Những vấn đề mới trong công nghệ thực phẩm ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe
lượt xem 97
download
Ngày nay, khi điều kiện sống của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu sử dụng thực phẩm tốt cho sức khỏe ngày càng tăng và đang bước chuyền dần từ loại có chứa các chất dinh dưỡng cho cơ thể cũng như tác dụng ngăn ngừa hay chữa bệnh phát triển của chính cơ thể người sử dụng, đặc biệt là hệ vi sinh vật có ích cho cơ thể chính người sử dụng. Hệ tiêu hóa của chúng ta chứa thường trực trên 400 loại vi khuẩn khác nhau với tổng số trên 100 000 tỉ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Những vấn đề mới trong công nghệ thực phẩm ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe
- BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP.HCM VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC & THỰC PHẨM TIỂU LUẬN MÔN NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI TRONG CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM ẢNH HƯỞNG CỦA PREBIOTIC ĐẾN SỨC KHỎE GVHD: ThS. Dương Văn Trường Lớp: ĐHTP6LT Phạm Thị Kim Oanh SVTH: 10349741 Nguyễn Thị Bích Thuỷ 10324581 Trần Thị Kim Xuân 10343471 Niên Khoá: 2010-2012 TPHCM, Tháng 2 năm 2012
- MỤC LỤC Trang TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 2 LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1 CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA PREBIOTIC ĐỐI VỚI SỨC KHỎE.......................8 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, khi điều kiện sống của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu sử dụng thực phẩm tốt cho sức khỏe ngày càng tăng và đang từng bước chuy ển dần từ loại có chứa các chất dinh dưỡng cho cơ thể cũng như tác dụng ngăn ngừa hay chữa bệnh. Một trong những xu hướng thực phẩm hướng tới trong tương lai là những thực phẩm chức năng mang lại nhiều lợi ích cho con người, mang bản chất tự nhiên là chính, kích thích sự phát triển của chính cơ thể người sử dụng, đặc biệt là hệ vi sinh vật có ích cho cơ thể chính người sử dụng. Hệ tiêu hóa của chúng ta chứa thường trực trên 400 loại vi khuẩn khác nhau với tổng số trên 100 000 tỉ vi khuẩn. Đây là những vi khuẩn có ích cho cơ thể. Chúng tạo thành hệ vi sinh đường ruột. Đây là những vi khuẩn đồng minh của cơ thể chúng ta, chúng đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của mỗi người. Từ những nghiên cứu về lợi ích của những vi khuẩn lên men trong thực phẩm như sữa chua đối với sức khỏe con người, dòng sản phẩm bổ sung vi khuẩn sống hay cơ chất cho khuẩn sống prebiotic ra đời, chúng là những chất bột đường glucide không tiêu hóa được và vẫn còn nguyên vẹn khi vào đến ruột già (colon). Prebiotic được đánh giá là có nhiều tác dụng bổ dưỡng cho người tiêu dùng ở mọi lứa tuổi và một số người bị bệnh đường tiêu hóa…. chúng kích thích sự hoạt đ ộng c ủa probiotics đặc biệt là nhóm Bifidobacterium. Prebiotic giúp vào việc cải thiện hệ miễn dịch, giúp hấp thụ chất calcium, và có thể làm giảm nguy cơ xuất hiện của một vài loại cancer nữa.. Đây là một trong những xu hướng phát triển mới của ngành công nghệ thực phẩm. Phát triển những những sản phẩm bỗ dưỡng cho sức khỏe người tiêu dùng. Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 1
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ PREBIOTIC 1.1. Khái niệm Khái niệm về prebiotic đã được đưa ra trong khoảng 10 năm trở lại đây, trong đó prebiotic được định nghĩa là một thành phần thực phẩm không bị tiêu hóa, có tác động tích cực đến cơ thể thông qua sự kích thích có chọn lọc một số loại vi khuẩn sống trong ruột kết (ruột già), và qua đó gia tăng sức khỏe cho cơ thể.[2] Prebiotics ban đầu được định nghĩa là các thành phần thực phẩm không tiêu hóa được mà ảnh hưởng một cách thuận lợi đến vật chủ bằng cách kích thích chọn lọc sự tăng trưởng các hoạt động của một hoặc một số hạn chế của vi khuẩn trong ruột kết, qua đó nâng cao sức khỏe của vật chủ.[1] Tuy nhiên, một định nghĩa gần đây là "Prebiotic là một thành phần lên men chọn lọc, cho phép những thay đổi cụ thể, cả về thành phần hoặc hoạt động của hệ vi sinh vật trong hệ tiêu hóa mà lợi ích nó mang lại cho vật chủ là tình trạng sức khỏe lành mạnh".[1] Theo các định nghĩa này, các prebiotic có khả năng "chống lại sự tiêu hóa và hấp thu ở dạ dày và ruột non, và được vận chuyển đến ruột già gần như nguyên vẹn về mặt cấu trúc, nơi chúng được lên men dưới tác dụng của hệ vi khuẩn bám trên thành ruột già". Khi đã vào đến ruột già, các prebiotic phát huy tác dụng kích thích có chọn lọc sự gia tăng về số lượng cũng như hoạt động của một số loại vi khuẩn nhất định, là những vi khuẩn có lợi, cụ thể như các vi khuẩn loại bifidobacteria hay lactobacilli, đồng thời làm giảm số lượng của các chủng vi khuẩn kị khí tùy ý nh ư Escherichia coli và Clostridia.[2] Khái niệm chủ yếu liên quan với cả những định nghĩa này là prebiotic có tác dụng chọn lọc trên hệ vi sinh vật mà kết quả trong việc cải thiện sức khỏe của vật chủ. Các prebiotics thường gặp trong sử dụng bao gồm inulins, fructo- oligosaccharides (FOS), galacto oligosaccharides (GOS), soybean-oligosaccharides, xylo-oligosaccharides, pyrodextrins, isomalto-oligosaccharides và lactulose. Phần lớn các nghiên cứu thực hiện cho đến nay đã tập trung vào inulin, FOS và GOS.[1] Kiểm tra hơi thở của những người sau khi uống prebiotics cho thấy sự gia tăng bài tiết hydro, và không có tăng đường huyết hoặc insulin.[1] Prebiotics tìm thấy ở: Đậu nành. • Yến mạch nguyên cám. • Lúa mì nguyên cám. • Lúa mạch nguyên cám. • Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 2
