Đề bài: Phân tích giá trị nhân văn cao cả của truyện ngắn "Một con người ra đời" <br />
của Gorky<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Nhà văn Xô viết lỗi lạc, người có công đầu trong việc tạo lập nên văn học Xô viết <br />
M.Gorki (1868 1936) ngay từ thuở ấu thơ đã phải trải qua một cuộc sống trăm ngàn cay <br />
đắng. Mới lên mười tuổi, mồ côi cha mẹ. A M Pescôp (tên thật của nhà văn) đã phải lăn <br />
vào đời, làm đủ nghề, nay đây mai đó để kiếm sống. Mười lăm năm tôi luyện trong <br />
trường đời gian khổ, với ý chí nghị lực phi thường, với niềm khát khao hiểu biết, say mê <br />
học hỏi đồng thời là lòng nhân hậu... A.Pescop đã vượt lên số phận, vươn tới ánh sáng <br />
văn hoá và trở thành nhà văn M.Gorki (trong tiếng Nga có nghĩa là nhà văn của sự cay <br />
đắng).<br />
<br />
Trong hơn bốn mươi năm cám bút (bắt đầu từ 1892), M. Gorki đã viết hàng chục tiểu <br />
thuyết, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng như Cuộc đời Klim Xamghin, Người mẹ; <br />
hàng trăm truyện vừa, truyện ngắn, bút ký, chân dung văn học; hàng chục vở kịch (Dưới <br />
đáy) và nhiều bài phê bình, phát biểu xuất sắc. Toàn bộ sáng tác của ông gắn liền với số <br />
phận nhân dân Nga, đất nước Nga, lịch sử xã hội Nga trong thời đại vang dội của những <br />
người Cách mạng (1905 1917). Từ "nhà văn của những người chân đất’ (cuối thế kỷ <br />
XIX) ông trở thành "chim báo bão" của Cách mạng Nga đầu thế kỷ XX. Sau khi Cách <br />
mạng tháng Mười thành công, với tài năng, tâm huyết và những cống hiến to lớn, ông <br />
được tôn vinh là "bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa". Dù ở giai đoạn <br />
nào, thể loại nào, đề tài nào, bao trùm và thấm đượm trong toàn bộ sáng tác của Gorki <br />
vẫn là một cảm hứng nhân văn cao cả: thương yêu, trân trọng, tin tưởng ở con người.<br />
<br />
Truyện ngắn "Một con người ra đời" (1912) được viết trong bối cảnh nước Nga đang trải <br />
qua thời kỳ "đêm trước của Cách mạng tháng Mười". Trên cái ranh giới của sự hủy diệt <br />
xã hội cũ và sự nảy sinh của một xã hội mới, một vấn đề bức xúc đặt ra cho văn học thời <br />
đại lúc bấy giờ là vận mệnh nước Nga, số phận nhân dân Nga, con người Nga sẽ ra sao? <br />
Trong khi không ít những nhà văn, nhà thơ sa vào bi quan, mất lòng tin vào cuộc sống, M. <br />
Gorky thông qua truyện này đã biểu bộ một niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Cơ sở của <br />
truyện dựa trên sự việc có thật xảy ra với chính tác giả vào cuối mùa hè năm 1892 (một <br />
năm đói kém), khi ông đang làm việc tại công trường ở Kavkaz. Nhưng với tài năng sáng <br />
tạo nghệ thuật và cái nhìn nhâm văn cao cả, tác phẩm này đã vượt ra khỏi giới hạn của <br />
một truyện ngắn như là "một mẩu" "một mình", "một lát cắt" của hiện thực Nga đương <br />
thời và mang dáng dấp của một bản trường ca.<br />
<br />
Truyện mở đầu bằng hai cảnh tương phản: cảnh thiên nhiên mùa thu ở Kavkaz và cảnh <br />
đoàn người nông dân Nga bị nạn đói lùa ra khỏi quê hương, lang thang, phiêu bạt trên <br />
khắp các nẻo đường nước Nga. Nếu cảnh thiên nhiên hiện ra vui tươi, lộng lẫy, mĩ lệ <br />
