intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nội dung ôn tập học phần Hoạch định và phân tích chính sách công

Chia sẻ: Nguyễn Đức Mạnh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:49

16
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung ôn tập học phần Hoạch định và phân tích chính sách công gồm các nội dung chính như: tổng quan về chính sách công; hoạch định chính sách công; phân tích chính sách công;...Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nội dung ôn tập học phần Hoạch định và phân tích chính sách công

  1. NỘI DUNG ÔN TẬP HỌC PHẦN: HOẠCH ĐỊNH VÀ PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH CÔNG “Khó khăn nhất là quyết định hành động; phần còn lại chỉ đơn thuần là sự kiên trì.” - Amelia Earhart - TÓM TẮT NỘI DUNG
  2. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại chính sách công 1.1.1 Khái niệm Theo tiến trình lịch sử, những quan tâm đầu tiên về chính sách công xuất hiện cung với sự ra đời của nền dân chủ Hy Lạp, nhưng khoa học chính sách chỉ mới nổi lên từ giữa thế kỷ XIX, lúc mà khoa học chính trị bắt đầu chuyển trọng tâm nghiên cứu từ triết học - chính trị sang nghiên cứu các thể chế cơ cấu tổ chức nhà nước, thái độ và hành vi ứng xử của các tổ chức và các cá nhân với nhau trong hoạt động kinh tế, xã hội. Nhiều nhà khoa học trong thời kỳ này đã đi sâu nghiên cứu các chuẩn mực giá trị hoặc hành vi của chính phủ với mục đích lựa chọn nội dung, phương thức hoạt động nhằm thoả mãn các nhu cầu của đời sống nhân dân. Những tư tưởng mới này là nguyên nhân gây ra những tranh luận gay gắt về vai trò của nhà nước, về quyền và nghĩa vụ của công dân và nhà nước. Đồng thời, sau các cuộc chiến tranh thuộc địa, hàng loạt các nước bị tàn phá có nhu cầu cơ cấu lại nhà nước của mình, các thể chế quốc tế mới cũng được thiết lập dẫn đến sự ra đời của một cách tiếp cận mới về công bằng, bình đẳng, về việc tìm kiếm các giá trị và biện pháp phát triển kinh tế - xã hội. Bối cảnh đặc biệt này làm nảy sinh một cách tiếp cận mới về khoa học chính sách. Một số cách tiếp cận tập trung vào các hành vi ứng xử ở cấp vi mô, vào khía cạnh tâm lý của quần chúng, của các cử tri và nhà lãnh đạo; một số khác tập trung vào những đặc điểm văn hoá, xã hội và một số tập trung vào bản chất dân tộc và tính toàn cầu.... Chính sách cách tiếp cận theo hướng đổi mới trên đây đã tạo ra cơ sở nền tảng của sự ra đời của khoa học chính sách. “Chính sách”: là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu, trên các phương tiện truyền thông và đời sống xã hội. Tuy nhiên, trên đây cũng là thuật ngữ khó có thể định nghĩa một cách cụ thể và rõ ràng. Theo từ điển tiếng Anh (Oxford English Dictionary), “Chính sách” là “một đường lối hành động được thông qua và theo đuổi bởi chính quyền, đảng, nhà cai trị, chính khách..”. Theo sự giải thích này, chính sách không đơn thuần chỉ là một quyết định để giải quyết một vấn đề cụ thể, mà nó là một đường lối phương hướng hành động. Hugh Heclo (năm 1972) định nghĩa một chính sách có thể được xem như là một đường lối hành động hoặc không hành 2
  3. động thay vì những quyết định hoặc các hành động cụ thể. David Easton (năm 1953) cho rằng: “chính sách bao gồm một chuỗi các quyết định và các hành động mà trong đó phân phối thực hiện các giá trị”. Smith (năm 1976) cho rằng: “Khái niệm chính sách bao hàm sự lựa chọn có chủ định hành động hoặc không hành động, thay vì những tác động của các lực lượng có quan hệ với nhau”. Smith nhấn mạnh “không hành động” cũng như “ hành động” và nhắc nhở cho chúng ta rằng “sự quan tâm sẽ không chỉ tập trung vào các quyết định tạo ra sự thay đổi, mà còn phải thận trọng với những quyết định chống lại sự thay đổi và khó quan sát vì chúng không được tuyên bố trong quá trình hoạch định chính sách”. Quan niệm khác lại cho rằng chính sách là những hành động có tính toán có chủ thể để đối phó với đối tượng quản lý theo hướng đồng thuận hay phản đối. Như vậy, có thể thấy khó có thể đưa ra một định nghĩa duy nhất đúng về chính sách. Các chính sách đôi khi có thể được nhận thấy dưới hình thức cách quyết định đơn lẻ, nhưng thông thường nó bao gồm một tập hợp các quyết định hoặc được nhìn nhận như là một sự định hướng hành động cụ thể. Những nỗ lực đưa ra các định nghĩa khác nhau về chính sách cũng hàm ý rằng có có thể xác định được thời điểm cụ thể mà chính sách cần được ban hành. Chính sách thường sẽ tiếp tục tiến hoá trong giai đoạn thực hiện, chứ không chỉ cố định như trong giai đoạn hoạch định chính sách. Nhà nước là chủ thể đại diện cho quyền lực của nhân dân, ban hành chính sách để mưu cầu lợi ích cho cộng đồng xã hội. Chính sách của nhà nước không chỉ tác động đến một khu vực, một bộ phận dân cư nhất định mà tác động rộng khắp đến mọi đối tượng, mọi quá trình trên phạm vi toàn quốc. Tác động của nhà nước đến các đối tượng có thể mang tính chính trị, hành chính, kinh tế hay kỹ thuật được lồng ghép vào các cơ chế quản lý điều hành thống nhất. Đồng thời trong những thời kỳ phát triển khác nhau, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước cũng có sự thay đổi một cách thích hợp, vì thế quan niệm về chính sách do nhà nước ban hành (chính sách công) cũng được tiếp cận từ các góc độ khác nhau. Thomas Dye (1972) đã đưa ra một định nghĩa khá súc tích về chính sách công như sau: Chính sách công là bất kỳ những gì nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm. William Jenkins (1978) cho rằng chính sách công là “một tập hợp các quyết định liên quan với nhau được ban hành bởi một hoặc một nhóm các nhà hoạt động chính trị 3
