intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phân tích 2 khổ đầu trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

Chia sẻ: Vũ Phương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

815
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài thơ "Tràng Giang" luôn đứng vững và đứng cao trong nền văn học nước nhà, cũng như trong trái tim của người đọc mãi về sau. Một nỗi buồn đã qua đi từ lâu, nhưng dư vị ấy, cảm giác ấy, nỗi buồn ấy cứ đọng mãi với con người sau này mỗi khi đọc “Tràng Giang”, khiến người ta phải suy ngẫm về nhân tình và cuộc đời.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phân tích 2 khổ đầu trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

VĂN MẪU LỚP 11<br /> PHÂN TÍCH HAI KHỔ ĐẦU BÀI THƠ TRÀNG GIANG CỦA HUY<br /> CẬN<br /> BÀI MẪU SỐ 1:<br /> Có lẽ thiên nhiên đẹp và bao la đại ngàn luôn làm khuấy động nỗi lòng và tâm thức<br /> con người, nó khuấy sâu thẳm vào lòng người khiến nỗi sầu càng sầu hơn, vì vây việc<br /> dùng vẻ đẹp bao la của thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng đã được rất nhiều thi sỹ sử dụng<br /> trong thơ trung đại.<br /> Nhưng Huy Cận đã tiếp thu phong vị đó vào tác phẩm “Tràng Giang” của mình, phổ<br /> thêm những nét mới lạ của thơ hiện đại; qua đó, Huy Cận đã tạo nên cho người đọc<br /> những ấn tượng về không gian của tác phẩm, đặc biệt là trong hai khổ thơ đầu.<br /> Ngay từ tên bài thơ “Tràng Giang” và lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng sông dài”,<br /> một không gian sông nước bao la đã hiện hữu. “Tràng” tức là dài, “Giang” là sông. Sông<br /> dài, trời rộng mở ra một không gian bao la, tươi đẹp, nhưng buồn, nhưng dấy lên trong<br /> tâm hồn tác giả một nỗi “bâng khuâng” lạ kỳ.<br /> Khổ thơ đầu tiên, Huy Cận viết:<br /> “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp<br /> Con thuyền xuôi mái nước song song,<br /> Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,<br /> Củi một cành khô lạc mấy dòng”.<br /> Không gian bao la, rộng lớn hiện hữu trước mắt, nhưng cũng bởi vậy mà con người<br /> càng cảm thấy lạc lõng, cô đơn. Giữa bạt ngàn của sông nước, con người nhỏ bé, lặng lẽ,<br /> cô đơn. Đứng trước không gian ấy, nỗi lòng Huy Cận cũng dâng trào. Từng đợt sóng xô<br /> trên “Tràng Giang” là “điệp điệp” nỗi buồn trong tâm hồn thi sỹ. Sóng của thiên nhiên vỗ<br /> nhẹ thì cơn sóng lòng dào dạt ùa về. Và từ đây, một không gian thứ hai xuất hiện đó là<br /> không gian của tình cảm, cảm xúc trong nỗi lòng tác giả. Nhìn về phía sông nước bao la,<br /> tác giả thấy một con thuyền cứ trôi theo mái nước song song.<br /> Có lẽ con thuyền ấy trôi rất nhẹ, không có chút mệt mỏi, nhưng vô thức và cô đơn.<br /> Con thuyền cứ trôi mãi theo dòng nước song song, hai chữ “song song” như hai đường<br /> thằng dài tít tắp, cứ chạy mãi mà không bao giờ gặp, cũng giống như thân phận của con<br /> thuyền kia, vô dịnh và bơ vơ, lạc lõng. Nhìn con thuyền mà nỗi sầu của tác giả như dâng<br /> cao, không gian rộng lớn của thiên nhiên đã thôi thúc không gian lòng, khiến tác giả cảm<br /> thấy nỗi dầu của mình cũng vô định như con thuyền ấy, “sầu trăm ngả”.<br /> <br /> Một hình ảnh buồn hiện lên trước mắt tác giả : "Củi một cành khô lạc mấy dòng”.<br /> Không biết cành củi đáng thương ấy là một vật hữu hình có thực, hay nó là một hình ảnh<br /> chợt xuất hiện trong nỗi cô đơn của Huy Cận, bởi nó cũng nhỏ bé và lạc lõng như con<br /> người.<br /> Giữa dòng đời bao la, giữa sự xô đẩy của từng dòng sóng, nó cứ trôi lạc lõng, lênh<br /> đênh. Nỗi sầu trong tác giả càng sầu hơn. Việc sử dụng những hình ảnh thiên nhiên bao la<br /> là một nét quen thuộc trong đường thi, nhưng Huy Cận đã nhờ nó mà thầm nói lên nỗi<br /> lòng của mình, nhờ không gian thiên nhiên làm nổi lên không gian tình cảm.<br /> Ở khổ thơ thứ hai, vẫn bắt gặp những hình ảnh trải dài theo không gian, nhưng cái<br /> nỗi cô đơn trong tâm trạng tác giả càng trải dài hơn nữa:<br /> “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,<br /> Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.