bao nhiêu thì cảnh đám người đói khát hiện ra chán ngắt, xám xịt, kiệt quệ bấy nhiêu. Sự <br />
tương phản được Gorky dụng công tô đậm ở đây không phải là để đối lập giữa thiên <br />
nhiên và con người mà để làm nổi bật lên cái cảm hứng chủ đạo: khẳng định cuộc sống. <br />
Có thể, cuộc sống còn nhiều nỗi khổ đau khiến trong ta chỉ còn là sự "căm ghét", "nỗi <br />
buồn lo". Có thể loài người chúng ta có lúc "sống chẳng ra gì" khiến cho "mặt trời nhiều <br />
lúc cũng phải buồn". Nhưng theo nhà văn: "đó không phải là vĩnh viễn". Được sống, <br />
"được thấy bao điều kì diệu", được "chiêm ngưỡng cái đẹp tuyệt vời" của trái đất đó là <br />
một diễm phúc. Trước cảnh thiên nhiên mùa thu mỹ lệ "lộng lẫy đến hoang đường" của <br />
núi non, biển cả Kavkaz* nhà văn như không nén nổi sự thán phục, sùng kính cuộc sống <br />
và đồng thời tự hào, hãnh diện về danh hiệu làm người: "Cao cả thay cái chức vị làm <br />
người trên trái đất". Có thể xem đây là âm chủ trong bản trường ca về con người của M. <br />
Gorky.<br />
<br />
Mặt khác, tạo nên hai cảnh tương phản giữa thiên nhiên và xã hội con người, Gorky đã <br />
đem lại cho thiên truyện một không gian nghệ thuật đặc sắc, vừa hiện thực vừa huyền <br />
ảo. Chính trong cái không gian nghệ thuật ấy, "Một con người ra đời" vừa như Một sự <br />
việc bình thường lại vừa như một sự kiện thiêng liêng. Hiệu quả nghệ thuật của lối kết <br />
cấu tương phản một đặc điểm trong truyện ngắn Gorki chính là ở chỗ đó và cũng không <br />
chỉ dừng lại ở mức đó.<br />
<br />
Trọng tâm mô tả của truyện ngắn là cảnh sinh nở của người mẹ. Trong văn học thế giới <br />
từng có nhiều nhà văn lớn bậc thầy viết về cảnh tượng này. Song tuỳ thuộc vào ý đồ <br />
nghệ thuật, quan niệu thẩm mỹ mà mỗi nhà văn lại có một cách mô tả khác nhau Để <br />
miêu tả tâm lý hối hận của Anđrây Bôncônxki (nhân vật trong Chiến tranh và hoà bình), L <br />
Tônxtôi cũng đã từng thông qua cảnh sinh nở của người mẹ: nhà văn lớn người Pháp <br />
Môpatxăng khi đề cao lòng nhân ái của một vị linh mục. cũng dừng lại ở cảnh ông xắn <br />
tay đỡ đẻ cho một phụ nữ nông dân trở dạ dọc đường. Pasternak lại thông qua cảnh sinh <br />
nở của người mẹ để suy ngẫm về sự sống và sự chết. Còn Gorky, khi "mô tả cảnh sinh <br />
đẻ và tô đậm lối đỡ đẻ nguyên thuỷ" phải chăng ông đã "xúc phạm trắng trợn thị hiếu <br />
thẩm mĩ" bạn đọc như một nhà văn Nga đương thời chê trách? Quả thật là, ngòi bút miêu <br />
tả của nhà văn khá tỉ mỉ, chi tiết, cặn kẽ, "lần lượt, không bỏ sót điều gì trong toàn bộ <br />
quá trình sinh nở của người mẹ: đau đẻ, trở dạ. Cắt rốn, chờ nhau" (Nguyễn Hải Hà). <br />
Nhưng Gorky không mô tả theo cái nhìn của nhà y học. Trong khi chi tiết, tỉ mỉ mô tả quá <br />
trình, ông tập trung làm nổi bật "nỗi đau đớn vô cùng" và niềm vui khôn tả của người mẹ <br />
khi sinh ra một con người. Sự khác biệt của M. Gorki nhà văn là ở chỗ ấy<br />
<br />
Trước hết, để thể hiện nỗi đau sinh nở của người mẹ, Gorky đã vận dụng dồn dập một <br />
loạt các chi tiết ngoại hình trong sự biến dạng dễ sợ của chúng. Trong cơn đau, miệng <br />
người sản phụ như "bè ra", "méo xệch", "đôi môi tím bầm", "khuôn mặt căng bự", mắt <br />