  4. cùng hướng đến lựa chọn mục tiêu và các phương thức để đạt mục tiêu trong một tình huống xác định thuộc phạm vi thẩm quyền”. James Anderson (1984) đưa ra định nghĩa khái quát hơn về chính sách công. Ông cho rằng: Chính sách công là đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một hoặc một tập hợp các nhà hoạt động chính trị để giải quyết vấn đề phát sinh hoặc vấn đề cần quan tâm. B.Guy Peters (1990): Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thể hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa... Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về chính sách công như sau: “Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề trong xã hội.” Khái niệm trên vừa thể hiện được đặc trưng của chính sách công là do nhà nước chủ động xây dựng để tác động trực tiếp lên các đối tượng quản lý một cách tương đối ổn định, cho thấy bản chất của chính sách công là công cụ định hướng cho hành vi của các cá nhân, tổ chức phù hợp với thái độ chính trị của nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội. Để đạt được mục tiêu đề ra, trước hết chính sách phải tồn tại trong thực tế, nghĩa là chính sách phải thể hiện được vai trò định hướng hành động theo mục tiêu nhất định. Điều kiện tồn tại của chính sách công là tổng hòa những tác động của hệ thống thể chế do nhà nước thiết lập và tinh thần nghiêm túc thực hiện, tự chủ, sáng tạo, của các chủ thể tham gia giải quyết vấn đề chính sách trong một phạm vi không gian và thời gian nhất định. Điều kiện bảo đảm cho sự tồn tại được thể hiện bằng các nhân các nguồn nhân lực con người, nguồn nhân lực tài chính, môi trường chính trị, pháp luật, văn hóa vã hội và cả sự bảo đảm của nhà nước. 1.1.2. Đặc điểm của chính sách công 1.1.2.1. Chính sách công mang tính cộng đồng 4
  5. Chính sách công mang tính cộng đồng là do chính sách công bắt nguồn từ ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện dưới dạng thể chế bằng văn bản quy phạm pháp luật. Ý chí chính trị của mọi nhà nước đều được xác lập trên cơ sở mục tiêu phát triển chung toàn xã hội mà nhà nước là người có trách nhiệm tổ chức thực hiện. 1.1.2.2. Chính sách công mang tính hệ thống, đồng bộ Về mặt hình thức, tính hệ thống của chính sách công thể hiện là những tập hợp các quyết định hình thành trong những giai đoạn khác nhau vượt ra ngoài giai đoạn hoạch định chính sách ban đầu. Ở cấp độ hoạch định, chính sách cũng không nhất thiết phải thể hiện rõ ràng trong một quyết định duy nhất, mà có thể được phản ánh trong một chuỗi các quyết định có liên hệ với nhau, giúp chúng ta nhận thức được nội hàm của chính sách. Về mặt nội dung, tính hệ thống của chính sách bao hàm sự thống nhất giữa mục tiêu và biện pháp thực hiện trong mỗi loại chính sách. Ngoài ra, giữa các loại chính sách và giữa chính sách với các công cụ quản lý vĩ mô khác cũng hợp thành một hệ thống hướng đến mục tiêu phát triển chung của toàn xã hội. 1.2.2.3. Chính sách công mang tính ổn định tương đối Về mặt lý thuyết, nội dung chính sách công về cơ bản là ổn định trong một giai đoạn nhất định, bởi chính sách công là kết quả của ý chí chính trị của nhà nước nên nó không dễ gì thay đổi. Tuy nhiên trên thực tế, chính sách công vẫn có sự thay đổi theo thời gian, và trong quá trình tồn tại chính sách công vẫn cần phải được điều chỉnh về mục tiêu hay biện pháp cho phù hợp với điều kiện thực tế hoặc do những thay đổi trong định hướng chính trị ban đầu, hoặc kinh nghiệm về thực thi chính sách có thể được phản hồi vào quá trình ra quyết định chính sách. 1.1.2.4. Chính sách công vừa là sản phẩm của hoạt động quản lý nhà nước, vừa là công cụ thực hiện chức năng quản lý xã hội Về cơ bản, chính sách công được xem là đầu ra của quá trình quản lý nhà nước, là sản phẩm trí tuệ của đội ngũ cán bộ, công chức, thậm chí là sản phẩm chung của cả xã hội. Về đặc điểm này có thể nhận biết được qua việc chấp nhận mục tiêu và các biện pháp thực thi chính sách công của các tầng lớp nhân dân trong xã hội, cũng như kết quả triển khai thực hiện những chính sách này. Ngược lại, chính sách công cùng với hệ thống pháp luật trở thành phương tiện, công cụ cơ bản để nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Những 5