<br /> Nắng xuống trời lên sâu chót vót;<br /> Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.<br /> Không gian hiện ra không chỉ được tác giả quan sát bằng thị giác, mà tác giả còn<br /> lắng tai nghe và càng sầu hơn – một nỗi sầu về nhân thế, về kiếp người, về cuộc sống thời<br /> đó. Đôi mắt tác giả buồn theo và nhìn xung quanh cảnh vật, đôi tai nhạy cảm lẳng nghe<br /> những âm thanh thưa thớt, vãn dần ở xa xa. Cồn nhỏ lơ thơ, nhỏ bé, cơn gió thì thổi nhẹ<br /> nhưng đìu hiu, như cũng buồn giống tác giả. Huy Cận tinh tế cảm nhận cơn gió ấy, sao<br /> mà buồn, sao mà lặng lẽ, cô liêu.<br /> Tiếng làng xa ở nơi đâu thưa thớt vãn buổi chợ chiều, cứ nhỏ dần, nhỏ bé trong cái<br /> lớn mạnh của thiên nhiên. Huy Cận đưa mắt nhìn lên bầu trời kia, tâm trạng buồn của<br /> Huy Cận cũng phổ vào bầu trời bao la ấy một nỗi buồn sâu thẳm. Bởi vậy khi nắng<br /> xuống, trong con mắt Huy Cận, trời không cao mà lại “sâu chót vót”, cũng như không<br /> gian sâu thẳm của nỗi buồn.<br /> Sự suy tư của Huy Cận như đi vào bầu trời ấy, khoét sâu đến tận vũ trụ xa thẳm<br /> ngoài kia, buồn đến lạ lùng. Nhìn lại khung cảnh thiên nhiên bao la ấy, vẫn trời rộng,<br /> sông dài, vẫn bến cô liêu và trong lòng tác giả vẫn ồn ào của một nỗi sầu, một nỗi bâng<br /> khuâng cô đơn và vắng vẻ.<br /> Cảnh quan, không gian bao la của thiên nhiên mở rộng ra trước mắt Huy Cận nhưng<br /> mọi thứ đều mờ ảo, mang một cái nét rất trơ trọi, bâng khuâng. Tuy mờ ảo nhưng lại<br /> mang một triết lý sâu xa. Mọi vật hữu hình hiện ra trong mắt Huy Cận đều buồn, đều cô<br /> đơn, cũng như thời thế đất nước bấy giờ, cũng băn khoăn và lạc lõng, trôi nổi vô đình<br /> như con thuyền, nguy hiểm và nhỏ bé như cây củi khô lạc giữa dòng sông.<br /> <br /> Con người như trôi lạc giữa dòng đời, dòng cuộc sống. Bởi vậy, tuy mọi thứ đều mờ<br /> ảo như được phủ một làn khói buồn nhưng đều tô đậm tính triết lý về cuộc sống và con<br /> người, cũng như một nỗi buồn của người con thương đất nước – Huy Cận.<br /> Tác phẩm “ Tràng Giang” cho đến tận bây giờ vẫn là một đỉnh cao nghệ thuật mà<br /> khó ai có thể vươn tới, bởi sự khéo léo và tinh tế của tác giả trong việc kéo hợp giữa<br /> không gian thiên nhiên với không gian tâm tình, quan trọng hơn là vì “Tràng Giang”<br /> mang một triết lý sâu xa về cuộc đời, về đất nước. Tuy không thể hiện trực tiếp nhưng<br /> Huy Cận đã in bóng vào “Tràng Giang” một tình yêu tổ quốc, cũng sự lặng lẽ buồn trước<br /> cuộc sống thời bấy giờ.<br /> Vì vậy, “Tràng Giang” luôn đứng vững và đứng cao trong nền văn học nước nhà,<br /> cũng như trong trái tim của người đọc mãi về sau. Một nỗi buồn đã qua đi từ lâu, nhưng<br /> dư vị ấy, cảm giác ấy, nỗi buồn ấy cứ đọng mãi với con người sau này mỗi khi đọc<br /> “Tràng Giang”, khiến người ta phải suy ngẫm về nhân tình và cuộc đời.”<br /> <br /> BÀI MẪU SỐ 2:<br /> 1. Mở bài<br /> - Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào Thơ mới (1932 –<br /> 1945). Thơ Huy Cận, vừa có chất cổ điển, vừa có chất suy tưởng, triết lí.<br /> - Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng (1940) là một trong những bài thơ hay nhất,<br /> tiêu biểu nhất của Huy Cận. Theo tác giả, bài thơ này được viết vào mùa thu 1939 và cảm<br /> xúc được khơi gợi chủ yếu từ phong cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước. Tràng<br /> giang thể hiện nỗi sầu của một “cái tôi” trước thiên nhiên mênh mông hiu quạnh, trong<br /> đó thấm đượm tấm lòng đối với quê hương đất nước của thi sĩ.<br /> 2. Thân bài<br /> a. Khổ thơ thứ nhất<br /> - Bài thơ có tựa đề “Tràng giang”, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề: Sóng gợn tràng<br /> gian buồn điệp điệp “Tràng giang” chứ không phải là “trường giang”, mặc dù “tràng<br /> giang” và “trường giang” đều chó chung một ngữ nghĩa. Nhờ cách điệp vần “ang”, “tràng<br /> giang” góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm hùng của câu thơ mở đầu, tạo nên âm<br /> hưởng chung cho giọng điệu của cả bài thơ. Mặt khác, “tràng giang” còn gợi lên được<br /> hình ảnh một con sông không những dài mà còn rộng. Tuy vậy, xét cho cùng, sức mạnh<br /> của hai câu thơ trên không phải là nghệ thuật miêu tả, mà ở nghệ thuật khơi gợi: khơi gợi<br /> được cả xúc cảm lẫn ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng<br /> giang) và theo thời gian (điệp điệp).