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường Thực phẩm bổ sung (prebiotic). • Prebiotics có nhiều trong sữa mẹ và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của hệ thống miễn dịch của trẻ. 1.2. Thành phần, đặc điểm, tác dụng của các chất tạo nên Prebiotic. Có hai loại prebiotic. Prebiotic loại tự nhiên được tìm thấy chủ yếu trong các loài thực vật như: chuối, măng tây, đậu, đậu nành, rau diếp xoăn, y ến mạch, lúa mì nguyên cám, lúa mạch nguyên cám, tỏi, cà chua,… chẳng hạn như fructooligosaccharide (FOS), inulin,.. và trong sữa như Galactooligosaccharide (GOS). Ngoài ra, Prebiotic còn được tổng hợp từ sự phân hủy các polysaacharides bằng enzyme, ví dụ như từ tinh bột biến tính. [9] [2] Các Prebiotic được dùng phổ biến nhiều nhất hiện nay là inulin, fructooligosaccharide (FOS), Galactooligosaccharide (GOS), xylooligosaccharide (XOS), lactulose, isomaltooligosaccharide (IMO) transgalactooligosaccharides(TOS)...Trong đó inulin là một trong số những prebiotic được nghiên cứu và tìm hiểu rõ nhất. Hiện nay, có thêm một số prebiotic mới nh ư đường pectincoligosaccharide, lactosucrose, alcohol, xylosaccharide, glucooligosaccharide, levans và oligosaccharide đậu nành. [9] 1.2.1. Galactooligosaccharide (GOS) Galactooligosaccharide là thành phần tương tự chất xơ tan có nguồn gốc từ lactose trong sữa mẹ, sữa bò và yogurt. GOS bao gồm các chuỗi đường đơn galactose nối với nhau và ở cuối chuỗi là đường glucose(một chuỗi ngắn bao gồm 3 – 10 phân tử glucose và galactose liên kết với nhau bởi liên kết glucozit.). [9] [2] GOS là chất có thể dễ dàng tìm thấy trong tự nhiên hoặc có thể tổng hợp nhân tạo từ lactose nhờ enzyme β – galactozidaza. GOS cũng là một Prebiotic được ứng dụng rộng rãi vì có khả năng kích thích hoạt động của các vi sinh vật có lợi trong hệ tiêu hóa, kích thích việc sản xuất các axit béo ngắn mạch, làm tăng khả năng hấp thụ Ca và Mg… từ đó năng cao sức khỏe con người và vật nuôi. [9] [2] GOS kích thích một cách có chọn lọc sự phát triển của các loài vi khuẩn có l ợi và mang lại hiệu quả tốt cho sức khỏe. Sự lên men GOS trong ruột già tạo ra các axit béo chuỗi ngắn ( SCFA) như là acetate, propionate, lac tate và butyrate có l ợi cho s ức khỏe vật chủ. [9] 1.2.2. Fructooligosaccharide (FOS) FOS là một chuỗi oligosaccarit ngắn bao gồm các phân tử D – fructose và D – glucose dài từ 3 đến 5 monosaccarit. Oligofructose (một FOS hỗn hợp) là sản phẩm thủy phân bởi enzyme từ inulin bao gồm hỗn hợp các chuỗi có đầu fructose và glucose, độ dài chuỗi gồm từ 2 đến 7 đơn vị được tìm thấy trong actiso, hành củ, tỏi Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 3
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường tây, một số loại ngũ cốc và mật ong. Vì FOS có các phân tử đường trong cấu trúc nên chúng có vị ngọt dịu. FOS có khả năng chống chịu, không bị tiêu hóa ở dạ dày trên, do đó có khả năng kích thích sự phát triển của chủng Lactobacillus và Bifidobacterium ở ruột già nhưng không kích thích các mầm bệnh. FOS làm tăng khả năng hấp thụ Canxi và Magie đồng thời làm giảm triglycerit. Ở động vật, FOS cho thấy khả năng chống ung thư, làm giảm đáng kể sự hình thành các khối u đường ruột. [9] [2] Inulin Inulin là một chuỗi oligosaccarit dài gồm các gốc fructose được nối với nhau bởi liên kết β – 2,1 – glucozit và glucose ở tận cùng, thuộc vào lớp cacbonhydrat gọi là fructan. Các loại thực vật có khả năng tạo inulin được tìm thấy trong một vài họ một lá mầm và hai lá mầm như họ thủy tiên…, rau diếp xoăn, hành, tỏi, măng tây, chuối…[9]. Inulin không bị phân giải trong ruột non mà chỉ bị phân giải bởi vi sinh vật trong ruột già và kích thích sự phát triển của Bifidobacterium trong ruột già. Inulin có khả năng giữ nước, thay thế chất béo và đóng góp năng lượng tối thiểu, đồng thời có hương vị ngọt nên được bổ sung vào rất nhiều loại thực phẩm khác nhau, sử dụng làm chất thay thế đường, chất thay thế chất béo, tạo độ cứng và ổn định bọt…hoặc dùng trong các loại thực phẩm hỗn hợp như các sản phẩm sữa lên men, các món khai vị, các thực phẩm nướng, thực phẩm dinh dưỡng cho trẻ…[9] Hì nh 1.1. Cấu trúc GOS và FOS 1.2.3. Lactosucrose Lactosucrose -β là sản phẩm kết hợp lactose và surcose bởi liên kết fructofuronosidase. Lactosucrose là prebiotic tổng hợp là tự phân giải của enzyme. Lactosucrose kháng lại sự phân giải trong dạ dày và trong ruột non, tác động lên hê vi sinh vật đường ruột làm gia tăng đáng kể sự phát triển của các loài Bifidobacterium. Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 4
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường Lactosucrose được sử dụng rộng rãi ở Nhật và Mỹ trong thực chức năng, kể cả yogurt. [9] Hình 1.2. Cấu trúc phân tử Lactosucrose 1.2.4. Lactulose Lactulose là một loại đường tổng hợp từ latose(galactose-glucose)qua sự đồng hóa glucose thành fructose. Chính cấu trúc này giúp cho lactulose không thể bị phân giải bởi enzyme của động vật hay người mà vẫn không bị thay đổi khi đến ruột già. Lactulose đến ruột già sẽ được các vi sinh vật ở đây (như Bifidobacteria và Lactobacilli) lên men tạo ra một lượng các axít béo chuỗi ngắn (SCFA) có lợi cho việc tiêu hóa. Đồng thời chúng làm giảm pH và tăng áp suất thẩm thấu làm thúc đẩy nhu động của ruột. Ngoài ra, sự giảm pH còn giúp ức chết sự hình thành các chất gây hại như ammonia bởi vi khuẩn . Nó còn kích thích sự phát triển của các chủng vi sinh vật có lởi, giúp tăng cường hàng rào miễn dịch của cơ thể, giúp phòng bệnh. [9] Hình 1.3. Cấu trúc phân tử Lactulose 1.2.5. Isomaltooligosaccharide (IMO) Isomaltooligosaccharide là prebiotic tổng hợp, được tạo ra từ tinh bột bởi sự phân giải của enzyme. IMO bao gồm glucose và những phân tử đường saccharide khác. IMO kích thích sự phát triển của các loài Bifidobacterium và Lactobacillus trong ruột già. [9] Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 5