  6. phương tiện được nhà nước thiết lập và sử dụng vào quản lý xã hội bao gồm hệ thống pháp luật, chính sách, chiến lược, kế hoạch, quy hoạch và các nguồn lực công trong xã hội. Tuy nhiên, chính sách công không chỉ đơn thuần là công cụ giống như các phương tiện vật chất - kỹ thuật khác bởi lẽ chính sách công được nhà nước dùng để định hướng cho các chủ thể khác nhau trong xã hội cùng hành động vì mục tiêu chung và bày tỏ thái độ chính trị của mình với những biến cố kinh tế, xã hội phát sinh trong từng thời kỳ phát triển. 1.1.3. Phân loại chính sách công Công cụ chính sách công mà các chủ thể sử dụng không chỉ có một chính sách đơn nhất mà bao gồm nhiều loại chính sách trong phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, nhà nước cần phải ban hành chính sách đối nội để định hướng, tạo động lực, phối hợp, điều chỉnh các hoạt động kinh tế, quan hệ lao động – xã hội, đồng thời tạo lập môi trường và sử dụng các chính sách đối ngoại để ứng phó với những biến cố xảy ra từ bên ngoài. Không những thế, các hoạt động kinh tế, xã hội, môi trường luôn đan xen vào nhau hết sức phức tạp, bởi vậy các chính sách công tồn tại trong điều kiện trên có thể vừa thúc đẩy nhau, vừa hỗ trợ, nhưng lại vừa kiềm chế lẫn nhau. Nếu không nắm chắc tính năng, tác dụng của các loại chính sách công trong hệ thống, chủ thể có thể bỏ sót những đối tượng hay quá trình cần điều chỉnh bằng chính sách hoặc có thể gây ra sự chồng chéo giữa các chính sách công làm hạn chế tác dụng của chúng. Do vậy, cần thiết phải tiến hành phân loại chính sách công. Tùy theo mục đích, yêu cầu của chủ thể quản lý để lựa chọn độc lập hay kết hợp giữa các cách phân loại sau đây: 1.1.3.1. Phân loại theo lĩnh vực hoạt động của chính sách công - Chính sách kinh tế; - Chính sách văn hóa; - Chính sách giáo dục; - Chính sách khoa học – công nghệ; - Chính sách quốc phòng; - Chính sách y tế... 1.1.3.2. Phân loại theo tính chất của chính sách công - Chính sách công: + Chính sách côngdo nhà nước ban hành và được coi là nền tảng định hướng cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội xây dựng chính sách của mình. 6
  7. - Chính sách tư: + Chính sách tư: do các tổ chức ngoài khu vực nhà nước ban hành dựa trên nền tảng chính sách công của nhà nước và tùy thuộc vào điều kiện thực tế của từng tổ chức. 1.1.3.3. Phân loại theo thời gian tồn tại của chính sách công - Chính sách dài hạn; - Chính sách trung hạn; - Chính sách ngắn hạn. 1.1.3.4. Phân loại theo phạm vi tác động của chính sách công - Chính sách đối nội: là những chính sách được áp dụng trong lãnh thổ, quốc gia để giải quyết các vấn đề phát sinh nội tại. - Chính sách đối ngoại. 1.1.3.5. Phân loại theo tính chất ứng phó của chủ thể chính sách công - Chính sách chủ động: do nhà nước chủ động đưa ra mặc dù chưa có nhu cầu chung của xã hội. - Chính sách thụ động: là những chính sách đưa ra để giải quyết một vấn đề đã phát sịnh có ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng. 1.1.3.6. Phân loại theo cấp độ ban hành chính sách công - Chính sách của Trung ương: + Chính sách của Trung ương: mang tính bao quát chung cho cả nền kinh tế, xã hội hay trong từng ngành, lĩnh vực, từng vùng theo định hướng phát triển chung. - Chính sách của địa phương: + Chính sách của địa phương: ban hành nhằm khuyến khích các đối tượng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực tại chỗ cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương trên cơ sở định hướng của các chính sách do Trung ương ban hành. 1.2. Vai trò của chính sách công 1.2.1. Định hướng hoạt động kinh tế - xã hội Khác với các công cụ định hướng như chiến lược, kế hoạch, mục tiêu chính sách định hướng cho các quá trình vận động phù hợp những giá trị tương lai mà Nhà nước theo đuổi. Giá trị đó phản ánh ý chí của Nhà nước trong mối quan hệ với những nhu cầu cơ bản của đời sống xã hội. Nếu các quá trình kinh tế xã hội hoạt động theo mục tiêu chính sách đề ra cũng có nghĩa là đạt được mục tiêu phát triển chung và được hưởng những ưu đãi của Nhà nước. Cùng với mục tiêu, các biện pháp chính sách cũng có vai trò định hướng chính 7
  8. sách cho các biện pháp phát triển kinh tế - xã hội khác. Vì biện pháp chính sách chứa 8
  9. đựng tính cơ chế cao, nên nó có tác động thúc đẩy, cân bằng hay kìm hãm rất lớn đến tính chất vận hành của hệ thống quản lý. Các biện pháp tác động của Nhà nước tuân theo cơ chế tác động của chính sách công vừa nhanh chóng đạt được mục tiêu quản lý vừa tạo ra tính đồng bộ trong hệ thống quản lý nhà nước. 1.2.2. Khuyến khích các hoạt động kinh tế - xã hội phát triển Thái độ ứng xử của chủ thể biểu lộ rõ những xu thế tác động đến các đối tượng để chúng vận động theo hướng nào (tăng cường, ổn định hay giảm thiểu). Sự tác động theo xu thế như vậy sẽ không bao gồm các định mức cụ thể mà chỉ mang tính khuyến khích, nghĩa là nó có thể thúc đẩy hay kìm hãm sự vận động theo quy luật của đối tượng nhằm đạt được mục tiêu dự kiến. 1.2.3. Phát huy mặt tốt và hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường Kinh tế thị trường mang nhiều đặc trưng của một xã hội văn minh, có trình độ phát triển cao hơn nhiều nền kinh tế hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường quy luật cạnh tranh cùng tồn tại với các quy luật thị trường khác làm cho các nhà đầu tư hay sản xuất kinh doanh không ngừng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ nhằm tăng năng suất lao động. Cạnh tranh vừa là động lực, vừa là môi trường cho các hoạt động kinh tế thị trường. Trên cơ sở quy luật này, Nhà nước thường khuyến khích các nhà sản xuất thi đua cạnh tranh lành mạnh trong những môi trường thuận lợi do Nhà nước tạo dựng bằng các công cụ, trong đó có chính sách. Tuy nhiên cùng với sự vận động của thị trường, quy luật cạnh tranh cũng diễn ra khốc liệt trong từng ngành, từng lĩnh vực, từ đó dẫn đến độc quyền, tình trạng “cá lớn nuốt cá bé” làm tổn hại đến cả nền kinh tế, đến các nhà đầu tư và người tiêu dùng trong xã hội. Trước thực tế đó, Nhà nước ta không chỉ dùng chính sách để khuyến khích cạnh tranh mà còn dùng chính sách để hạn chế những biểu hiện không lành mạnh trong sản xuất, kinh doanh như các chính sách thuế, chính sách giá cả, chính sách phân phối, chính sách ưu đãi đặc biệt... 1.2.4. Tạo lập các cân đối trong phát triển Cách thức tạo lập được thực hiện từ nhiều vai trò khác của chính sách như khuyến khích các tiềm năng trong tương lai của những ngành, những lĩnh vực và vùng kém phát triển để nhanh chóng cân bằng với các ngành hay vùng khác. Hoặc dùng chính sách để điều chỉnh tốc độ tăng dân số cho phù hợp với tăng trưởng kinh tế để phù hợp với thu nhập bình quân của xã hội; điều chỉnh các ngành sản xuất cho cân đối 9