<br /> - Ở khổ đầu cũng như toàn bộ bài “Tràng giang”, nghệ thuật đối của thơ Đường đã<br /> được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu là đối về ý, chứ không bị câu thúc về niêm luật<br /> như cách đối trong thơ cổ. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” có thể coi là đối với<br /> “con thuyền xuôi mái nước song song”; “nắng xuống trời lên sâu chót vót” đối với “sông<br /> dài, trời rộng, bến cô liêu”…<br /> + Nghệ thuật đối ý và đối xứng nói trên, một mặt, làm cho giọng điệu bài thơ uyển<br /> chuyển, linh hoạt, tránh được những khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy ở không ít bài thơ viết<br /> theo lối Đường luật hồi đầu thế kỉ XX; mặt khác, nó vẫn phát huy được một trong những<br /> thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng, sự cân xứng, nhịp nhàng.<br /> + Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như “điệp điệp”, “song song” cũng có hiệu<br /> quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính. - Tuy vậy, “Tràng giang” vẫn là một bài thơ hiện<br /> đại “Tràng giang” hiện đại ở hình ảnh, thi liệu và cảm xúc. “Thuyền về nước lại sầu trăm<br /> ngả; Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Vào những năm 30 của thế kỉ trước, đây được coi<br /> là những câu thơ mới mẻ; bởi trong đó xuất hiện cái tầm thường nhỏ nhoi, vô nghĩa như<br /> “củi một cành khô”. Thơ xưa chủ yếu là địa hạt dành riêng cho những “tao nhân mặc<br /> khách”, nó ít chấp nhận cái hiện thực thô ráp của đời thường. Nhìn chung, phải chờ đến<br /> <br /> Thơ mới, cái tầm thường mới xuất hiện và góp phần tạo nên một “cuộc cách mạng trong<br /> thơ” (Hoài Thanh). HÌnh ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh trên dòng sông<br /> mênh mông sóng nước dễ gợi lên nỗi buồn về kiếp người bé nhỏ, vô địch.<br /> b. Khổ thơ thứ hai<br /> Nỗi buồn càng như thấm vào cảnh vật: “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu, Đâu tiếng làng<br /> xa vãn chợ chiều Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.<br /> - Theo Huy Cận, từ “đìu hiu” ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm: “Non<br /> Kì quạnh quẽ trăng treo / Bến Phì gió đổi đìu hiu mấy gò”. Hơn nữa, cặp từ láy “lơ thơ”<br /> và “đìu hiu” cũng gợi lên được sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn….<br /> - Câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” lâu nay vẫn tồn tại hai cách hiểu xuất<br /> phát từ cách hiểu từ đâu (có và không có tiếng chợ chiều đã vãn). Dẫu hiểu theo cách<br /> nào, thì hình ảnh chợ chiều đã vạn trong câu thơ cũng gợi thêm một nét buồn. Ở đây,<br /> dường như Huy Cận muốn phủ nhận tất cả những gì thuộc về con người (không tiếng chợ<br /> chiều nằm trong hệ thống không một chuyến đò và không một cây cầu ở khổ thơ sau).<br /> - Chỉ còn cảnh vật, đất trời mênh mông, xa vắng… “Nắng xuống trời lên, sâu chót<br /> vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Đây là những câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc.<br /> Không gian được mở rộng và đẩy cao thêm. “Sâu” gợi được ở người đọc ấn tượng thăm<br /> thẳm, hun hút khôn cùng. “Chót vót” khắc họa được chiều cao dường như vô tận. Càng<br /> rộng, càng sâu, càng cao thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài, trời rộng với<br /> bến lẻ loi, xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ như thấm vào không gian ba chiều. Con<br /> người ở đây trở nên bé nhỏ, có phần như bị rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng và<br /> không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời<br /> gian” (Hoài Thanh).<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0