khi thì "trợn ngược", khi "lồi lên như muốn nổ tung", khi "dại đờ chạy đầy những tia <br />
máu". Nỗi đau ngày càng tăng đến mức chị không thể ghìm giữ, không thể kêu khóc mà <br />
chỉ có thể bật lên những "tiếng rên khò khè", "tiếng thở dữ dội khác thường", "tiếng <br />
rống", "tiếng gầm gừ" đầy bản năng như của những con thú. Không phải là quá tay khi <br />
Gorky còn vận dụng những hình ảnh so sánh của "sôi", "gấu", "miếng vỏ bạch dương hơ <br />
lửa" để diễn tả sự vật vã, quằn quại đau đớn của chị. Con người có thể trải qua trăm <br />
ngàn nỗi đau và không nỗi đau nào giống nỗi đau nào. Nhưng nỗi đau sinh nở của người <br />
mẹ thì không gì sánh nổi. Đó là nỗi đau tột cùng của thể xác, khủng khiếp như trong <br />
"ngày tận thế'''. Để cho ra đời một con người, người mẹ đã phải trải qua một cơn đau <br />
động đất động trời vậy đó.<br />
<br />
Những đứa con ra đời cũng là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn lao của Mẹ. Sóng gió còn <br />
chưa qua, cơn đau còn chưa dứt, nụ cười đã trở lại trên "đôi môi xanh nhợt" và ngày càng <br />
trở nên "đẹp đẽ", "rạng rỡ", "chói lọi" trên gương mặt người sản phụ khi nghe tiếng khóc <br />
chào đời của con. Nếu như trước đó, khi miêu tả nỗi đau sinh nở, Gorky "hiện thực đến <br />
tàn nhẫn" thì giờ đây, ngòi bút của ông lại lãng mạn, bay bổng đến lạ kỳ trước vẻ đẹp <br />
của Đôi mắt bà mẹ. Đôi mắt "đẹp vô cùng", "sâu thẳm", "như hai hồ nước xanh mênh <br />
mông", "cháy bừng lên ngọn lửa xanh biếc". Chẳng phải ngẫu nhiên, Gorky nhấn mạnh <br />
đến năm lần "màu xanh biếc" như "ngọn lửa cháy bừng lên trong đôi mắt người mẹ" Hẳn <br />
không phải là để tả cái "xanh biếc" của màu mát. Đây là cái ánh sáng "xanh biếc" được <br />
hát lên từ ngọn lửa tình yêu, hạnh phúc, niềm tin, niềm hoan hỉ biết ơn đang cháy sáng <br />
trong tâm linh người mẹ. Chính là cái ánh sáng xanh biếc ấy, đã làm cho đôi mắt người <br />
mẹ trở nên "đẹp vô cùng" sánh tựa "Đôi mắt thần thánh". Nó như toả một vầng hào <br />
quang bao quanh người mẹ. Và không chỉ thế nó còn như chiếu sáng, lan tỏa cả thiên <br />
nhiên xung quanh bầu trời xanh biếc, lá thu vàng rực, biển vỗ ì ầm sóng lao xao, cây lá thì <br />
thầm, mặt trời rọi nắng chói lọi. Có cảm tưởng như thiên nhiên cũng như mừng vui chào <br />
đón sự ra đời của đứa trẻ. Cảnh tượng thật là kỳ vĩ. Dưới ngòi bút của Gorky, con người <br />
ra đời đã trở thành sự sáng tạo thiêng liêng. Thiên truyện như một bài ca, ngợi ca sự vĩ đại <br />
của Người Mẹ, đấng sáng tạo ra cả Anh hùng lẫn Nhà thơ.<br />
<br />
Nhân vật Tôi cũng là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Gorky. Nó vừa đóng vai trò <br />
người kể chuyện, vừa là nhân vật bộc lộ quan điểm trực tiếp của tác giả. Dĩ nhiên nhân <br />
vật "Tôi" không phải là tác giả. Nhưng trong nhân vật "Tôi" in đậm dấu ấn tự thuật tinh <br />
thần của nhà văn: giàu lòng nhân ái, cảm thông sâu sắc với nỗi đau đồng loại, từng trải, <br />
tháo vát, hành động vẫn luôn yêu đời, yêu tự do. Vì thế, những suy nghĩ của nhân vật <br />
"Tôi" cũng là những suy nghĩ của tác giả. Thông qua nhân vật "Tôi", M. Gorky gửi gắm <br />