  10. với nhu cầu tiêu dùng của dân cư; điều chỉnh mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu của nền kinh tế... 1.2.5. Kiểm soát và phân phối hợp lý các nguồn lực trong xã hội Phân phối nguồn lực cho quá trình phát triển là một vai trò quan trọng của chính sách công, bởi các chủ thể, nhất là Nhà nước luôn luôn quan tâm đến việc quản lý, sử dụng các nguồn lực cho phát triển. Mục tiêu phát triển bao gồm cả lượng và chất trong hiện tại và tương lai, nên tài nguyên tự nhiên và xã hội của một quốc gia trở thành vấn đề trung tâm trong quản lý của các Nhà nước. Để sử dụng có hiệu quả tài nguyên theo hướng ổn định, bền vững, Nhà nước dùng chính sách để khuyến khích và điều tiết các quá trình khai thác sử dụng tài nguyên theo định hướng. 1.2.6. Vai trò tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - xã hội Nếu môi trường có những yêu cầu khắt khe ngược quy luật sẽ làm cho thực thể khó tồn tại hoặc bị diệt vong. Như vậy chính sách phải làm cho môi trường trở nên thuần khiết hơn bằng sự thống nhất cao độ trong mục tiêu thực hiện và sự phong phú, đa dạng của các giải pháp thực hiện. Thống nhất thái độ ứng xử của chủ thể với các vấn đề kinh tế - xã hội chính là đã tạo ra một môi trường hướng đạo, giúp cho các thực thể xác định được các mục tiêu vận động của mình. Sự phong phú về các giải pháp thực hiện sẽ làm cho các thực thể năng động tìm cách ứng phó hiệu quả nhất với môi trường để tồn tại. Điều này sẽ mang lại nhiều động lực cho các thực thể chiến thắng trong môi trường cạnh tranh. 1.2.7. Vai trò tăng cường sự phối hợp hoạt động giữa các cấp chính quyền vì mục tiêu phát triển Phối hợp hoạt động của các chủ thể sẽ tạo nên tính thống nhất chặt chẽ trong quá trình vận động của các thực thể. Kết quả đạt được của thực thể do nhiều loại hoạt động tạo thành theo một trình tự nhất định. Nếu trình tự này bị đảo lộn sẽ làm biến dạng kết quả hoặc chuyển thành những kết quả không mong muốn. Bởi vậy, các chủ thể phải đề ra mục tiêu chính sách thống nhất để mọi thành phần đều hướng tới mục tiêu chung trên cơ sở thực hiện tốt những mục tiêu bộ phận của mình. Do nắm chắc được mục tiêu chung, các bộ phận sẽ tự biết vai trò, vị trí, thời gian và mức độ hoàn thành các mục tiêu cụ thể của mình để tự giác phối hợp thực hiện mục tiêu chung. 1.3. Chủ thể và đối tượng của chính sách công 1.3.1. Chủ thể của chính sách công 10
  11. 1.3.1.1. Các chủ thể tham gia trực tiếp Đây thường là một hay nhiều đơn vị cụ thể chịu trách nhiệm chính về chính sách từ đầu đến cuối. Có thể kể đến ba nhóm chính tham gia vào quá trình trực tiếp này. 1.3.2.2.1. Các bộ, ngành thuộc cơ quan hành pháp (Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ): Đây là những cơ quan trực tiếp thực thi chính sách, nên họ thường có khả năng nắm bắt được các vấn đề phát sinh trong đồi sống xã hội cần có các chính sách để giải quyết. Các cơ quan này thường phải nhận diện và đánh giá thực chất được vấn đề phát sinh và dự báo khả năng mở rộng của nó. Họ cũng là những cơ quan đề nghị cấp trên về phương án giải quyết, và nếu được chấp nhận, họ chính là đơn vị sẽ trình dự thảo chính sách. 1.3.2.2.2. Các uỷ ban, tiểu ban của Quốc hội: Đây là các cơ quan chuyên môn của quốc hội, có nhiệm vụ xem xét các dự án chính sách đã được các bộ, cục của cơ quan hành pháp đệ trình. Tại các uỷ ban chuyên môn, tuỳ từng nước khác nhau, quy trình đọc, thảo luận, bỏ phiếu thông qua dự luật có thể được tiến hành khác nhau trước khi nó được đưa ra bỏ phiếu ở phiên họp chung của Quốc hội. Ở một số nước, quy trình xem xét một dự án chính sách tại các uỷ ban chuyên môn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu một dự án chính sách không lọt qua “cửa ải” của các uỷ ban chuyên môn, thì nó sẽ bị thất bại. Một nhiệm vụ quan trọng mà các uỷ ban phải hướng đến là khách quan hóa các điều khoản chính sách – vốn phần lớn do cơ quan hành pháp soạn thảo – để gỡ bở những lợi ích cục bộ mà các cơ quan này có thể đưa vào trong khi soạn thảo chính sách. 1.3.2.2.3. Các nhóm lợi ích: Nhóm lợi ích là cơ cấu có tổ chức của công dân, những người có chung mục tiêu và muốn gây ảnh hưởng đến chính sách công. Nhóm lợi ích có thể là một tập đoàn, một công ty, một hiệp hội nghề nghiệp. Trong một xã hội đa dạng về các lợi ích khác nhau, các nhóm sẽ phải cùng nhau cạnh tranh để giành được nguồn lực hữu hạn của xã hội. Cụ thể, các nhóm lợi ích sẽ tìm cách vận động các quan chức nhà nước, những người hoạch định chính sách, để họ đưa ra các chính sách có lợi cho bản thân nhóm. Nhóm lợi ích thường không tìm cách tác động đến toàn thể Quốc hội hay Chính phủ trong quá trình vận động chính sách, mà họ chỉ nhắm vào những bộ phận quan trọng nhất của tiến trình này, chẳng hạn những vụ, cục, các uỷ ban, tiểu ban chuyên môn phụ trách mỗi vấn đề khác nhau. Ở 11
