sắc. Thuế không những đòi hỏi tính khoa học về mặt lý luận, sự chính xác trong luật định mà còn cần đến nghệ thuật tinh tế trong hành thu. "Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN", hàng năm số thu về thuế chiếm khoảng 80% đến 90% tổng thu NSNN. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần tu chỉnh các Luật thuế, các văn bản pháp lý khác về thuế nhằm hoàn thiện hệ thống thuế, đưa thuế ngày càng tiếp cận thực tiễn. Để phản ánh và theo kịp bước chuyển của nền kinh tế thì quản lý thu thuế cần phải thay đổi và phải được hoàn thiện hơn để đáp ứng tình hình phát triển kinh tế của đất nước cũng như các cam kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Qua đó khai thác tối đa những uy lực vốn có của thuế để kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất kinh doanh của mọi đơn vị thuộc các thành phần kinh tế và đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Đối với khu vực KTNQD, hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng, đều khắp các địa bàn trong từng địa phương và cả nước. Song chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn còn thực hiện tùy tiện, chưa đúng chế độ, hiện tượng khai man trốn thuế, lậu thuế còn nhiều từ đó tạo ra sự bất bình đẳng và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy, quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD phải tiếp tục cải tiến và hoàn thiện nhằm thực hiện được mục tiêu, yêu cầu của hệ thống thuế đặt ra. Quảng Ngãi là một tỉnh duyên hải miền Trung, số thu về thuế không nhiều, chưa đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương, nhưng trong đó kinh tế ngoài quốc doanh
  3. (KTNQD) đã đóng góp một phần không nhỏ vào số thu hàng năm của ngân sách địa phương. Nhiều năm qua ngành thuế tỉnh Quảng Ngãi nói chung, thuế ngoài quốc doanh (NQD) nói riêng đã hoàn thành kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao. Nhưng với tính chất đa dạng và phức tạp của khu vực kinh tế này, công tác quản lý thu thuế ở tỉnh Quảng Ngãi cần được khắc phục những mặt hạn chế và tồn tại, đảm bảo nuôi dưỡng nguồn thu, thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật. Việc chọn đề tài " Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trờn địa bàn tỉnh Quảng Ngói - Thực trạng và giải phỏp " có ý nghĩa thiết thực và bức xúc cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về thuế - công tác quản lý thu thuế. Mỗi đề tài nghiên cứu đều có mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu bàn về quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Vì vậy, luận văn nghiên cứu là cần thiết, qua đó chỉ những nguyên nhân còn hạn chế trong quản lý thu thuế NQD, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp khả thi ở địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, nhằm thực hiện được mục tiêu của hệ thống thuế tại địa phương. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu - Mục đích: làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và những giải pháp thiết thực nhằm tăng cường, hoàn thiện quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. - Nhiệm vụ của luận văn: + Hệ thống hóa những vấn đề lý luận của quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD. + Phân tích đánh giá thực trạng quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. + Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý thu thuế NQD tại tỉnh Quảng Ngãi.
  4. - Phạm vi nghiên cứu: Quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD rất rộng, đa dạng và phức tạp. Vì vậy, phạm vi của đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về quản lý thu thuế khu vực NQD trong các hoạt động sản xuất kinh doanh - dịch vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi gồm: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân, Hộ kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ từ năm 1999 - 2001. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh để rút ra những kết luận cần thiết. 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài Từ những đánh giá về thực trạng, những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân của những tồn tại của công tác quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD ở tỉnh Quảng Ngãi, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho lãnh đạo và các cán bộ nghiệp vụ ở cơ quan thuế trong quá trình lập dự toán, phân tích, đánh giá kế hoạch thu, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế ở đơn vị. Đảm bảo sự tinh tế trong hành thu; hạn chế đến mức thấp nhất hiện tượng thất thu thuế; thực hiện công bằng trong điều tiết thuế ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1
  5. Một Số Vấn Đề CƠ Bản Về Thuế Và Quản Lý THU Thuế ngoài quốc doanh 1.1. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế nước ta hiện nay 1.1.1. Khái niệm - bản chất, đặc điểm của thuế - Khái niệm - bản chất: Thuế là một phạm trù kinh tế tài chính mang tính khách quan, đồng thời cũng là một phạm trù lịch sử, nó ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của một nhà nước. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, Nhà nước xuất hiện khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp, để duy trì bộ máy hoạt động của mình như: an ninh, quốc phòng; chi hoạt động của bộ máy nhà nước; chi sự nghiệp giáo dục, y tế;....; đòi hỏi Nhà nước phải có nguồn tài chính để chi. Nguồn tài chính này có được là do sự đóng góp của mọi thành viên trong xã hội và sự đóng góp này mang tính bắt buộc. Theo Ph.Ăngghen: "Để duy trì quyền lực công cộng cần phải có sự đóng góp của những người công dân cho Nhà nước đó là thuế má" [24, tr. 522]. Trong thời kỳ Cộng sản nguyên thủy, khi điều kiện lao động của con người còn thô sơ, con người lao động đủ để duy trì sự sống của mình, chưa có Nhà nước lúc đó xã hội chưa biết thuế là gì. Với tiến trình phát triển của xã hội loài người, Nhà nước xuất hiện, thuế cũng từ đó ra đời, tồn tại và phát triển. Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, một khi Nhà nước chỉ làm nhiệm vụ quản lý hành chính đơn thuần thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ở chừng mực nhất định, xã hội ngày càng phát triển hơn nên Nhà nước có thêm nhiệm vụ điều hành, quản lý nền kinh tế thì chi tiêu của Nhà nước ngày càng nhiều hơn. Đến khi Nhà nước đảm nhận thêm công việc chăm lo đời sống, văn hóa, xã hội của cộng đồng thì thuế lại được động viên càng lớn với nhiều sắc thuế và ở tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế. Như vậy, khi vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước ngày càng được mở rộng, đòi hỏi nguồn tài chính phục vụ cho việc chi tiêu ngày càng tăng lên. Điều đó, không thể thiếu sự đóng góp của người dân và các tổ chức kinh tế, đó là thuế.