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường 1.2.6. Glucooligosaccharide Glucooligosaccharide là prebiotic tổng hợp từ sự phân giải của enzyme glucosyl transferase. Glucooligosaccharide được lên men bởi các loài thuộc nhóm Bifidobacteria, ngoại trừ B. bifidum. [9] 1.2.7. Xylooligosaccharide (XOS) XOS bao gồm các phân tử 1-4 linkage. XOS có thể là đường β- xylose nối với nhau bởi những liên kết được phân giải bởi Bifidobacteria và Lactobacilli. XOS được cho rằng có hiệu quả hơn FOS trong việc gia tăng khuẩn probiotic và làm giảm khuẩn gây hại. XOS có tiềm năng cải thiện hàm lượng đường trong máu và sự trao đ ổi chất chất béo; phục hồi sự rối loạn của hệ vi sinh vật trong đường ruột do dùng kháng sinh, liệu pháp hóa trị hay xạ trị; gia tăng sự hấp thu khoáng và sự hình thành vitamin nhóm B và làm giảm sự hình thành các chất gây hại trong ruột. [9] Hình 1.4. Cấu trúc phân tử của Oligosaccarit 1.2.8. Transgalactooligosaccharide (TOS) TOS bao gồm các phân tử đường glucose và galactose. Chúng được tạo ra từ lactose bởi sự phân giải của enzyme thu nhận từ nấm mốc Aspergillus oryzae. TOS kháng lại sự phân giải trong đoạn dạ dày ruột trên, vì vậy chúng có khả năng kích thích sự phát triển của các loài Bifidobacteria trong ruột già. TOS đ ược Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 6
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường thương mại ở Nhật và Châu Âu, Mỹ như là thực phẩm chức năng, TOS đã được chứng mình là có hiệu quả hấp thụ Ca và ngăn ngừa bệnh loãng xương. [9] 1.2.9. Oligosaccarit đậu tương Là các loại oligosaccarit có trong đậu tương và các loại đậu khác, chủ yếu là trisaccarit raffinose và tetrasaccarit stachyose. Raffinose bao gồm các phân tử D – galactose, D – glucose, D – fructose, stachyose chứa hai phân tử D – galactose, một phân tử D – glucose, một pt D – fructose. Chúng có tác dụng kích thích sự phát triển của loài Bifidobacterium trong ruột già nên đang được nghiên cứu làm thực phẩm chức năng. [9] 1.2.10. Xylo – oligosaccarit Tạo thành bởi các oligosaccarit chứa xylose liên kết với nhau bởi liên kết β. Xylo – oligosaccarit có mức độ polymer hóa từ 2 -4, là sản phẩm của quá trình thủy phân xylan bởi enzyme. Chúng không bị tiêu hóa ở ruột non và có tác dụng kích thích sự phát triển của loài Bifidobacterium trong ruột già, có khả năng làm tăng nồng độ đường trong máu, tăng cường trao đổi chất béo, tăng khả năng hấp thụ khoáng và vitamin B đồng thời làm giảm khả năng nhiễm trùng ruột.[9] Có một số nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tất cả những tác động của oligosaccharide trong ruột, cụ thể như: [2] + Bản chất của chính oligosaccharide + Liều lượng oligosaccharide đang hiện diện + Thời gian oligosaccharide được tiêu thụ (qua quá trình lên men) + Khu vực chính diễn ra hoạt động lên men oligosaccharide (gần hoặc xa khu vực ruột già) + Thành phần cấu tạo của hệ vi khuẩn trong ruột lúc đầu. Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 7
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA PREBIOTIC ĐỐI VỚI SỨC KHỎE 2.1. Tính đặc trưng và các hiệu ứng sinh lý của Prebiotics 2.1.1. Mucosal Structure – Cơ cấu, tổ chức niên mạc. Prebiotics có thể có tác dụng dinh dưỡng trực tiếp vào cấu trúc của niêm mạc đại tràng. Các nghiên cứu trên chuột được cho ăn rau diếp xoăn có chứa inulin và oligofructose, hoặc pectin trong 4 tuần thì thấy tăng số lượng của các tế bào biểu mô, và tăng cường các chức năng bài tiết của chúng. Các nghiên cứu trên niêm mạc chuột và đại tràng phát hiện nồng độ 10 g / l của một hỗn hợp FOS / Inulin (Raftilose 1 Synergy 1) tăng gấp 2,2 lần diện tích bề mặt vĩ mô, và mô bức tường trọng lượng tăng 2,4 lần.[1] Các cơ chế chính xác của những thay đổi hình thái này xảy ra đến giờ vẫn chưa được biết đến, một sản phẩm chính của vi khuẩn trong quá trình lên men chuyển hóa carbohydrate trong ruột là butyrate, được biết là có tác động dinh dưỡng kích thích đến sự tăng sinh niêm mạc, trong khi lactic acid kích thích quá trình nguyên phân trong biểu mô chuột. Vì vậy có thể là SCFA chịu trách nhiệm cho những thay đổi thích ứng. Khái niệm này được hỗ trợ bởi thí nghiệm thực tế về những thay đổi dinh dưỡng không xảy ra trong prebiotic mà động vật sử dụng không có mầm bệnh và quá trình trao đổi chất của vi khuẩn chịu trách nhiệm để gây thay đổi cấu trúc lớn trong thành ruột.[1] 2.1.2. Intestinal Mucus - Chất nhầy trong đường ruột Chất nhầy trong đường ruột là một glycoprotein giàu cysteine mucin có trọng lượng phân tử cao (m.w> 106) và các peptide, sản xuất bởi các tế bào goblet. Nó là một trong những dòng đầu tiên bảo vệ niêm mạc ruột và tạo thành một lớp dày nhớt trên bề mặt niêm mạc. Lớp chất nhầy là một rào cản năng động và mật đ ộ và s ố lượng tế bào cốc khác nhau trên khắp đường tiêu hóa, dày ở phần xa nhất của đại tràng. Nó cũng được đánh giá cao hơn trong quá trình sunfat hóa ruột xa, nơi vi khuẩn ở con số cao nhất.[1] Chất nhầy là một nguồn nitơ và carbon cho vi khuẩn, sản xuất liên tục bởi vật chủ làm cho điều kiện trong ruột thích hợp với vi sinh vật, mặc dù thực tế là rất ít vi khuẩn có thể sản xuất đầy đủ các enzyme cần thiết để làm suy giảm các phân tử trong đại tràng. Những sinh vật này bao gồm một số loài thuộc các chi Bifidobacterium, Bacteroides và Ruminococcus.[1] 2.1.3. Phytic Acid and Mineral Bioavailability – acid phytic và những lợi ích đạt được Phytic axit được tìm thấy chủ yếu trong các loại đậu, trong đậu có chứa các chất chống ung thư, các chất này được đưa đến đại tràng mà không bị phá hủy. Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 8