  12. những quốc gia mà hoạt động của các nhóm lợi ích được hợp pháp hoá và phát triển mạnh, thậm chí các nhóm còn tham gia vào quá trình soạn thảo chính sách. 1.3.1.2. Các chủ thể tham gia gián tiếp Các chủ thể tham gia gián tiếp vào quá trình chính sách công thường là các chủ thể quốc tế. Tuy nhiên, cần lưu ý vai trò của các chủ thể quốc tế là khá nhạy cảm, tùy thuộc vào nội dung chính sách công và tầm quan trọng của chính sách. - Các nhà tư vấn, chuyên gia quốc tế: các chủ thể này liên quan đến chính sách công chủ yếu thông qua các hợp đồng tư vấn. Vai trò của các nhà tư vấn đôi khi rất cao do Chính phủ có thể thuê tuyển trực tiếp hoặc thông qua các chương trình hợp tác song phương. - Các tổ chức quốc tế như IMF, WHO...: các chủ thể này có nguồn lực dồi dào, có thể hỗ trợ, can thiệp vào quá trình chính sách công của một quốc gia, = gây ảnh hưởng đến chính sách công thông qua hiệu lực của các hiệp ước quốc tế. Đôi khi các tổ chức quốc tế thuê tuyển các nhà tư vấn, chuyên gia tham gia hỗ trợ quá trình chính sách công của một quốc gia. 1.3.2. Đối tượng chính sách công Đối tượng chính sách công là những cá nhân, tổ chức, hoặc cộng đồng xã hội mục tiêu mà chính sách tác động tới để thay đổi hành vi của họ nhằm đạt được mục tiêu chính sách. Khi xác định đối tượng chính sách, cần trả lời các câu hỏi: - Chính sách tác động đến ai? - Ở khu vực địa lý nào? - Hoạt động trong lĩnh vực nào? - Tình trạng kinh tế, điều kiện sống của họ như thế nào? - Giới tính và độ tuổi nào? - Thuộc tầng lớp, dân tộc, địa vị xã hội nào? 1.4. Cấu trúc nội dung chính sách công 1.4.1. Lý do hoạch định chính sách công Lý do hoạch định chính sách công được coi là phần mở đầu của một văn bản chính sách công cho thấy mục đích đối tượng hướng tới của chính sách là kinh tế, xã hội hay môi trường để các chủ thể tiếp cận chính sách thấy được sự cần thiết khách quan và tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề của chính sách công. Yêu cầu của lý do hoạch định chính sách công: 12
  13. - Lý do hoạch định chính sách công cần tập trung vào vấn đề chính sách. - Lý do hoạch định chính sách công cần trình bày cụ thể, ngắn gọn, rõ ràng, chính xác. - Lý do hoạch định chính sách công thuộc về ý chí chính trị của nhà nước và mang tính chủ động. 1.4.2. Căn cứ hoạch định chính sách công Để bản chính sách có sức thuyết phục cao đối với cả người tổ chức và thực thi, ngoài việc nêu được lý do hoạch định chính sách công còn cần phải trình bày rõ những căn cứ khoa học để hoạch định chính sách. Căn cứ hoạch định chính sách được trình bày trong nội dung chính sách gồm: - Căn cứ chính trị; - Căn cứ pháp lý; - Năng lực hoạch định chính sách của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc trình bày các căn cứ có khoa học giúp khẳng định về tính hiệu lực, hiệu quả của chính sách công, giúp củng cố lòng tin của người dân vào chính sách của nhà nước Căn cứ hoạch định chính sách công cần được nêu ngắn gọn, xác thực với điều kiện hoàn cảnh của đất nước và phải hướng vào vấn đề chính sách. 1.4.3. Mục tiêu của chính sách công Mục tiêu chính sách được coi là linh hồn của chính sách công, nó hướng mọi nội dung vào việc thực hiện ý chí của chủ thể hoạch định của chính sách công. Từ nêu lý do đến căn cứ hoạch định chính sách cũng chỉ nhằm làm cho mục tiêu chính sách được thực thi trên thực tế. Mục tiêu hướng tới của chính sách công là những giá trị xác đinh hay mong muốn có được theo yêu cầu chung của đời sống cộng đồng. Mục tiêu chính sách công phải phù hợp với định hướng chính trị được thể hiện thông qua thái độ đồng thuận hay không đồng thuận của nhà nước trước thực tế hoạt động của mỗi đối tượng quản lý (thành phần kinh tế, các tổ chức hay nhóm dân cư…) hoặc một quá trình cụ thể (chính trị, kinh tế, xã hội hay môi trường….). Nếu nhà nước đồng thuận với những hoạt động của các chủ thể thì sẽ cho phép duy trì và tạo điều kiện thức đẩy họ cả về quy mô và trình độ. Trái lại, nếu phản đối các quá trình này, nhà nước sẽ không thừa nhận sự tồn tại và tìm cách hạn chế tốc độ vận động của các đối tượng để tránh những hậu quả không mong muốn do các quá trình vận động đó mang lại. Thái độ ứng xử mang tính chất chính trị của nhà nước được thể hiện trong chính sách công làm cơ 13
  14. sở để các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều chỉnh hoạt động của cá nhân và tổ chức trong xã hội phù hợp với định hướng. Mục tiêu chính sách công có thể tương đồng với mục tiêu ngắn hạn khi giải quyết được các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng của nhà nước để tiến tới đạt một chuẩn giá trị về phát triển xã hội. Xét một cách cụ thể, mục tiêu chính là mong muốn của nhà nước và xã hội về kết quả vận động của quá trình kinh tế - xã hội trong những bối cảnh nhất định. Đây là mục tiêu hành động có định hướng của toàn xã hội được thể hiện trong mỗi chính sách công và thường manh tính định tính. Về vật chất, mục tiêu chính sách công là những giá trị hướng tới phù hợp với yêu cầu phát triển nề kinh tế, xã hội trong mỗi thời kỳ. Mục tiêu chính sách công