  6. Theo phân tích trên, thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và thuế ra đời khi hoạt động lao động sản xuất của xã hội loài người tạo ra sản phẩm thặng dư. Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, sự chuyển dịch giá trị sản phẩm thặng dư từ thành phần kinh tế này sang thành phần kinh tế khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác rất đa dạng và phức tạp. Cho nên, đứng trên giác độ toàn xã hội, đòi hỏi phải có hệ thống thuế để điều tiết thỏa đáng số sản phẩm thặng dư xã hội tạo ra sao cho hợp lý và công bằng. Vì vậy, khi xã hội càng văn minh thì thuế khóa lại càng đa dạng và phát triển. Tóm lại, qua quá trình phát triển của Nhà nước và thuế cho chúng ta thấy, thuế và Nhà nước là hai phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Nhà nước tồn tại tất yếu phải có thuế. Thuế là cơ sở vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Trên các sách báo kinh tế thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối khái niệm về thuế. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế đưa ra mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung nhất của phạm trù này. Chẳng hạn, theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản: "Thuế khóa là cái vú sữa của chính phủ" [23, tr. 317]. Sau này khái niệm về thuế được bổ sung và hoàn thiện hơn. Trong cuốn Từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes cho rằng: "Thuế là một biện pháp của chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu hàng hóa và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản". Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn "Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ như sau: Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao bằng hàng hóa, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hóa hoặc dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà tòa án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật [31, tr. 10]. ở nước ta đến nay cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế. Theo một số nhà nghiên cứu: thuế là hình thức động viên, phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã
  7. hội và thu nhập quốc dân theo pháp luật của Nhà nước quy định, nhằm đáp ứng những khoản chi tiêu cần thiết của Nhà nước. Đó là khoản thu của Nhà nước đối với các tổ chức (chủ yếu là tổ chức kinh tế) và mọi thành viên trong xã hội; khoản thu này mang tính bắt buộc không hoàn trả trực tiếp [25, tr. 1]. Gần đây, trong một số công trình nghiên cứu về thuế, các nhà kinh tế cho rằng, để vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật các khía cạnh sau đây: nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước với các pháp nhân và thể nhân; những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh nhà nước; xét theo khía cạnh luật pháp thuế là khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định. Kết hợp những hạt nhân hợp lý của những quan niệm về thuế kể trên, có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà n ước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, nhằm sử dụng cho mục đích công cộng [30, tr. 11]. - Đặc điểm: Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định qua từng giai đoạn phát triển. Nghiên cứu về thuế người ta thấy nó có những đặc điểm riêng để phân biệt với các công cụ tài chính khác. + Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp trong xã hội cho Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự: Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, nó phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác của NSNN. Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ, được hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc động viên mang tính chất bắt buộc của Nhà n ước. Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế - như một nhà kinh tế định nghĩa: là một phương thức phân phối của Nhà nước mà kết quả của quá trình đó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác trực tiếp cho người nộp thuế.