những suy nghĩ của mình, về vấn đề của thời đại và cũng là của nhân loại muôn đời: con <br />
người và số phận của nó trong tương lai.<br />
<br />
Gorky không nghĩ về số phận một cách thần bí, siêu hình hay bi quan yếm thế. Suy nghĩ <br />
của ông thiết thực và tích cực Trước những băn khoăn của người mẹ: "Chẳng biết đời nó <br />
sẽ ra sao? Anh đi giúp tôi, thật cảm ơn anh... Còn điều đó có tốt lành cho nó hay không tôi <br />
cũng chẳng biết nữa", ông khẳng định: "Người cư dân mới của nước Nga, con người mà <br />
số phận chưa ai lường trước được". Số phận theo ông không hẳn chỉ là những gì đáng âu <br />
lo mà có thể còn có nhiều điều để mà tin tưởng (không ai có thể lường trước). Nhưng dù <br />
tốt lành hay không, con người sinh ra không phải là để thụ động, đón chờ sự áp đặt của <br />
số phận. Ngay từ lúc mới sinh ra, con người đã mang trong nó mầm mống của sự phản <br />
kháng, "bất mãn với cuộc đời", ít ai có được nhưng phát hiện đặc biệt như Gorky và cũng <br />
ít ai có được sự nhiệt tình khích lệ, tin tưởng mãnh liệt vào con người như Gorky Nghe <br />
tiếng khóc "Ya, Ya", ông liên tưởng đó như một lời tuyên ngôn, lời khẳng định đầu tiên <br />
sự có mặt của con người trên trái đất. "ừ thì mày, mày. Chú mày phải tự khẳng định cho <br />
khoẻ vào mới được, không thì kẻ đồng loại sẽ vật cổ chú mày" và "Cứ làm ầm lên đi, <br />
chú bé Oren! Cứ gào toáng lên đi...". Con người phải tự khẳng định mình. Con người phải <br />
tự quyết định số phận của mình, vượt lên số phận nhà văn cổ vũ con người.<br />
<br />
Thiên truyện kết thúc bằng cảnh tượng ba người tiếp tục cuộc hành trình Người mẹ <br />
bồng con "ngoảnh nhìn xung quanh, nhìn biển, nhìn rừng, nhìn núi rồi lại nhìn đứa con <br />
trai". Bên cạnh chị là "người bạn đường tin cậy và vững chãi. Dường như chị muốn tìm <br />
một câu trả lời cho số phận tương lai của đứa trẻ. Câu trả lời có thể chưa tin được. <br />
Trước mắt có thể còn nhiều khó khăn, gian khổ, thử thách chông gai, thậm chí cả "nước <br />
mắt đau thương" nhưng tình thương bao la, trách nhiệm của người mẹ và niềm khao khát <br />
"Cảnh sống tự do” sẽ giúp chị vững bước trên con đường đi tới. Và đứa trẻ "người cư <br />
dân mới của Đất nước Nga" trong cuộc hành trình đi tìm số phận tương lai, nó đã không <br />
đơn độc. Trong tình yêu thương bao la của mẹ và với sự giúp đỡ của những "người bạn <br />
đường, con người tình cờ được đóng vai bà đỡ, nó sẽ lớn lên mãi trong cảnh tự do".<br />
<br />
Không phải ngẫu nhiên "Một con người ra đời" được xem là một trong những tác phẩm <br />
"trung tâm" trong toàn bộ sáng tác của nhà văn. Nó biểu hiện rực rỡ chủ nghĩa nhân đạo <br />
của Gorky: cảm thông, thương yêu, trân trọng và tin tưởng mãnh liệt ở con người. Về <br />
mặt nghệ thuật, truyện cũng thể hiện khá rõ tài năng truyện ngắn bậc thầy của tác giả. <br />
Hai bút pháp hiện thực và lãng mạn được vận dụng trong sự kết hợp nhuần nhuyễn. Các <br />
phương tiện nghệ thuật: phong cảnh, lời nhân vật, chi tiết ngoại hình, lời trần thuật... <br />
được sử dụng điêu luyện. Thủ pháp tương phản, đặc tả, nhấn mạnh... được phát huy tới <br />
hiệu suất tối đa của chúng.<br />