được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, từ mục tiêu chung đến mục tiêu cụ thể, từ định tính đến định lượng. Thông thường, mục tiêu chung mang yếu tố định tính, tức là được thể hiện dưới dạng ngôn từ thay vì được thể hiện dưới dạng con số. Nhưng mục tiêu chung này lại được cụ thể hóa thành các mục tiêu ở cấp độ cụ thể hơn hay còn gọi là các chỉ tiêu. Các mục tiêu cụ thể này phản ánh những khía cạnh cụ thể của mục tiêu chung trong một giai đoạn thời gian nhất định, phù hợp với điều kiện thực thi cụ thể. Các mục tiêu cụ thể này cung cấp cơ sở cho việc giám sát, đo lường và đánh giá mức độ đạt được mục tiêu chung của chính sách. Tùy theo mỗi chính sách công, mục tiêu chính sách có thể là lâu dài hay trước mắt, mục tiêu chung hay cụ thể … Mục tiêu chính sách công có những tính chất khác nhau, song một chính sách không nên hướng tới quá nhiều mục tiêu, vì như vậy sẽ làm giảm tính khả thi của chính sách. Để tránh tình trạng hiểu sai hoặc hiểu không đầy đủ về mục tiêu, dẫn đễn sự tùy tiện khi thực hiện chính sách công trong thực tế, gây ra sự thiếu động bộ, không tập chung thống nhất trong quản lý, các nhà hoạch định cần phải cẩn trọng việc trình bày mục tiêu chính sách. Trên thực tế có những mục tiêu chính sách khó diễn đạt, nếu không chú ý rất có thể làm sai lệch cả chính sách công. 1.4.4. Biện pháp của chính sách công Chính sách công là một chỉnh thể thống nhất giữa mục tiêu và biện pháp chính sách vì thế các biện pháp được trình bày trong nội dung chính sách công cần phải hướng mạnh vào mục tiêu, tạo điều kiện hiện thực hóa mục tiêu. 14
  15. Biện pháp chính sách công được hiểu là cách thức hành động do nhà nước lựa chọn để tác động lên các chủ thể, đối tượng hay quá trình nhằm đạt mục tiêu trong quá trình giải quyết vấn đề chính sách công. Trên thực tế đây là những biện pháp mang tính cơ chế do nhà nước thiết lập, sử dụng trong quá trình quản lý vĩ mô để tối ưu hóa kết quả tác động về lượng và chất trong quá trình thực hiện mục tiêu chính sách. Trên cơ sở mục tiêu định hướng, nhà nước chủ động tìm kiếm nội dung và hình thức tác động tích cực, phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể trong phạm vi nguồn lực có thể khai thác. Do mục tiêu chính sách công được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau từ mục tiêu chung đến mục tiêu cụ thể nên các giải pháp cũng đi từ giải pháp chung đến các giải pháp cụ thể. Các giải pháp chung có tính định hướng về cách thức giải quyết vấn đề và giải pháp cụ thể chứa đựng cách thức cụ thể để đạt được mục tiêu cụ thể. Những giải pháp cụ thể phải chỉ định được những công cụ được sử dụng để thực thi chính sách công, các nguồn lực cần thiết (tài chính, vật chất, nhân lực), dự kiến tổ chức thực hiện. Nói một cách đơn giản, cơ quan nhà nước các cấp chịu trách nhiệm thực thi chính sách công phải xây dựng các quy định, thủ tục, thành lập các tổ chức, thiết kế các chương trình, đề án, dự án cụ thể. Vì mục tiêu của chính sách công là những giá trị tương lai, nên các biện pháp của chính sách công cũng mang tính khuyến khích tích cực. Hệ thống biện pháp chính sách phải chứa đựng những động lực thúc đẩy cân bằng hay kìm hãm quá trình vận động của từng chủ thể cho phù hợp với yêu cầu thực hiện mục tiêu. Nhìn một cách tổng quát, biện pháp chính sách công thường chứa đựng những cơ chế trong vận hành tổ chức, điều tiết các mối quan hệ lợi ích hay trật tự tác động phù hợp với các quy luật khách quan và nguyên tắc tác động của chủ thể đến mỗi đối tượng, mỗi quá trình làm cho chúng vận động có hệ thống. Dù là cách tác động nào thì nhưng biện pháp này đều chứa đựng những nguyên tắc, những quan hệ ràng buộc, chi phối lẫn nhau trong khuôn khổ nhất định phù hợp với xu thể vận động chung nhằm đạt mục tiêu chính sách công. Những biện pháp chính sách công gồm có: 1.4.4.1. Biện pháp mang tính cơ chế quản lý nhà nước Biện pháp mang tính cơ chế quản lý nhà nước là một chính sách công bao gồm: Hình thức, nội dung, nguyên tắc tác động của nhà nước đến các đối tượng thụ hưởng và thực thi chính sách làm cho mọi cá nhân, tổ chức đều tập trung vào mục tiêu hoạt 15
  16. động. Do tính định hướng của mục tiêu chính sách công, việc sử dụng cơ chế quản lý nhà nước phù hợp sẽ tạo ra động lực thúc đẩy các chủ thể trong xã hội, các chủ thể chính sách vận động với tốc độ nhanh, phù hợp với quy luật khách quan. 1.4.4.2. Biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục Đây là biện pháp mang tính chất nền tảng của chính sách công, nhất là đối với các chính sách xã hội. Biện pháp này tác động đến nhận thức của các chủ thể , giúp họ tự giác thực hiện mục tiêu chính sách công. Nếu thực hiện tốt biện pháp này sẽ tạo nên sự đồng thuận cao của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội trong việc huy động nguồn lực và tìm kiếm các cách thức thực thi chính sách công hiệu quả. 1.4.4.3. Các biện pháp khuyến khích lợi ích kinh tế Trong nhiều trường hợp thực hiện chính sách công cần phải dùng lợi ích vật chất để khuyến khích chủ thể tham gia một cách tích cực, nhất là trong bối cảnh kinh tế thị trường. Đối với chính sách có mục tiêu phát triển kinh tế thì biện pháp chủ đạo cần phải mang tính kinh tế. 1.4.4.4. Biện pháp mang tính tổ chức trong thực thi chính sách công Nội dung biện pháp này bao gồm