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường Phytate là một phân tử với sáu nhóm phosphate, cho phép nó có thể giữ các cation chất khoáng như sắt, kẽm và canxi, làm cho chúng không có sẵn cho sự hấp thụ của cơ thể. Thiếu sắt có liên quan với bệnh thiếu máu, thiếu hụt canxi có liên quan với bệnh loãng xương, và kẽm là cần thiết cho sự phát triển xương và sự trưởng thành. Nghiên cứu cho thấy rằng có một mối quan hệ nghịch đảo mạnh mẽ giữa số lượng acid phytic trong chế độ ăn uống và hấp thụ sắt. Chỉ một lượng rất nhỏ của axit phytic (0,7%) trong chế độ ăn uống là cần thiết để giảm một nửa sự hấp thụ sắt. Tuy nhiên, prebiotics được biết là có tác dụng kích thích sự hấp thụ sắt trong ruột già, bằng cách tăng phần hòa tan sắt trong các tế bào, và độ tăng cường hấp thụ đạt 23% (P
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường chủ, tuy nhiên, cần lưu ý rằng các sinh vật cần thiết để thúc đẩy sức khỏe không phải là đã hiện diện trong ruột, do bệnh, ví dụ, các prebiotic có thể biểu hiện không có tác dụng hữu ích.[1] Ngoài ra, nó có thể hữu ích để xem xét những ảnh hưởng của prebiotics không chỉ trên các quần thể phân, nhưng microbiotas trên niêm mạc ruột. Gần đây, một sự kết hợp hàng ngày là 7,5 g inulin và 7,5 g FOS được sử dụng để tăng mức độ bifidobacteria và eubacteria niêm mạc. Điều này có thể hữu ích trong việc điều trị các bệnh tiêu hóa như viêm loét đại tràng, mức giảm của bifidobacteria và dysbiosis chung trong các quần thể vi khuẩn niêm mạc đã được chứng minh là tồn tại.[1] 2. 3. Immune System – Hệ miễn dịch Ngày càng có nhiều quan tâm trong việc điều chế các các prebiotics hệ miễn dịch, có thể đặc biệt hữu ích trong điều kiện viêm nhiễm, hoặc ở trẻ em và người già. Bằng chứng đến nay cho thấy prebiotics có thể có tác động đáng kể đ ến hệ thống miễn dịch. Tuy nhiên, kết quả không rõ nếu đây là những tác động trực tiếp hoặc gián tiếp từ sự kích thích miễn dịch, hoặc sản xuất SCFA, được biết là có tính chất điều hòa miễn dịch, và có thể liên kết với SCFA thụ thể protein G kết trên các tế bào miễn dịch trong ruột liên quan mô bạch huyết.[1] Bổ sung FOS và lactulose trong chế độ ăn uống sẽ tăng sản xuất globulin miễn dịch niêm mạc, hạch bạch huyết mạc treo. Điều tra về tác động của prebiotics trên hệ thống miễn dịch đòi hỏi phải đánh giá cẩn thận về sự lựa chọn của các dấu hiệu, sẽ thay đổi, và phụ thuộc vào điều kiện nghiên cứu.[1] Các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra rằng các con chuột đ ược nuôi với FOS và Inulin có một cải thiện phản ứng với thuốc chủng salmonella. Sau 1 tuần tiêm chủng, nuôi cấy tế bào lách được hiển thị để gia tăng sản xuất các cytokine như INF- g, IL-12 và TNF-a cũng như salmonella cụ thể IgG, IgA. Nhìn chung, ý nghĩa là kết hợp FOS / Inulin vật chủ miễn dịch kích thích niêm mạc để sản xuất một phản ứng lớn hơn với vắc xin salmonella.[1] 2.4. Lipid Metabolism - Quá trình chuyển hóa lipid Điều tra thử nghiệm trên động vật, và một vài nghiên cứu ở người, đã cho thấy điều thú vị là cholesterol và chất béo trung tính trong cơ thể giảm, và lợi ích tim mạch liên quan với mức tiêu thụ prebiotic.[1] Những con chuột được bổ sung oligofructose có phos-pholipid và mức triacylglycerol thấp hơn đáng kể trong huyết thanh, và đặc biệt, giảm đáng kể mật độ lipoprotein huyết thanh rất thấp (VLDL), được sản xuất trong gan bởi assem-bling lipid và apoproteins.[1] Ở chuột được cho ăn một lượng chất béo cao, bổ sung oligofructose trong chế độ ăn uống, sau khi ăn thì lượng trigly-ceridaemia được giảm đi một nửa, không tăng Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 10
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường nồng độ cholesterol trong huyết tương, mà thường sẽ có tác dụng tốt sau một bữa ăn chất béo cao. Những phát hiện này lôi kéo một hiệu ứng ngoài gan của quá trình chuyển hóa lipid, được nêu ra không hoàn toàn hiểu rõ. Tuy nhiên, nó được mặc nhiên công nhận rằng có một liên kết với các hiệu ứng tiền sinh insulin, các hiệu ứng biểu hiện gen. Một cơ chế khác có thể là sản xuất propionate trong quá trình lên men đã được hiển thị để ức chế tổng hợp axit béo trong cơ thể. Khi acetate vào các tế bào gan, nó được kích hoạt bởi các enzyme và sau đó đi vào con đường lipogenesis, nhưng propionate cạnh tranh với các loại protein thúc đẩy nhập acetate các tế bào gan. Do đó, đề xuất một cơ chế của hành động là khả năng làm thay đ ổi acetate tỷ lệ propionate hình thành sự sống trong tế bào.[1] Ở động vật béo phì khi áp dụng một chế độ ăn uống bổ sung fructan, thì hiệu lực không được nhìn thấy trên triglyceridaemia sau ăn, nhưng giảm việc gan nhiễm mỡ. Giảm khối lượng chất béo và trọng lượng cơ thể cũng đã được quan sát thấy, và được xem là làm giảm các axit béo từ mô mỡ. Tỷ lệ tiêu hóa chất béo được giảm đáng kể ở chó khi cho sử dụng một chế độ ăn uống có oligosaccharide, có thể là một cơ chế vật chủ khác, làm giảm lượng lipid, và ảnh hưởng được thấy rõ trong các nghiên cứu khác.[1] 2.5. Mineral Absorption – Hấp thu chất khoáng Một trong những chức năng quan trọng của prebiotic đối với động vật có vú nói chung là cải thiện lượng hấp thụ canxi, magie, sắt và kẽm. Ngoài ra nó còn tăng cường trao đổi khoáng chuyển thành xương và có thể được nhìn thấy trong hình 2.1, , một số cơ chế hoạt động của prebiotic đã được đề xuất cho hấp thu khoáng ch ất. Mặc dù ngiên cứu về tác dụng của prebiotic đối với con người vẫn hạn chế và qui mô còn nhỏ. Nhưng prebiotic có thể có lợi trong việc ngăn ngừa loãng xương, đó là một bệnh khá phổ biến và thường gây đau đớn cho người bệnh. Cũng như phòng tránh bệnh thiếu máu liên quan đến chế độ ăn uống và tăng cường sự hấp thụ vi chất dinh dưỡng để tránh tình trạng suy dinh dưỡng.