  8. Tính chất cưỡng chế bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ những lý do sau: Thứ nhất, hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng, Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối tượng có thu nhập phải chuyển giao. Thứ hai, trong xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng về hàng hóa công cộng ngày càng tăng cao. Để duy trì hoạt động đó thì thu nhập về hàng hóa công cộng từ những người thụ hưởng phải bù đắp đủ các chi phí bỏ ra. Nhưng hàng hóa công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không thể phân bổ theo "khẩu phần" để sử dụng và người thụ hưởng cũng không muốn sử dụng theo "khẩu phần". Mặt khác, hàng hóa công cộng không có tính cạnh tranh và không thể đem trao đổi trực tiếp trên thị trường để bù đắp các chi phí. Chính vì vậy trong việc cung cấp hàng hóa công cộng đã xuất hiện những "người ăn không", nghĩa là không ai tự nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng hàng hóa công cộng. Do đó, để đảm bảo cung cấp hàng hóa công cộng, Nhà nước chỉ có thể sử dụng phương pháp thuế để buộc "người ăn không" phải chuyển giao thu nhập từ khu vực tư sang khu vực công. Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân. Từ đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính khác của NSNN như: lệ phí, công trái hoặc hình thức phạt bằng tiền. Hình thức phạt bằng tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt tiền chỉ xảy ra đối với người nộp phạt khi có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi ích nhà nước hoặc cộng đồng. Hình thức phí, lệ phí, công trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc của phí và lệ phí chỉ xảy ra khi người trả phí, lệ phí thụ hưởng trực tiếp những dịch vụ do Nhà nước cung cấp. + Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp:
  9. Tính không hoàn trả trực tiếp của thuế được biểu hiện trên các mặt sau: Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp xã hội chuyển giao cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thụ hưởng những dịch vụ và hàng hóa công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế cũng không có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao thu nhập cho Nhà nước; mặt khác mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà nước cũng không nhất thiết ngang bằng mức độ chuyển giao. Mức chuyển giao thu nhập nhiều hay ít chỉ căn cứ vào kết quả hoạt động kinh tế và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cũng như nhu cầu tài chính chung của Nhà nước. Thứ hai, khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không được hoàn trả trực tiếp có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được một phần các dịch vụ công cộng mà Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng, giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế và các khoản phí, lệ phí. + Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước bằng luật pháp: Đặc điểm này một mặt thể hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác phản ánh sự chuyển giao thu nhập không mang tính chất tùy tiện mà dựa trên những cơ sở pháp luật nhất định và đã được xác định trước trong Luật thuế; Pháp lệnh thuế. Những tiêu thức thường được xác định trước trong các Luật thuế, Pháp lệnh thuế là: đối tượng chịu thuế; đối tượng nộp thuế; mức thuế phải nộp; thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác. + Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất định: Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, thị trường, sự biến động của NSNN.... Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế chính trị của Nhà nước, tâm lý, tập quán của các tầng lớp dân cư, truyền thống văn hóa, xã hội của dân tộc...
  10. Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội nên người ta thường nói thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội tổng hợp. + Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được giới hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp lý của Nhà nước đối với con người và tài sản. Tóm lại: những đặc điểm cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản chất và nội dung bên trong của thuế. Từ những đặc điểm đó, giúp chúng ta phân biệt thuế với các hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều phương diện khác nhau. 1.1.2. Vai trò của thuế + Thuế là công cụ chủ yếu huy động tập trung nguồn lực cho Nhà nước: Bất kỳ một chế độ Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển đều phải tạo cho mình một nền tài chính quốc gia vững chắc và lành mạnh, mà trong đó nguồn tài chính chủ yếu được động viên từ thuế và phí ở nội bộ nền kinh tế quốc dân. "Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN". ở nước ta từ khi có các Luật thuế ra đời nguồn thu từ thuế ngày càng tăng lên, ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu ngân sách, năm 1990 đạt 86%; năm 1997 đạt 87%; năm 1998 đạt 88%, đến nay khoảng 90% [26, tr. 10]. Vai trò của thuế thực sự được nâng lên và thể hiện rõ trong quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, thuế được áp dụng thống nhất đối với các thành phần kinh tế, không phân biệt kinh tế nhà nước và KTNQD, nó bao quát và điều tiết các hoạt động kinh doanh, mọi nguồn thu nhập, mọi tài nguyên thiên nhiên và mọi hoạt động tiêu dùng trong xã hội. Chính sách động viên về thuế cần có tác dụng bồi dưỡng nguồn thu vững chắc, lâu dài cho NSNN. Cơ chế thuế suất không nên quá phức tạp, quá cao mà cần nghiên cứu và tính toán dựa trên những căn cứ khoa học và sự phát triển của nền kinh tế sẽ phù hợp hơn với khả năng đóng góp của đối tượng nộp thuế, đảm bảo nguồn thu ngân sách được ổn định thường xuyên. Thuế suất được điều chỉnh giảm có thể sẽ dẫn đến phát sinh lo lắng không đảm bảo nguồn thu cho ngân sách. Nhưng trên thực tế nếu hệ thống thuế hợp lý,
  11. thuế suất ở mức vừa phải thì sẽ tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, đối tượng nộp thuế thấy mức thuế công bằng hợp lý sẽ tự nguyện khai báo nộp thuế tốt hơn. Diện thu thuế được mở rộng, diện miễn giảm thu hẹp, vừa được lòng dân vừa đảm bảo nhiệm vụ thu theo kế hoạch. Tỷ lệ động viên về thuế cần tính toán khoa học, đầy đủ mọi khoản đóng góp cho NSNN, bao gồm mọi khoản thuế, phí và lệ phí. Cần khắc phục tình trạng các n gành, các địa phương tùy tiện đặt ra các khoản thu trái với quy định của Nhà nước. Thuế tạo nguồn thu cho NSNN, nhưng nguồn thu đó được hình thành trên cơ sở nền kinh tế tăng trưởng và đạt hiệu quả cao. Đây là vấn đề luôn được các quốc gia quan tâm đúng mức trong quá trình hoạch định chính sách và tổ chức quản lý thu thuế. + Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế: Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước dùng để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hóa, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một chính sách thuế đặt ra không chỉ đơn thuần tạo nguồn thu cho NSNN, mà quan trọng hơn là thực hiện chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, cơ chế thị trường cũng là môi trường làm nảy sinh những khuyết tật vốn có của nó. Vì vậy, để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước phải sử dụng các công cụ kinh tế, trong đó đặc biệt là công cụ thuế nhằm tạo lập các cân đối vĩ mô, điều tiết thị trường, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Sự điều tiết của Nhà nước thông qua thuế gồm hai mặt: khuyến khích và hạn chế. Điều đó được thể hiện ra trong việc xây dựng cơ cấu các loại thuế và mối quan hệ giữa chúng cũng như việc xác định thuế suất, chế độ miễn - giảm thuế phù hợp với điều kiện thực tế. Khuyến khích đối với những ngành nghề, hoạt động sản xuất kinh doanh cần thiết cho nền kinh tế quốc dân hoặc những ngành nghề những hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ cho đại đa số quần chúng nhân dân thì áp dụng thuế suất thấp. Hạn chế, thu hẹp những ngành nghề không có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế, cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân hoặc những ngành nghề ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, đến sức khỏe của nhân
  12. dân thì áp dụng thuế suất cao. Trong nền kinh tế thị trường, các thành phần kinh tế tự do lựa chọn ngành nghề sản xuất, kinh doanh, với mục tiêu đầu tư vào những ngành nghề nào mang lại lợi nhuận cao nhất mà không tính đến hậu quả để lại sau quá trình sản xuất kinh doanh. Nhà nước dùng công cụ thuế để điều chỉnh và hướng các hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào con đường phát triển có hiệu quả mang lại nhiều lợi ích cho quốc kế dân sinh. Trong điều kiện nay, hệ thống thuế của Nhà nước Việt Nam thể hiện rất rõ quan điểm khuyến khích các ngành nghề sản xuất hơn là các hoạt động thương mại, dịch vụ. Sản xuất các mặt hàng thiết yếu được khuyến khích hơn sản xuất các mặt hàng và dịch vụ khác. Để khuyến khích các ngành nghề sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu cần thiết khi trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu, hay đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng không thuận lợi cho sức khỏe, sinh hoạt của người dân,... Nhà nước thường áp dụng thuế ưu đãi để thúc đẩy kinh tế phát triển một cách có hiệu quả, đồng bộ theo hướng có lợi cho quốc kế dân sinh. Hiện nay, Nhà nước ta sử dụng tổng hợp hệ thống chính sách thuế, nhằm: khuyến khích mạnh mẽ các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật; góp phần thúc đẩy việc khai thác vật tư nguyên liệu trong nước, tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài để mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa đẩy mạnh xuất nhập khẩu đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và tích lũy; bảo đảm lợi ích giữa Nhà nước và xã hội, lợi ích của các bên hợp tác, vừa đảm bảo sản xuất trong nước phát triển nâng cao đời sống của người dân. + Thuế góp phần điều hòa thu nhập thực hiện công bằng xã hội trong phân phối: Với học thuyết "Bàn tay vô hình" của Adam Smith nền kinh tế thị trường không có sự điều chỉnh, can thiệp của Nhà nước, thị trường tự điều chỉnh nền kinh tế. Như vậy, thì sự phân phối thu nhập sẽ gây ra sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc. Một bộ phận dân chúng sẽ giàu lên nhanh chóng, đại đa số người nghèo càng khó khăn hơn, đời sống không được cải thiện. Tình trạng trên không chỉ liên quan đến vấn đề đạo đức, công bằng