những quy định pháp lý về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy thực thi chính sách công, các quy định về trách nhiệm của cán bộ, công chức có thẩm quyền trong tổ chức. Điều này thực hiện mục tiêu chính sách công, hoặc các quy định về trách nhiệm, thẩm quyền của cá nhân, tổ chức tham gia kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách công... * Yêu cầu đối với biện pháp chính sách công: - Trình bày ngắn gọn, cô đọng, phản ánh thực chất của hệ thống biện pháp chính sách công để người thực hiện dễ dàng vận dụng. - Phải luôn hướng tới mục tiêu, coi mục tiêu là động lực chủ yếu của biện pháp. - Phải phù hợp với tính chất mục tiêu trong suốt quá trình tồn tại của chính sách công. - Phải phù hợp với điều kiện thực tế để các chủ thể có thể vận dụng. - Phải có độ linh hoạt, thích ứng với cơ chế vận hành trong mỗi thời kỳ, tránh gò bó đối với cấp thừa hành bằng những biện pháp quá cụ thể. 1.4.5. Thời hạn duy trì chính sách công Xác định thời hạn duy trì chính sách công có ý nghĩa với cả nhà nước và đối tượng thực thi chính sách công. Có ấn định thời hạn mới làm cho cơ quan nhà nước 16
  17. các cấp nỗ lực tìm kiếm các biện pháp tổ chức thực hiện chính sách tối ưu để hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời việc ấn định thời gian duy trì chính sách công giúp nhà nước chủ động tìm kiếm các nguồn lực cho thực thi chính sách công. Ngoài ra việc xác định thời hạn duy trì chính sách công còn củng cố được lòng tin của người thực thi chính sách vào nhà nước và còn giúp họ chủ động tham gia thực hiện chính sách vì lợi ích của chính mình và của xã hội. Thời hạn duy trì chính sách công phụ thuộc rất lớn vào việc thực hiện mục tiêu chính sách, nếu mục tiêu chính sách là trước mắt, có thể định lượng được thì thời hạn duy trì chính sách sẽ ngắn. Trên thực tế, việc dự tính thời hạn duy trì chính sách khó chính xác nhưng cũng cần đề cập trong nội dung chính sách. Trong trường hợp thật khó khăn có thể xác định qua các chương trình, dự án cụ thể. 1.5. Yêu cầu đối với nội dung chính sách công Chính sách công vừa là sản phẩm đầu ra của hoạt động quản lý nhà nước, vừa là đầu vào trong quản lý vi mô. Vì thế nó sẽ ảnh hưởng đến nhiều chủ thể và quá trình hoạt động của các ngành, lĩnh vực và các địa phương. Nếu nội dung chính sách công không bảo đảm yêu cầu chất lượng sẽ làm cho mất đi động lực phát triển, thậm chí còn gây hậu quả không mong muốn cho đời sống dân sinh. Để phát huy được vai trò của chính sách công trong thực tế, các chủ thể hoạch định chính sách cần phải thiết lập nội dung khoa học hợp lý để bảo đảm cho chính sách công được phát huy được vai trò của công cụ quản lý vĩ mô trong thực tế. Một số yêu cầu cơ bản đối với chính sách công: 1.5.1. Chính sách công phải hướng vào mục tiêu Mục tiêu chính sách công phản ánh mong muốn của nhà nước về những giá trị kinh tế, xã hội cần đạt được trong tương lai phù hợp với yêu cầu phát triển chung toàn xã hội. Mục tiêu chung và mục tiêu riêng chính sách luôn có sự gắn bó mật thiết với nhau nhưng giữa chúng có sự khác nhau cơ bản là mục tiêu chính sách phải cụ thể, rõ ràng và hướng tới mục tiêu chung. Nếu một chính sách công được ban hành có mục tiêu không sát thực hoặc đi ngược lại mục tiêu chung thì không được nhân dân tin tưởng thực hiện hoặc không được thừa nhận. Một chính sách như vậy không được coi là một chính sách tốt. 1.5.2. Chính sách công phải tạo được động lực mạnh cho các chủ thể Mục tiêu là yếu tố quyết định việc lựa chọn biện pháp và ngược lại biện pháp là điều kiện, là yếu tố thúc đẩy để đạt mục tiêu. Nếu mục tiêu tạo ra được sức hấp hẫn 17
  18. với đời sống xã hội sẽ được nhân dân hưởng ứng thực hiện. Biện pháp tích cực sẽ có tác động mạnh đến mục tiêu, nhanh chóng biến mục tiêu thành hiện thực. Những biện pháp chính sách công có tác động mạnh đến mục tiêu, nhanh chóng biến mục tiêu thành hiện thực. Những biện pháp chính sách công có tác động mạnh đến mục tiêu thường mang tính cơ chế cao như cơ chế tự chủ, cơ chế lợi ích, cơ chế trách nhiệm, cơ chế xã hội hóa... Một chính sách công đề cập được những vấn đề bức xúc mà xã hội đang quan tâm giải quyết, tác động trực tiếp đến nguyên nhân cốt lõi của vấn đề, có mục tiêu rõ ràng đến những biện pháp khoa học chứa đựng cơ chế thích hợp sẽ có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động kinh tế - xã hội và tạo được động lực mạnh cho các chủ thể tham gia vào quá trình chính sách công. 1.5.3. Chính sách công phải phù hợp với điều kiện thực tế Một chính sách công được ban hành thường xuất phát từ những vấn đề nảy sinh trong thực tế và quay trở lại giải quyết chính những vấn đề đó, bởi vậy chính sách công mới ban hành nhất thiết phải phù hợp với những điều kiện cụ thể. Các vấn đề xã hội xảy ra trong quá trình vận động có thể phù hợp với mong muốn của xã hội, nhưng cũng có không ít vấn đề mâu thuẫn với mục tiêu định hướng, vì thế nhà nước phải dùng chính sách công để điều chỉnh các quan hệ nảy sinh theo yêu cầu quản lý. Muốn vậy chính sách công được ban hành phải phù hợp với thực tế mới vừa được đáp ứng được yêu cầu bức xúc của đời sống xã hội, vừa không làm phát sinh hoặc hạn chế được những vấn đề mâu thuẫn với mục tiêu quản lý. 1.5.4. Chính sách công phải có tính khả thi Chính sách công vừa là ý chí của nhà nước, vừa là nguyện vọng của nhân dân vì thế tính khả thi của chính sách công là một yêu cầu hết sức quan trọng để biến những mong muốn của nhà nước và nhân dân thành hiện thực. Tính khả thi của một chính sách công phải được xem xét trên nhiều phương diện, từ việc xác định đúng các nguyên nhân làm xuất hiện vấn đề chính sách đến việc lựa chọn được thời điểm ban hành thích hợp. Khi ban hành chính sách công, nhà nước cần phải phân tích đầy đủ quá trình vận động của các yếu tố cấu thành hiện tượng kinh tế, xã hội để xác định đúng nguyên nhân dẫn đến hiện tượng mới có thể giải quyết vấn đề một cách khoa học. Đồng thời để tránh cho vấn đề phát sinh, phát triển, chuyển hóa thành vấn đề khác phức tạp hơn 18