[1] Qua quá trình khảo sát ở động vật và con người lượng canxi được hấp thu ở đường ruột tăng lên 20% , và lượng canxi tăng lên này vẫn được duy trì thể hiện qua các phép đo trong cơ thể (Coudray 1997; Griffin 2002). Ở người, lượng canxi chủ yếu được hấp thụ trong ruột non, các nhà khoa học đã nghiên cứu bằng cách mở thông ruột hồi sau đó cho ăn prebiotic thì nhận thấy sự hấp thu canxi trong ruột non không tăng lên, do đó cho thấy rằng các prebiotic đã ảnh hưởng đến sự hấp thu canxi ở ruột già. Trong khảo sát điều tra đã phát hiện rằng canxi được hấp thu từ ruột kết, và qua quá trình trao đổi chất prebiotic làm tăng sự hấp thu canxi lớn ở ruột này.[1] Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 11
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường Hình 2.1: Cơ chế bổ sung khoáng chất từ prebiotic Ở đây một số xảy ra theo cơ chế lên men. Prebiotic lên men, cũng như quá trình thảo luận trước đó, nó làm giảm pH trong ruột già, qua đó nâng cao khả năng hòa tan canxi và sinh khả dụng cho sự hấp thụ. Lượng canxi được di chuyển qua biểu mô thông qua các kênh và bằng cách sinh ra ATP. Tăng khả năng hòa tan canxi làm tăng gradient trên biểu mô và thúc đẩy sự hấp thu thụ động, trong các hầu hết các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hấp thụ canxi chỉ xảy ra khi có sự chênh l ệch nồng đ ộ. Tuy nhiên, dùng chuột để thí nghiệm chi tiết để xem xét sự giảm pH là có hay là không có sử dụng các SCFA, và kết quả cho thấy rằng lượng canxi qua biểu mô tăng lên trong thí nghiệm SCFA, nó cũng có liên quan đến các cơ chế tiềm năng khác của vận chuyển ion hóa trị hai. Các nhà khoa học đã sử dụng các đoạn tế bào nhỏ và giảm sức chịu đựng về điện của chúng. Sau đó họ kết luận rằng một số prebiotic tương tác với các mối nối tế bào biểu mô chặt chẽ, và do đó làm tăng tính bán thấm về khoáng chất của các tế bào này.[1] Các cơ chế về tiềm năng khác đã được công nhận là tăng cường sự hấp thụ ion kim loại hóa trị hai dựa trên nghiên cứu từ dạ cỏ cừu trong ống nghiệm. Các nhà khoa học đề xuất ý kiến hấp thu trực tiếp canxi với sự hấp thu tràng SCFA và quá trình lên men, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến biểu hiện gen của các protein có liên quan đến cô lập và liên kết niêm mạc. Điều này đã được chứng minh bởi các thí nghiệm đo nồng độ mRNA của gen mục tiêu niêm mạc, phiên mã tăng lượng trao đổi Na + và Ca2+ và gắn kết với nhau, mà nó cũng làm tăng sự liên kết các canxi trong tế bào.[1] Nghiên cứu cũng xem xét các tác động khác nhau đến các chuỗi có chiều dài khác nhau, và các loại inulin mạch nhánh, các nghiên cứu đã không tìm thấy sự khác biệt đáng kể trong việc hấp thụ canxi và magie, với ngoại lệ là sự kết hợp của các Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 12
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường oligofructose và HP-inulin xuất hiện rất nhiều để làm tăng hấp thu canxi. Một chế độ ăn gồm inulin và FOS ở chuột cho thấy lượng canxi được hấp thu tương đối cao hơn nhiều so với không sử dụng. Tuy nhiên cơ chế này còn chưa rõ ràng và yêu cầu điều tra thêm.[1] Sự hấp thụ magie đã được chứng minh cụ thể có liên quan đến lactate trong ruột với độ pH thấp nhưng không liên quan đến SCFA. Acid lactic có tính acid cao hơn SCFA với ngụ ý rằng cơ chế này là hoạt động làm giảm độ pH trực tiếp do hấp thu. Mặc dù vậy, mặc nhiên người ta vẫn công nhận rằng các cơ chế tăng cường sự hấp thu magie với prebiotic là một đóng góp trực tiếp của SCFA thông qua một cơ chế trao đổi cation, các ion magie dược kích thích SCFA bằng cách kích hoạt Mg2+/2H+ trao đổi. Điều này chỉ được chứng minh trong các nghiên cứu trong ống nghiệm, bằng cách sử dụng các phân đoạn ruột sau của chuột. Butirat đ ược cho là SCFA hiệu quả nhất trong việc kích thích hấp thu magie trong niêm mạc. Hấp thu chất sắt từ ruột cũng được cho là tương quan với sự hiện diện của SCFA và tăng trọng lượng của các bức tường ruột thịt nhưng về kỹ thuật này làm tăng cường hấp thu sắt thì cần phải được làm rõ.[1] Giả sử ở người lớn các cơ chế này làm tăng hấp thụ canxi, thì việc tiêu th ụ prebiotic có thể xem là một tá dược có hiệu quả trong việc cải thiện lượng canxi cho người bị thiếu canxi và loãng xương bằng con đường uống, hoặc họ có thể dùng trước để ngăn ngừa trước khi bắt đầu bị mất khoáng, đã được quan sát trong chuột . [1] 2.6. Đối với trẻ sơ sinh Các oligosaccharide là yếu tố tiền sinh trong sữa của con người và nó làm tăng mức độ sử dụng của bifidobacteira của trẻ sơ sinh khi bú sữa mẹ so với tr ẻ sơ sinh bú chai. Giả định GOS giống như glycoconjugate là các thụ thể của bề mặt tế bào thì nó bảo vệ cơ thể trẻ chống lại các vi sinh vật gây bệnh. Prebiotic đã được con người ứng dụng để cung cấp cho trẻ sơ sinh từ lâu như ở tại nhật bản trong vòng 2 thập kỷ qua và ở châu âu trong 5 năm qua. Có rất nhiều cuộc thử nghiệm đã được tến hành ở trẻ sơ sinh với phần lớn cuộc thử nghiệm nhằm xác định khả năng của các prebiotic trong việc làm tăng bifidobacteria. Sau khi cuộc thử nghiệm đươc lặp đi lặp lại nhiều lần ở trẻ sơ sinh thì các ủy ban về khoa học thực phẩm của châu âu đã đồng ý cho thêm một hỗn hợp FOS trong công thức gồm 10% mạch ngắn và 90% mạch dài thêm vào sữa bột của trẻ em cho trẻ sơ sinh sử dụng là an toàn.[1] Oligosaccharide là một trong những thành phần chính của sữa mẹ, trung bình bao gồm: + 10g Oligosaccharide trung tính/ 1 lít sữa mẹ + 1g Oligosaccharide mang tính axit/ 1 lít sữa mẹ Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 13