  13. xã hội mà còn tạo nên tình trạng lũng đoạn, độc quyền và về lâu dài sẽ không thể đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng được. Trong thực tế, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự đóng góp của cộng đồng, của toàn xã hội. Chính vì vậy mà thành quả kinh tế đạt được trong hiện tại và tương lai phải được phân phối trên cơ sở của cộng đồng. Cho nên, cần có sự can thiệp của Nhà nước trong quá trình phân phối thu nhập, sự phân phối này chủ yếu nhờ vào công cụ thuế để điều tiết. Nền kinh tế của nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, thì vai trò tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và người dân trong động viên điều tiết thuế và công bằng xã hội ngày càng được nâng cao hơn, bao quát hơn. Sự thành công trong việc đổi mới chính sách thuế của Nhà nước ta trong những năm qua là: hệ thống thuế mới được áp dụng chung cho các ngành nghề, hoạt động sản xuất kinh doanh, không phân biệt thành phần kinh tế cũng như các tầng lớp nhân dân nhằm mục tiêu đảm bảo sự công bằng bình đẳng trong điều tiết. Sự bình đẳng, công bằng thể hiện thông qua các chính sách động viên như nhau giữa các thành phần kinh tế, chủ thể sản xuất kinh doanh và mọi tầng lớp dân cư. Thông qua một hệ thống các sắc thuế, Nhà nước điều chỉnh mức thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội, người có thu nhập cao phải đóng thuế cao và ngược lại (thể hiện thông qua hoạt động tiêu dùng chịu sự điều tiết của các sắc thuế gián thu và thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao). Tổ chức và cá nhân kinh doanh có lợi nhuận cao phải đóng góp thuế cao hơn những tổ chức và cá nhân kinh doanh có lợi nhuận thấp (thể hiện ở sắc thuế TNDN). 1.2. Đặc điểm của quản lý thu thuế ngoài quốc doanh 1.2.1. Một số vấn đề chung về kinh tế ngoài quốc doanh - Kinh tế thị trường và sự tồn tại tất yếu của khu vực KTNQD: Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc nghiên cứu KTNQD nói chung và thuế đối với KTNQD nói riêng không thể tách rời việc nghiên cứu những đặc điểm của môi trường mà KTNQD tồn tại và phát triển. Đó chính là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bởi lẽ, khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường chính là nội dung bao trùm nhất của công
  14. cuộc đổi mới được khởi xướng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, được tiếp tục khẳng định ở những Đại hội lần thứ VII, VIII, IX. Vậy kinh tế thị trường có những đặc trưng cơ bản gì? Nhiều đặc trưng, song có thể nêu ít nhất mấy đặc trưng đáng quan tâm sau đây: Thứ nhất, Đó là tính chất đa thành phần của nền kinh tế. Nếu kinh tế kế hoạch hóa tập trung phủ nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế thì ngược lại kinh tế thị trường coi sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan, một động lực để thúc đẩy kinh tế phát triển. ở đây, nền kinh tế được chia thành hai khu vực cơ bản đó là: Khu vực kinh tế nhà nước (kinh tế quốc doanh cũ) và kinh tế NQD. Mỗi khu vực đều có chức năng và nhiệm vụ riêng, cùng nhau tồn tại, phát triển theo nguyên tắc hỗ trợ, hỗn hợp, đan xen và bổ sung cho nhau. Thứ hai, Trong cơ chế thị trường mọi sản phẩm sản xuất đều mang tính chất hàng hóa với đầy đủ ý nghĩa của nó. Không những thế, vật tư, kỹ thuật, sức lao động, trí tuệ, thông tin,... đều được coi là hàng hóa, tiêu thụ trên thị trường với giá cả được xác định chủ yếu theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, trên nguyên tắc thuận mua vừa bán. Thứ ba, Tính cạnh tranh. Trong khuôn khổ pháp luật mọi thành phần kinh tế được tham gia bình đẳng ở tất cả mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ (trừ một số ngành nghề Nhà nước cấm kinh doanh), việc đầu tư tiền vốn, tăng cường trang thiết bị kỹ thuật, thuê mướn công nhân, liên doanh liên kết cả trong và ngoài nước đều được khuyến khích phát triển. Các yếu tố thị trường quốc gia dần từng bước hòa nhập với thị trường quốc tế, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Chính sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế và sự phát triển không ngừng về nhu cầu tiêu dùng đã tạo ra thị trường hàng hóa đa dạng, phong phú mà thực tiễn kinh tế thị trường đã minh chứng. Kinh tế thị trường có khả năng giải phóng mọi tiềm năng sản xuất, điều chỉnh mọi hoạt động kinh doanh, khuyến khích sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội ngày càng phát triển. Từ đặc điểm cạnh tranh, thị trường tuy thống nhất nhưng các thành phần kinh tế hoạt động với khả năng, trình độ và mục tiêu khác nhau. Cơ chế thị trường tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp có tiềm lực về trí tuệ, tiền vốn, kỹ thuật, làm ăn có hiệu quả được phép làm giàu một cách chính đáng. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường luôn tồn tại những
  15. khuyết tật vốn có của nó, nhất là khi tình trạng phát triển tự phát hoặc cạnh tranh không lành mạnh. Nếu Nhà nước không đủ sức điều chỉnh thị trường thì với xu thế "mạnh được, yếu thua" phát triển, thị trường sẽ bị rối loạn, hoạt động trốn lậu thuế, mua bán chèn ép nhau, thậm chí có cả những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, lừa gạt, triệt tiêu lẫn nhau để tồn tại và phát triển ngày càng gia tăng theo thời gian. Đối lập với một số người giành thắng lợi làm giàu một cách nhanh chóng sẽ có nhiều người thất bại làm ăn thua lỗ, phá sản, gây lãng phí tiền vốn, tăng thất nghiệp, kinh tế bị kìm hãm, an ninh trật tự xã hội không đảm bảo, các tầng lớp dân cư ngày càng bị phân hóa cao về thu nhập đời sống,... Như vậy, từ trong bản thân của cơ chế thị trường đã bao hàm hai mặt thống nhất: mặt tích cực thúc đẩy kinh tế phát triển, đời sống xã hội được nâng cao; mặt tiêu cực là kìm hãm sự phát triển kinh tế, phân hóa đời sống xã hội. ở Việt Nam, kinh tế thị trường định hướng XHCN được tiếp tục khẳng định ở Đại hội Đảng lần thứ IX. Nền kinh tế đó phát triển dựa trên hình thức sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp giữa Nhà nước với tư nhân trong và ngoài nước,...trong đó sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể là nền tảng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay ở nước ta. Yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường đặt ra cho tất cả các hình thức sở hữu là phải xác định rõ quyền sở hữu về tài sản, tiền vốn, trí tuệ,... nhằm mục đích định lượng hóa sở hữu của từng đối tượng làm cơ sở để Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách quản lý thuế và thu thuế cho NSNN. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vừa chịu sự điều tiết theo cơ chế "Bàn tay vô hình" của thị trường, theo quy luật cung cầu, quy luật giá trị, vừa chịu sự điều tiết theo cơ chế "Bàn tay hữu hình" của Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, chủ trương chính sách đồng bộ. Thị trường và Nhà nước đóng vai trò là người phân bổ các nguồn lực cho sự phát triển các thành phần kinh tế. Đề cao quá mức vai trò của thị trường mà coi nhẹ hay phủ nhận vai trò của Nhà nước hoặc ngược lại đều không đạt được sự phát triển và tăng trưởng nền kinh tế một cách hiệu quả và bền vững. - Khái niệm và đặc điểm kinh tế NQD:
  16. Trong cơ chế thị trường nền kinh tế bao gồm hai khu vực: Kinh tế nhà nước chủ yếu thực hiện chức năng dịch vụ công cộng, nặng về mục tiêu chính là lợi ích chung của toàn xã hội; KTNQD chủ yếu làm chức năng kinh doanh mưu cầu lợi nhuận. Từ đó trong cơ cấu sản xuất xã hội, KTNQD được coi là một thực thể khách quan, gồm các thành phần kinh tế được xác định tùy theo đặc điểm kinh tế - xã hội và đường lối chính trị của mỗi Nhà nước trong từng giai đoạn khác nhau như, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản nhà nước... Khu vực KTNQD: là khu vực kinh tế bao gồm các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh bằng vốn của các tổ chức, của một số cá nhân góp lại; hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường vì mục tiêu lợi nhuận. KTNQD có nhiều đặc điểm riêng biệt, nhưng có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản sau: + Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do tư nhân quản lý và phân phối lợi nhuận; + Có tính tư hữu cao, trình độ phổ biến thấp, cho nên hiểu biết về luật cũng nh ư ý thức chấp hành pháp luật chưa cao; + Vốn ít, số lượng cơ sở nhiều, nằm rải rác, phân tán ở tất cả các địa phương trong cả nước; + Số thu hàng năm chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số thu ngân sách; + Thường xuyên biến động về số lượng cơ sở, tùy thuộc vào chính sách, chế độ của Nhà nước trong từng thời điểm; Mục tiêu của chủ doanh nghiệp trong khu vực KTNQD chính là lợi nhuận, do vậy không ít cơ sở luôn tìm mọi cách, mọi sơ hở của cơ quan thuế, cán bộ thuế, chính sách, chế độ, để luồn lách, trốn thuế. Các hình thức tồn tại phát triển của khu vực KTNQD rất đa dạng với số lượng lớn, ý thức trong việc thực hiện luật pháp với mức độ khác nhau, tùy theo trình độ phát triển ở mỗi quốc gia. Song rõ ràng đây là một lĩnh vực phức tạp trong quản lý thu thuế. Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong những năm gần đây số lượng cơ sở NQD tăng nhanh, cụ thể: khối doanh nghiệp NQD: năm 1999 có 137 cơ sở, năm 2000 có 190 cơ sở, năm 2001 có 284 cơ sở, đến tháng 4/ 2002 có 316 cơ sở; khối hộ kinh doanh cá thể: năm có 1999
  17. có 14.301 hộ, năm 2000 có 15.270 hộ, năm 2001 có 15.131 hộ (hộ thuộc diện quản lý thuế môn bài) [4], [6], [7], [8]. Sự phát triển ở khu vực KTNQD ở nước ta những năm qua đã tạo thêm nhiều của cải vật chất cho xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần không nhỏ vào sự ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế. - Ưu nhược điểm của kinh tế NQD: KTNQD có tiềm năng lớn về trí tuệ, kiến thức, tiền vốn, lao động, sản phẩm, hợp tác, liên doanh, liên kết... + Tiềm năng quan trọng nhất của KTNQD là khả năng vô tận về trí tuệ, sáng kiến cá nhân trong đội ngũ những người lao động, trong nhân dân. Kinh nghiệm của các nước có nhiều thành công trong phát triển kinh tế (Hồng Kông, Đài Loan, Singapo, Nhật Bản, Hàn Quốc...) cho thấy các tiềm năng bên trong như đất đai, tiền vốn trong thời kỳ đầu của sự phát triển ở các nước này đều rất hạn chế. Nhưng nhờ phát huy được trí tuệ, sáng kiến cá nhân và đầu tư xây dựng kinh tế, đồng thời có sự quản lý đúng đắn của Nhà nước, cho nên chỉ sau một thời gian không dài đã làm nên những kỳ tích vĩ đại trong phát triển kinh tế. Đối với nước ta, khi công cuộc đổi mới được triển khai từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nhiều sáng kiến cá nhân của quần chúng lao động, của nhân dân đã và đang được phát huy cả trong lao động sản xuất cũng như trong việc tìm tòi các hình thức kinh doanh thích hợp, năng động, từng bước đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của thị trường. + Tiềm năng về kiến thức, kinh nghiệm quản lý, nâng cao tay nghề, đặc biệt là phát huy kiến thức, bí quyết truyền thống được tích lũy qua nhiều đời là nguồn tiềm năng vô cùng to lớn cho sự tăng trưởng kinh tế nếu được khởi động với những chính sách, chủ trương thích hợp. Hiện nay nguồn "chất xám" của KTNQD cũng rất đa dạng, có loại được Nhà nước đào tạo trong các trường chính quy từ công nhân, kỹ sư, nhà kinh tế đến các thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư.... Có loại cá nhân tự bỏ tiền ra để học lấy một nghề nhất định ở trong hoặc ngoài nước. Có loại do các doanh nghiệp NQD sau khi tuyển dụng lao động bỏ tiền đào tạo hoặc đào tạo lại.
  18. + Nguồn vốn trong khu vực KTNQD nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác đã và đang được tích lũy ngày càng lớn. ở hầu hết các nước, nguồn vốn đầu tư từ phía Nhà nước không đáng kể (chiếm từ 13% - 30% tổng vốn đầu tư). Các nước đều có chính sách thỏa đáng để huy động nguồn lực to lớn từ nguồn vốn của KTNQD. Nếu Chính phủ có chính sách đúng đắn, tạo môi trường thuận lợi, tạo lòng tin trong nhân dân, nhất định họ sẽ sẵn sàng bỏ vốn đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tăng trưởng mạnh mẽ. + KTNQD có tiềm năng lao động to lớn và góp phần đáng kể vào việc giải quyết việc làm cho xã hội. ở nước ta hàng năm bình quân có khoảng 1,243 triệu người đến tuổi lao động [35, tr. 248], bao gồm: lực lượng thanh niên đến tuổi lao động, số học sinh tốt nghiệp dạy nghề, trung học, cao đẳng, đại học hoặc những người lao động thất nghiệp do sắp xếp lại biên chế trong các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp hoặc do sắp xếp lại sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân, những người bán thất nghiệp ở nông thôn, thành thị. Đây là nguồn lao động rất dồi dào mà Nhà nước ta chưa khai thác hết được. Nếu chỉ thông qua các doanh nghiệp nhà nước thì sẽ không thu hút được hết những người lao động. Thực tế trong những năm qua cho thấy, ở thời điểm cao nhất kinh tế nhà nước chỉ thu hút khoảng 2 triệu lao động. Trong khi đó riêng kinh tế NQD trong công nghiệp và dịch vụ năm 1992 đã thu hút trên 1,2 triệu lao động [30]. Chỉ thông qua KTNQD với mọi hình thức, mọi quy mô, mọi loại ngành nghề, áp dụng nhiều phương thức tổ chức, sử dụng một cách linh hoạt mọi loại lao động của xã hội mới có thể tận dụng được các lực lượng dôi thừa. Kinh nghiệm của các nước Tây Âu, hơn 70% kết quả tăng trưởng của nền kinh tế là do lao động tạo ra, 30% còn lại là do tiền vốn thiết bị. Đối với Việt Nam có đội ngũ lao động đông đảo, nếu biết cách phát huy và khai thác thì đó là một lợi thế chứ không phải là gánh nặng. Lao động của KTNQD ở Việt Nam còn có tiềm năng quan trọng được bộc lộ rõ thông qua quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, bộ máy nhà nước đã bành trướng quá mức. Khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ chế quản lý mới có sự quản lý của Nhà nước, chính khu vực kinh tế nhà nước đã là nguồn cung cấp nhân lực dồi dào cho KTNQD. Theo tài liệu
  19. điều tra của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, đã có 72% giám đốc các công ty trách nhiệm hữu hạn đã từng là công chức Nhà nước; 10,4% giám đốc các công ty này đã từng là giám đốc doanh nghiệp nhà nước. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, 30% giám đốc đã từng là cán bộ công chức nhà nước. Khi chuyển sang lĩnh vực KTNQD, không những họ đã sử dụng trình độ lành nghề trong kinh doanh mà còn có cả vốn liếng tích lũy được (bằng tiền trợ cấp thôi việc, bằng tiền hưu trí...), thậm chí máy móc kỹ thuật từ nguồn thanh lý, giải thể của các doanh nghiệp nhà nước. Điều này có thể lý giải phần nào tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong khi một bộ phận lớn của kinh tế nhà nước bị thu hẹp, giải thể hoặc ngưng sản xuất do làm ăn thua lỗ, không thích ứng được với cơ chế kinh tế mới [30]. + KTNQD còn là môi trường thuận lợi để hợp tác kinh tế với nước ngoài. Trong nền kinh tế mở hiện nay, sự giao lưu với các nước phát triển mạnh về mọi mặt đó là một tất yếu khách quan. Đ ại hội Đảng lần IX đã xác định: Phát triển đa dạng kinh tế nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước, ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh; chú trọng phát triển các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước, ngoài nước [21, tr. 99]. Tại các nước, liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do KTNQD thực hiện vì là khu vực năng động, làm ăn có hiệu quả, thích ứng nhanh với sự biến động hoặc thay đổi của thị trường, của khách hàng. Trong khi đó ở nước ta hiện nay, các liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do kinh tế nhà nước thực hiện. Nhiều Việt kiều muốn đầu tư về quê hương gặp không ít khó khăn trong việc tìm đối tác liên doanh. + Sự đa dạng của KTNQD tạo ra nguồn sản phẩm đa dạng, phong phú đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng của xã hội ở mọi nơi, mọi thời điểm. Thực tế nhiều năm qua ở các nước XHCN và ở Việt Nam đều cho thấy nền kinh tế chủ yếu dựa trên KTQD thì hàng hóa sẽ nghèo nàn về chủng loại, số lượng. ở Liên Xô cũ, sau 70 năm xây dựng CNXH với hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước chỉ có 10 triệu loại sản phẩm. Trong khi đó ở Nhật Bản một nước nhỏ bé hơn nhiều về dân số và diện tích có tới 1,4 triệu doanh nghiệp với hơn 50
  20. triệu loại sản phẩm. ở nhiều nước Đông Nam á, KTNQD đang được đánh giá là nguồn lực chủ yếu làm tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu, có thể tạo thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng lên rất nhanh. Đường lối phát triển kinh tế - xã hội dựa vào KTNQD về cơ bản là một chiến lược hướng vào thị trường. KTNQD có thể quyết định và điều chỉnh nhanh chóng sản xuất cái gì, đầu tư vào đâu để có lợi nhuận nhiều nhất. ở các nước đang phát triển, KTNQD trở thành động lực kích thích kinh tế phát triển tốt hơn so với sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quá trình kinh tế và dựa vào kinh tế nhà nước là chủ yếu. Việt Nam, tuy KTNQD mới được công nhận và phục hồi nhưng trong những năm qua đã xác định được chỗ đứng xứng đáng, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Sự đóng góp của KTNQD không chỉ dừng lại ở mặt làm tăng tổng sản phẩm trong nước, thêm nhiều hàng hóa với nhiều mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý mà còn tạo ra môi tr ường thuận lợi cho giải quyết việc làm, nâng cao đời sống xã hội, cả cho người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Từ một số thế mạnh của KTNQD, có quan điểm muốn tư nhân hóa một cách triệt để nhằm huy động được tối đa mọi nguồn lực, khai thác mọi tiềm năng, lợi thế đang tiềm ẩn trong KTNQD. Thực ra, quan điểm này chưa thấy hết được những khiếm khuyết của KTNQD. Tuy là một khu vực năng động nhưng thiếu định hướng và không bao quát hết mọi nhu cầu xã hội, tự phát theo cơ chế thị trường, trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan nhà nước; không ít cơ sở đã hoạt động vô chính phủ, kinh doanh trái phép, buôn bán trốn lậu thuế. Điều đó càng trở nên khó khăn, phức tạp đối với một nền kinh tế sản xuất nhỏ, phân tán, chưa quen với văn minh công nghiệp, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện như ở nước ta. Việc khuyến khích KTNQD để phát triển kinh tế - xã hội không đồng nghĩa với việc buông lỏng quản lý, để mặc cho các thành phần kinh tế tự do phát triển. Ngược lại, đòi hỏi Nhà nước phải quản lý, định hướng, phải có hệ thống pháp luật được thể chế hóa đầy đủ rõ ràng cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô, để có thể phát huy đến mức tối đa mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt tiêu cực của KTNQD trong cơ chế thị trường.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2