  19. và cũng là tránh tốn kém về nhân lực, vật lực cho việc giải quyết vấn đề thì chủ thể quản lý phải ban hành chính sách kịp thời. Chủ động thực hiện như vậy chắc chắn làm cho mục tiêu dự kiến của chính sách công trở thành hiện thực. 1.5.5. Chính sách công phải đảm bảo tính hợp lý Muốn chính sách đi vào đời sống xã hội được thuận lợi thì ngoài những yêu cầu nêu trên, mục tiêu và biện pháp của chính sách còn phải hợp lý. Tính hợp lý của chính sách công cần được hiểu là sự cân đối, hài hòa giữa mục tiêu chính sách với nguyện vọng của đối tượng thụ hưởng trong hiện tại và tương lai. Mục tiêu mà chính sách công hướng tới chính là tập hợp những nhu cầu của một hay nhiều bộ phận dân cư trong xã hội, không thể cầu toàn rằng mọi nguyện vọng của cá nhân trong các bộ phận đó được đáp ứng một cách đầy đủ. 1.5.6. Chính sách công phải có tính hiệu quả về kinh tế - xã hội Hiệu quả của chính sách công là cơ sở để duy trì sự tồn tại và phát triển của các quá trình kinh tế, xã hội theo định hướng. Để chính sách mang lại hiệu quả, cần có sự thống nhất cao giữa hoạch định mục tiêu chính sách với mục tiêu phát triển chung, giữa mục tiêu chính sách với nguyện vọng của đại đa số nhân dân và đặc biệt là giữa mục tiêu và biện pháp chính sách. Cả thực tiễn và lý luận cho thấy biện pháp mang lại hiệu quả cao cho chính sách công thường mang tính cơ chế cao vì nó tác động đến các đối tượng thực thi chính sách theo quy luật, tạo ra những xu thế vận động có sức cuốn hút các yếu tố vào quá trình vận động phát triển kinh tế - xã hội. 1.6. Chu trình chính sách công 1.6.1. Khái niệm Một trong những phương thức phổ biến nhất để quản lý thực thi chính sách công có hiệu quả là chia tách quá trình chính sách thành các giai đoạn và tiểu giai đoạn. Chuỗi các giai đoạn kế tiếp liên quan chặt chẽ với nhau gọi là “chu trình chính sách”. Chu trình chính sách là một chuỗi các giai đoạn kế tiếp có liên quan với nhau từ khi lựa chọn được vấn đề chính sách công đến khi kết quả của chính sách được đánh giá. Như vậy có thể hiểu “Chu trình chính sách là quá trình luân chuyển các bước từ khởi sự chính sách đến khi xác định được hiệu quả của chính sách trong đời sống xã hội”. 19
  20. 1.6.2. Các giai đoạn trong chu trình chính sách công 1.6.2.1. Khởi sự chính sách (Tìm kiếm vấn đề chính sách công) Khởi sự chính sách bao gồm các hoạt động nhằm xác định được những mong muốn, những mâu thuẫn nảy sinh trong đó có chứa đựng vấn đề cần được tập trung giải quyết bằng chính sách (vấn đề chính sách). Cũng có quan điểm cho rằng, vấn đề chính sách công là một hiện trạng xã hội không mong muốn đang xảy ra (hoặc được dự liệu sẽ xảy ra) có ảnh hưởng (hoặc tác động) tiêu cực đến một, một số nhóm đối tượng hoặc cả cộng đồng. Như vậy, vấn đề chính sách là những nhu cầu xã hội hay mâu thuẫn nảy sinh trong đời sống cộng đồng, cần được giải quyết bằng chính sách để thu hẹp hay lấp đầy khoảng cách giữa thực trạng và mong muốn tương lai. Muốn xác định được vấn đề chính sách cần phải thường xuyên quan sát và phân tích các hiện tượng trong thực tế để dự báo được những mâu thuẫn cơ bản cần giải quyết nhằm cải thiện tình hình, duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội. 1.6.2.2. Hoạch định chính sách Hoạch định chính sách là bước đề xuất thái độ ứng xử của chủ thể với vấn đề chính sách bằng cả mục tiêu và biện pháp chính sách. Đây là bước pháp lý hóa định hướng hành động của chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề công bằng văn bản chính sách. Nếu bước này được thực hiện khoa học, hợp lý, đúng quy trình, thủ tục theo luật định sẽ giúp ban hành được chính sách tốt. 1.6.2.3. Tổ chức thực thi chính sách công Đây là bước đưa chính sách công vào thực hiện trong đời sống xã hội. Bước này bao gồm các hoạt động tuyên truyền, vận động, tổ chức nguồn lực. Phân công, phối hợp thực hiện, kiểm tra, đôn đốc và hiệu chỉnh chính sách cùng với các biện pháp hỗ trợ khác để chính sách phát huy được vai trò trong cuộc sống. Có thể nói đây là bước có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một chính sách công. 1.6.2.4. Đánh giá chính sách công Đây là bước xem xét tác động của chính sách công đến từng đối tượng hay quá trình phát triển; đo lường kết quả và hiệu quả tác động của một chính sách trong thực tế sau khi chính sách được đưa vào thực hiện. Đánh giá chính sách công do nhiều chủ thể tham gia và được tiến hành thường xuyên hay định kỳ tùy theo mục đích, yêu cầu quản lý chính sách của nhà nước. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2