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường Nồng độ của 2 chất này trong sữa mẹ thay đổi phụ thuộc vào những thời kỳ cho con bú khác nhau (các giai đoạn sau sinh), cao hơn trong sữa non (thường là tuần đầu sau sinh) và giảm dần vào các giai đoạn sau.[2] Thành phần oligosaccharide trong sữa mẹ rất phức tạp, trong đó khoa học mới chỉ khám phá ra khoảng hơn 100 loại chất có cấu trúc tương tự như oligosaccharide. Các oligosaccharide rất cần thiết trong vai trò thúc đẩy sự phát triển của hệ vi khuẩn có lợi bifidobacteria và tạo ra tính đề kháng bệnh tật của sữa mẹ.[2] Hệ vi khuẩn đường ruột gần như không tồn tại ở thời điểm trẻ mới chào đời, và gia tăng về số lượng trong các giai đoạn sau sinh. Hệ vi khuẩn đ ường ruột trong trẻ sơ sinh thường giống với hệ vi khuẩn đường ruột trong cơ thể người mẹ. Hệ vi khuẩn đường ruột của trẻ dùng sữa mẹ có 2 loại vi khuẩn bifidobacteria và lactobacilli phát triển và chiếm ưu thế; ở trẻ dùng nguồn dinh dưỡng công thức bổ sung, các loại vi khuẩn phát triển chiếm ưu thế lại là những vi khuẩn bất lợi cho hệ tiêu hóa như Enterobacteria và các vi khuẩn gram âm. Hiện tượng phát triển chiếm ưu thế của vi khuẩn bifidobacteria trong đường ruột trẻ dùng sữa mẹ được coi là góp phần vào tác dụng giảm thiểu các nguy cơ nhiễm khuẩn cho cơ thể. Các oligosaccharide có thể tham gia vào quá trình chống nhiễm khuẩn theo 2 cách sau: + Trực tiếp: Hoạt động tương tự như một đơn vị bám dính cho các vi khuẩn gây hại, tức là như một cái bẫy lôi kéo các vi khuẩn có hại tạo liên kết, qua đó kiềm chế sự phát triển của hệ các vi khuẩn này do chúng không sống cộng sinh lên thành ruột nữa. Bên cạnh đó, các oligosaccharide còn tương tác với các tế bào miễn dịch.[2] + Gián tiếp: Thúc đẩy mối quan hệ hội sinh (2 bên cùng có lợi) giữa các vi khuẩn có lợi, giúp hệ vi khuẩn này phát triển, đồng thời qua đó ức chế sự phát triển (về mặt dinh dưỡng và đất sống) của những vi khuẩn có hại.[2] Theo nghiên cứu, trong đó galacto oligosaccharides (GOS – dẫn xuất từ lactose) và fructo oligosaccharides (FOS – dẫn xuất từ chicory) dạng chuỗi dài được sử dụng chung dạng hỗn hợp. Sau 28 ngày bổ sung hỗn hợp GOS/FOS ở nồng độ 0,4g/100ml hay 0,8g/100ml cho trẻ nhỏ, kết quả cho thấy có sự phụ thuộc của tác động kích thích sự phát triển của hệ vi khuẩn bifidobacteria và lactobacilli ở đường ruột vào liều lượng bổ sung hỗn hợp GOS và FOS nói trên. Ngoài ra, hỗn hợp này còn giúp trẻ đi ngoài đều đặn, giảm táo bón.[2] 2.6.1. Bệnh dị ứng Khi sinh, trẻ ở tháng thứ 2 đã có mức cytokine cao từ người mẹ truyền qua. Bệnh dị ứng ở trẻ sơ sinh là do các chứng dị ứng IgE trung gian và khi trẻ qua tháng thứ 2 thường xảy ra dị ứng do cytokine thấp do đó lượng bifidobacteria tìm thấy trong phân của trẻ bị dị ứng thấp. Trên cơ sở này prebiotic hoạt động có tác dụng làm tăng họ bifidobacteria và làm miễn dịch trung gian. Ý tưởng này đã được các ban hành Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 14
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường quản lý khuyến khích và hỗ trợ dựa trên raffinose và các oligosaccharide alginate cho trẻ sơ sinh bị dị ứng, tạo ra sự giảm dị ứng ờ trẻ sơ sinh tháng thứ 2, có lẽ bằng cách này kích thích miễn dịch ở Th1 và tái cân bằng tăng khả ngă miễn dịch do tang cytokine chống viêm như Il-10 và TGF-β.[1] Prebiotic đã được nghiên cứu chứng minh là giảm đáng kể tỷ lệ mắc viêm da dị ứng ở trẻ sơ sinh bị dị ứng, điều này có liên quan đến sự gia tăng bifidobacteria được xét nghiệm trong phân trẻ, mặc dù phân đã được đông lạnh trước khi đi phân tích có thể sẽ ảnh hưởng đến sự sống sót phục hồi của vi khuẩn.[1] Một phần trong hệ thống miễn dịch của niêm mạc ruột (MALT) nó bao gồm một số lượng lớn sIgA để bảo vệ chống lại vi khuẩn và vi rút gây bệnh hoặc xâm nhập vào niêm mạc ruột. IgA được tiết ra một phần bị phân hủy bởi vi khuẩn đường ruột, nhưng phân hủy đến một mức độ nào đó thì các kháng thể sinh vật sẽ ngăn chặn để chống lại sự phân hủy này. Em bé được bú sữa mẹ ít bị các bệnh về dị ứng hơn so với em bé uống sữa ngoài và họ cũng cho biết là nồng độ IgA cũng thấp hơn. Em bé được bú sữ mẹ thì có các chỉ số có thể được tăng là lượng bifidobacteria và lactobacilli, FOS. Một nghiên cứu của Scholtens (năm 2008) được nghiên cứu trên 215 trẻ em khỏe mạnh trong 26 tuần đầu tiên khi chào đời, trẻ được chọn ngẫu nhiên để thực hiện GOS và FOS hoặc giả dược, và sự dụng phương pháp ELISA đ ể đo sIgA trong phân kết quả cho thấy sIgA trong nhóm được dùng orebiotic cao hơn đáng kể là 719mg/g so với 263mg/g trong nhóm dùng giả dược (P < 0.001), lượng bifidobacteria trong phân cũng cao hơn (P < 0.04, Scholtens năm 2008), và nó cũng có l ượng clostridia thấp hơn trong nhóm dùng prebiotic (P = 0.006). Nó được hiểu như là một bằng chứng cho khả năng miễn dịch của niêm mạc. Cơ thể có thể hỗ trỡ các tiền sinh từ immunomodulate như đã mô tả ở trên và INF-γ được biết đến là thành phần tiết của tế bào mô tạo IgA. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu ở chuột khi cho ăn ti ền sinh thì mối tương quan giữa nồng độ sIgA caecal trong sản xuất interferon thay đổi, lập luận này chống lại vai trò tiềm năng của các cytokine.[1] 2.6.2. Viêm ruột hoại tử Ở trẻ sơ sinh đẻ non, các bifidobacteria thấp còn entrerbacteria và clostridia cao do đó trẻ dễ mắc một số bệnh sớm, ví dụ như viêm ruột hoại tử (NEC) là do liên kết của các vi sinh vật gây hại, Klebsiella và E.coli. Trong quá trình cho con bú bằng sữa mẹ thì nó được miễn dịch luôn luôn được bảo vệ chống lại bệnh viêm ruột hoại tử , và trong các mô hình chuột bifidibacteria góp phần làm giảm nguy cơ mắc bệnh viêm ruột hoại tử. Trong mô hình chim cút, sử dụng chất tiền sinh và prebiotic làm giảm lassions caecal trong ruột, nhưng không có nghiên cứu ở người về tác dụng cống viêm ruột hoại tử khi dùng prebiotic. Các cơ thể động vật chỉ được nghiên cứu trong một chừng mực nào đó, do đó cần phải lưu ý những thay đổi trong các quần thể vi khuẩn, đặc biệt tăng 1lượng bifidobacteria lactobacilli. Có lẽ, có rất nhiều loại prebiotic có Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 15
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường hữu ích trong việc phòng ngừa bệnh này chẳng hạn như các tác dụng kháng khuẩn và chứa năng bài tiết tăng lên.[1] Nghiên cứu ở chuột cho thấy, chuột có chế độ ăn gồm oligosaccharides chiết xuất từ sữa dê có những cải thiện về triệu chứng bệnh so với chuột đối chứng. Inulin và oligofructose cũng được báo cáo là hiệu quả trong điều trị thiện bệnh viêm ruột (Inflammatory Bowel Disease IBD).[3] Quá trình lên men cũng sản sinh ra khí hơi và nước có tác dụng làm cho phân mềm và xốp phòng chống táo bón, đồng thời tăng cường khả năng kháng vi khuẩn bằng cách giảm bớt số vi khuẩn nội sinh trong đường ruột qua việc đào thải phân mỗi ngày.[3] 2.6.3. Phòng và chống bệnh nhiễm trùng Các nghiên cứu ở trẻ em về việc phòng và ngừa bệnh nhiễm trùng cho các kết quả khác nhau. Theo nghiên cứu khi sử dụng 1.1g oligofructose ngũ cốc hằng ngày trong DBRCT trong tổng 123 trẻ ( 4-24 tháng) được kết hợp với giai đoạn giảm sốt và được khám y tế. Nhóm điều trị này có ngày bệnh dài hơn và lượng kháng sinh cần cao hơn. Nhóm này có biểu hiện ít nôn, đến nôn nhiều và cảm thấy rất khó chịu nhưng không thấy có bị táo bón và đầy hơi. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu ở 140 trẻ em từ 1-2 tuổi được dùng kháng sinh có liên quan đến prebiotic trong 3 tuần thì trong phân có lượng bifidobacteria tăng đáng kể, nhưng không có sự khác biệt nàovề tác dụng phụ trong đường tiêu hóa. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên (DBRCT) ở 134 trẻ sơ sinh khi cho ăn prebiotic (GOS/FOS 8g/l) trong 6 tháng đầu tiên khi chào đời, ở đây chủ yếu theo dõi các bệnh liên quan đến dị ứng các trẻ được theo dõi bằng một thiết bị trung gian (Arslanoglu năm 2008). Nó không chỉ giảm tỷ lệ mắc dị ứng (P < 0.05), nhưng có một số ít bị cho là nhiễm trùng (P < 0.01), gi ảm sốt (P < 0.00001) và ít dùng thuốc kháng sinh hơn (P < 0.05). tuy nhiên các nghiên c ứu đã không chứng minh được cơ chế các các kết quả trên.[1] Vấn đề chính với hầu hết trong nghiên cứu trẻ em là họ chỉ chủ yếu dựa trên mức độ gia tăng bifidobacteria và lactobacilli làm bằng chứng về hiệu quả. Trong thưc tế, tác dụng của bifidobacteria cũng chỉ là trên lý thuyết. Những gì hiện nay cần được nghiên cứu là phải gắn với thực tiễn lâm sàng nhiều hơn nữa.[1] 2.7. Tác dụng đối với đường tiêu hóa 2.7.1. Hội chứng kích thích ruột Hội chứng ruột bị kích thích (IBS) được cho là do vi khuẩn đường ruột gây nên trong các thử nghiệm khác nhau. Tập quán ăn uống của người dân làm giảm lượng bifidobacteria và lactocilli ở những bệnh nhân IBS, nhưng điều này không được xác nhận trong nghiên cứu DNA. IBS là một căn bệnh khó mà điều trị bởi vì các triêu chứng rất khó đoán, tài liệu về bệnh này không đầy đủ và rất hạn chế.[1] Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 16
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường Các sản phẩm chính của quá trình trao đổi chất tiền sinh trong ruột già là khối lượng tế bào vi khuẩn, SCFA, và khí dioxide carbon và hydro. Quá trình tạo ra khí trong trao đổi không được khuyến khích vì nó dẫn đến các triệu chứng liên quan đến khí không mong muốn đã được công bố rộng rãi khi sử dụng prebiotic. Đã có r ất nhiều kết quả khác nhau về khí hydro trong hơi thở, một số chứng minh thì không có sự thay đổi gì sau khi tử nghiệm với 10g với FOS, và một số nghiên cứu chứng minh khác thì có sự gia tăng khí hydro trong hơi thở, đầy hơi và nhẹ khi thử nghiệm 20g mỗi ngày từ 5 ngày trở lên. Thật ngạc nhiên, khi inulin đã được báo cáo là có nhiều tác dụng như FOS. Thử nghiệm được thực hiện với 12000 tình nguyện viên khi cho sử dụng 14g dẫn đến kết quả nhận được là gia tăng đáng kể việc đầy hơi, kèm theo đau bụng. Không còn nghi ngờ gì nữa trong quá trình lên men prebiotic dẫn đ ến tác dụng phụ, nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là nó có dẫn đến khó chịu ở bụng, đầy bụng, ợ hơi, đầy hơi. Đây là các triệu chứng của IBS.[1] Prebiotic được nghiên cứu cho báo cáo rằng nó giúp cải thiện các triệu chứng về sức khỏe nói chung và buồn nôn (P = 0.042), khó tiêu, đầy hơi (P = 0.008) và tiêu chảy ( P = 0.003) nhưng như đã nêu ra ở trên không có những điều tra nào về sử dụng prebiotic chính trong IBS. Có một số ít bệnh nhân có thể không phải bệnh táo bón IBS nhưng nói chung vẫn là chứng táo bón IBS chiếm ưu thế, như ta cũng thấy những người bệnh có thể hưởng lợi từ prebiotic nhưng vì quá nhiều người nội tạng quá mẫn cảm trong quá trình lên en orebiotic và tạo ra khí nó có thể có tác dụng phụ làm các triệu chứng của họ trầm trọng thêm ảnh hưởng đến sức khỏa và hạnh phúc.[1] 2.7.2. Táo bón Tác dụng của một số tiền sinh về nhuận tràng đã được ghi nhận, mặc dù lợi ích trong điều trị táo bón còn hạn chế và không rõ ràng. Thói quen di cầu hằng ngày tăng phụ thuộc vào quá trình lên men prebiotic để sản xuất SCFA, cũng như tăng khối lượng tế bào vi khuẩn dẫn đến kích thích nhu động ruột dạ dày. Sự ảnh hưởng đến tình trạng của chứng táo bón được đánh giá qua các thử nghiệm. Trong hai nghiên cứu của cùng một nhóm tình nguyện viên là các người cao tuổi bị táo bón, khi cho họ sử dụng 10g oligofructose hàng ngày thì lượng phân thải ra tăng đáng kể lên từ 32.4g/ngày lên đến 69g/ngày, trong cuộc điều tra khác dùng isomalto-oligosacchride thì tăng 70% trong lượng phân. Gibson năm 1995 đã chứng minh khi cho sử dụng 15g FOS thì phân tăng từ 136g/ngày lên đến 154g/ngày được thực hiện trong một nhóm nhỏ đối tượng (n = 8). Tuy nhiên điều này là tương phản với các nguyên cứu khác bởi lẽ con số trên nó không biểu thị bất kỳ sự tăng lượng phân khi các tình nguyện viên sử dụng galacto-oligosaccharide. Prebiotic trong các cuộc nghiên cứu cho đến nay người ta đã chứng minh nó ít ảnh hưởng đến chứng táo bón, và tăng nhẹ tính nhuận tràng. Các sai số kết quả có thể do khó khăn trong việc đo sản lượng phân hằng ngày trong khi sử dụng phương pháp đo lượng táo bón chủ yếu là chất lượng và thói quen của việc ăn uống.[1] Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 17
- TL: Những vấn đề mới trong CNTP GVHD: ThS. Dương Văn Trường 2.7.3. Các bệnh truyền nhiễm và tiêu chảy có liên quan đến khánh sinh Đã có một số nghiên cứu trên cơ thể động vật là khi chúng sử dụng prebiotic thì nó giúp ngăn chặn sự xâm nhiễm của các vi sinh vật gây bệnh, ức chế Salmonella typhimurium có trong ruột và làm giảm mật độ của các tác nhân gây bệnh trong các phiên bản bị lỗi. Do đó mặc nhiên công nhận prebiotic làm giảm nơi cư trú cho vi khuẩn gây bệnh bám vào, do tăng số lượng bifodobacteria trong ruột và các prebiotic khi vào cơ thể trực tiếp ngăn chặn các liên kết kết dính với biểu mô c ủa tế bào gây bệnh, nó hoạt tương tự như hình cụ thể (hình 2.2). Điều này đã được dịch trong cuốn nghiên cứu về công tác phòng chống tiêu chảy cho con người của DBRCT 1. Trong đó việc thống kê không rõ ràng với tần suất ( P = 0.08) thì nhóm thì nhóm sử dụng prebiotic (11.2%), so với các ta dược khác ( 19.5%)(Cummings năm 2001). Một cuộc nghiên cứu lớn được thực hiện ở trẻ em peru để đánh giá tần suất và mức độ nghiêm trong của bệnh tiêu chảy trong một DBRCT có sử dụng bổ sung prebiotic, và không tìm thấy lợi ích nào của nhóm prebiotic trong việc phòng ngừa tiêu. Một lý do cho sự thất bại trong quá trình chứng minh này là do bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ, mà bản thân sữa mẹ có chứa hàm lượng cao prebiotic.[1] Hình 2.2: Cơ chế hoạt động chống lại mầm bệnh Các Clostridium difficile gây bệnh nhiễm trùng là mối quan tâm lớn và việc nghiên cứu phòng ngừa tiêu chảy liên quan đến kháng sinh (AAD) đã được phát hiện là prebiotic làm giảm các giai đoạn tiêu chảy do sử dụng kháng sinh và do C.difficile. Những điều tra đã bị phản đối. Tuy nhiên kết quả thật là thú vị khi phát hiện ra kh ả năng có thể ngăn ngừa tái phát bệnh tiểu học và chắc chắn sẽ dẫn đ ến nh ững cuộc thử nghiệm khác về bệnh này.[1] Lớp: ĐHTP6LT - Ảnh hưởng của Prebiotic đến sức khỏe Trang 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề án "Những vấn đề về lạm phát ở nước ta hiện nay"
27 p | 3554 | 1141
-
Đề tài: "Những vấn đề thất nghiệp và việc làm ở Việt Nam"
33 p | 616 | 166
-
Luận Văn: Thiết kế hệ thống xử lý bụi công ty chế biến gỗ gia dụng Pisano
92 p | 237 | 121
-
Lưu chất siêu tới hạn - SCO2 trong công nghệ trích ly dùng trong thực phẩm
9 p | 327 | 85
-
Báo cáo môn học: Công nghệ mới trong xây dựng dân dụng thân thiện với môi trường
16 p | 202 | 52
-
Chuyên đề 1: Môi trường văn hoá,môi trường chính trị,pháp luật trong kinh doanh quốc tế
20 p | 242 | 49
-
Luận văn: Gắn kết vấn đề môi trường vào công tác lập kế hoạch nhằm phát triển bền vững ở Việt Nam - thực tiễn và pháp luật điều chỉnh
52 p | 164 | 49
-
Nghiên cứu triết học " ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG - MỘT VẤN ĐỀ BỨC XÚC CỦA CHÚNG TA HIỆN NAY PHẠM NGỌC QUANG "
14 p | 176 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ ngành Công nghệ thông tin: Nghiên cứu tìm hiểu thực trạng về an ninh mạng và biện pháp đối phó
110 p | 146 | 30
-
Tiểu luận: Phát triển các khu công nghiệp-khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa, thực trạng và những vấn đề đặt ra
13 p | 314 | 25
-
Bài tham luận: Giảng dạy môi trường bằng phương pháp PBL(problem based learning) – lợi ích và những vấn đề còn tồn tại áp dụng thực tế trong việc giảng dạy môn học công nghệ sản xuất sạch hơn tại trường đại học Kỹ thuật Công nghệ TP.HCM - Vũ Hải Yến
13 p | 182 | 18
-
Nghiên cứu các vấn đề môi trường nông thôn tỉnh Nghệ An theo các vùng sinh thái đặc trưng, dự báo xu thế diễn biến, đề xuất các chính sách và giải pháp kiểm soát thích hợp
41 p | 143 | 18
-
Tổng quan khoa học: Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
171 p | 137 | 17
-
Tiểu luận môn Những vấn đề kinh tế chính trị đương đại: Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
24 p | 93 | 16
-
Báo cáo "Những vấn đề về tổ chức và phát triển quản lý tổng hợp tài nguyên nước sông Sài Gòn "
21 p | 95 | 10
-
Nghiên cứu áp dụng các chuẩn lưu trữ trao đổi thông tin trong hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia
189 p | 75 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động công chứng Hợp đồng mua bán tài sản
79 p | 13 | 7
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp khoa Văn hóa học: Các nguyên tắc về môi trường của công giáo đối với môi trường tự nhiên tại tạo giáo xứ Thạch Bích - Bích Hòa - Thanh Oai - Hà Nội
17 p | 56 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn