Đề bài: Phân tích hình ảnh sông Hương ở vùng thượng nguồn và đoạn chảy trong <br />
lòng thành phố. Từ đó nhận xét về văn phong của Hoàng phủ Ngọc Tường trong <br />
đoạn trích Ai đặt tên cho dòng sông<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Đã ai tới Huế mà chưa một lần thử nghe hát trên dòng sông Hương chưa? Sông Hương <br />
chính là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, <br />
sông Hương lại mang một vẻ đẹp nữ tính, dịu dàng. Nhà văn đã dựng lên một bức tranh <br />
thiên nhiên với phong cảnh hữu tình đó là dòng sông quê hương qua bài kí “Ai đã đặt tên <br />
cho dòng sông?”<br />
<br />
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn, nhà khảo cứu văn học, văn hóa. Ông là một nhà <br />
văn chiến sĩ, có phong cách nghệ thuật độc đáo và có sở trường về thể kí đồng thời là <br />
người đã có công đưa thể kí Việt Nam phát triển lên đến đỉnh cao của văn học. “Ai đã đặt <br />
tên cho dòng sông?” là một trong tám bài kí được xuất bản lần đầu năm 1986. Tác phẩm <br />
đã làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là sự uyên bác, <br />
giàu chất thơ và giàu trí tưởng tượng.<br />
<br />
Sông Hương là đối tượng để bộc lộ tâm tình, là khách thể của trang viết trong sự thể <br />
hiện cái tôi của nhà văn. Sông Hương chính là đối tượng để khảo cứu làm nên vẻ đẹp <br />
của xứ Huế. Chính vì vậy, sông Hương đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, <br />
từ góc độ địa lý đến lịch sử và qua góc nhìn văn hóa, thơ ca.<br />
<br />
Ở góc độ địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm hiểu trực tiếp sông Hương ở thượng nguồn <br />
để phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Đây là dòng sông có mối quan hệ <br />
mật thiết với dãy Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà nó tựa như “một bản trường ca rừng già <br />
với tiết tấu hùng tráng, dữ dội”. Sông Hương khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc <br />
mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc dưới đáy vực sâu”. Sông <br />
Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại “lúc dịu dàng, say đắm giữa những rặng dài chói <br />
lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng biện pháp nhân <br />
hóa để bạn đọc cảm nhận được sông Hương như một “cô gái Di gan phóng khoáng và <br />
man dại” với “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” làm cho dòng sông <br />
nổi bật ở vẻ đẹp cá tính, hùng vĩ. Nhà văn đã sử dụng hàng loạt động từ, tính từ gây ấn <br />
tượng mạnh: “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy”, “dịu dàng”, “say đắm”, “gan dạ”, “tự <br />
do” để diễn tả từng trạng thái thay đổi của dòng sông. Tác giả còn sử dụng lối so sánh táo <br />
bạo, đặc biệt đầy hình ảnh: Sông là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di gan”, là <br />
“người mẹ phù sa”. Tác giả đã nhân hóa sông trong liên tưởng với một cô gái, đây là liên <br />
tưởng kín đáo, ấn tượng làm cho gương mặt sông Hương được nắm bắt ở chiều sâu và ở <br />
nhiều phương diện khác nhau.<br />
<br />
Trước khi vào đến miền đất của kinh thành Huế, sông Hương “trở thành người tình dịu <br />
dàng và chung thủy với cố đô”. Sông Hương là người con gái đẹp “nằm ngủ mơ màng <br />
giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Sông đã thay đổi hình hài, làm mềm đi nét nữ tính <br />
của mình. Sông Hương đã bộc lộ được nét lịch lãm và tài hoa, đã thay đổi hình dáng <br />
“mềm như tấm lụa”, màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để dòng chảy trôi đi thật <br />
chậm. Sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi được đặt trong mối <br />
quan hệ với vẻ đẹp của người con gái Di gan. Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như <br />
một nàng tiên được đánh thức bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh <br />
xuân để chuyển dòng liên tục. Dòng sông có ý thức kiếm tìm về thành phố, “vui tươi hẳn <br />
lên” khi tìm đúng đường về, sông Hương còn là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” ru <br />
mọi người vào giấc ngủ yên bình. Khi chảy vào thành phố Huế, sông Hương như đã tìm <br />
thấy mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương đã vui tươi hẳn lên giữa những bãi <br />
xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. “Dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm theo <br />
hướng Tây Bắc Đông Nam, tự uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang Cồn Hến”, dòng <br />
sông mềm mại hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Sông Hương duy nhất <br />
thuộc về một thành phố, là niềm tự hào của xứ Huế, của con người Huế. Sông Hương đã <br />
đánh thức được linh hồn của dân tộc, khác hẳn với các dòng sông khác ở cảnh “lập lòe <br />
trong sương đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn Mô tê xưa cũ”.<br />
<br />
Sông Hương được cảm nhận rất riêng trong sự tìm tòi thú vị của các nhà văn, nó có chút <br />
lẳng lơ, kín đáo của tình yêu. Nhìn bằng con mắt hội họa, sông Hương và những chi lưu <br />
của nó tạo nên những nét cổ kính của cố đô. Qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương <br />
như một điệu “slow” tình cảm dành riêng cho Huế, sâu lắng, trữ tình. Với cái nhìn đắm <br />
say của trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thủy được nhìn nhận <br />
ở nhiều phương diện dưới các góc độ khác nhau. Dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc <br />
Tường, sông Hương được đối sánh trong các ngành nghệ thuật, sông Hương về với Huế <br />
như hồn gặp xác, là tiếng nói của người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được người <br />
tình nhân đích thực. Sông Hương đã làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và có chút gì đó <br />
lẳng lơ, kín đáo.<br />
<br />
Sông Hương là dòng sông lịch sử. Dòng sông được khơi gợi trong sách “Dư địa chí” của <br />
Nguyễn Trãi nó mang tên là Linh Giang. Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để <br />
bảo vệ biên giới phía Nam Tổ quốc qua những thế kỉ trung đại. Dòng sông ấy còn vẻ <br />
vang soi bóng kinh thành Huế cùng người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đã chứng kiến Cách <br />
mạng tháng Tám, mùa xuân Mậu Thân 1986 bằng những chiến công rung chuyển. Sông <br />
Hương đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử, mang đậm dấu ấn thời gian.<br />
<br />
Không chỉ được nhìn ở dưới góc độ địa lí, lịch sử, sông Hương còn được nhìn dưới góc <br />
độ văn hóa và thơ ca. Từ góc độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông <br />
Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn <br />
lúc đêm khuya”. Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông <br />
Hương. Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế <br />
được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa <br />
tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã <br />
tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục <br />
như tiếng suối mới sa nửa vời”. Nhà văn đã đặt hình ảnh dòng sông trong mối quan hệ <br />
với tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận. Từ âm thanh của cuộc sống, <br />
tác giả đã nói đến tiếng nước vỗ vào mạn thuyền hình thành lên những điệu hò dân gian. <br />
Nhiều lần, nhà văn đã liên tưởng đến truyện Kiều của Nguyễn Du đại thi hào đã từng có <br />
thời gian sống ở Huế, truyện Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung <br />
đình để hình thành nên cái nôi của văn chương, văn hóa. Từ góc độ thơ ca, sông Hương <br />
không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của những người nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều <br />
có một khám phá riêng về nó. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm dậy lên những vần thơ <br />
biếc xanh của Tản Đà: “Dòng sông trắng Lá cây xanh”. Hình ảnh này với câu chữ của <br />
tác giả cho thấy sự đồng cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường về một sử thi viết giữa màu <br />
cỏ lá xanh biếc. Đây là minh chứng thời gian của những tâm hồn nhạy cảm của các thi <br />
nhân. Nhà văn cũng làm sống dậy, sông Hương hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” <br />
trong khí phách của Cao Bá Quát. Sông Hương quan hoài trong nỗi sầu vạn cổ của thơ Bà <br />
Huyện Thanh Quan, có sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu. Điều kì diệu <br />
là nhà văn đã nhìn thấy sông Hương trong mối quan hệ với Kiều. Cách so sánh, liên tưởng <br />
của tác giả trong mối liên hệ giữa các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết trong văn chương <br />
muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật của nhà văn giàu chất <br />
thơ.<br />
<br />
“Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” là bài kí đặc sắc về con sông Hương của xứ Huế qua đó <br />
đã thể hiện cái “tôi” cá nhân của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là một cái “tôi” tài hoa, <br />
uyên bác. Sông Hương được miêu tả dưới nhiều góc độ khác nhau, sông Hương là dòng <br />
sông của âm nhạc, của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, về <br />
vẻ đẹp của con người xứ Huế. Cái tôi uyên bác được thể hiện ở sự vận dụng cái nhìn đa <br />
ngành, vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa vẻ đẹp của dòng <br />
sông. Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng. Sông Hương được miêu tả <br />
qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như “người mẹ phù sa” bồi đắp cho vùng đất giàu <br />
truyền thống văn hóa từ bao đời nay. Sông Hương còn được cảm nhận qua lăng kính của <br />
tình yêu. Thủy trình của sông Hương là thủy trình có ý thức đi tìm người tình mong đợi, <br />
khi chảy giữa thành phố Huế, sông Hương mềm mại hẳn đi như một tiếng “vâng” không <br />
nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương như “người con gái dùng dằng <br />
chia tay người yêu”, thể hiện một nỗi niềm vương vấn một chút lẳng lơ kín đáo. Cái <br />
“tôi” của tác giả là một cái “tôi” nặng lòng với quê hương, xứ sở. Chắc hẳn, nhà văn phải <br />
yêu quê hương lắm thì mới có thể lột tả dòng sông quê hương một cách xuất sắc như <br />
vậy. Nhà thơ đã dành toàn bộ tâm huyết của mình để theo dõi toàn bộ thủy trình của dòng <br />
sông với vốn hiểu biết sâu rộng về các kiến thức liên quan. Nhà văn đã quan sát tỉ mỉ dòng <br />
sông từ trước khi vào thành phố rồi đến khi đổ ra bể dòng sông đã có những thay đổi ra <br />
sao. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật là một cái “tôi” đa phong cách, mang dấu <br />
ấn riêng biệt và giàu chất thơ. Nhà văn đã phát hiện và trân trọng vẻ đẹp của dòng sông <br />
và có những so sánh táo bạo với hình ảnh cô gái Di gan, người mẹ phù sa, người tài nữ <br />
đánh đàn lúc đêm khuya. Nhà văn đã liên tưởng tới những nhà thơ khác cùng viết về sông <br />
Hương như Nguyễn Du, Tố Hữu, … nhà văn nhớ đến Kiều và muốn được đắm chìm <br />
trong những giai điệu ca Huế trên sông Hương. Tất cả những điều đó đã tạo nên một cái <br />
“tôi” riêng biệt mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường.<br />
<br />
Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Dưới cái nhìn tài <br />
hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương được khám phá ở nhiều góc độ khác nhau, từ địa lí <br />
lịch sử đến văn hóa, thơ ca. Nha văn đa kêt h<br />
̀ ̃ ́ ợp linh hoat gi<br />
̣ ưa kê va ta s<br />
̃ ̉ ̀ ̉ ử dung tai hoa cac<br />
̣ ̀ ́ <br />
̣<br />
biên phap tu t<br />
́ ừ nghê thuât nh<br />
̣ ̣ ư nhân hoa, so sanh, ân du khi<br />
́ ́ ̉ ̣ ến cho con sông từ vật vô tri vô <br />
giác nay bỗng trở nên có hồn , có tính cách, có tâm trạng khi thì dịu dàng, đắm đuối khi lại <br />
mạnh mẽ, quyết liệt. Ngôn từ phong phú, đa dạng, giọng văn đầy biến hóa đã tạo nên <br />
tuyệt bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” mang nét riêng biệt trong văn phong của tác giả.<br />
<br />
Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã thể hiện được tấm lòng yêu quê hương, yêu <br />
con người xứ Huế của nhà văn. Qua đó, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú <br />
của nhà văn về các kiến thức văn hóa, nghệ thuật. Bài kí trên đã khẳng định được thành <br />
công của tác giả trên con đường văn học ở thể bút ký đồng thời cũng thể hiện cái “tôi” cá <br />
nhân riêng biệt, trữ tình. Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học về tình yêu thiên <br />
nhiên, quê hương đất nước. Bởi nếu có quê hương thì mới có chúng ta ngày hôm nay. <br />
Phải chăng vì thế mà trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết:<br />
<br />
“Quê hương là gì hở mẹ<br />
<br />
Mà cô giáo dạy phải yêu<br />
<br />
Quê hương là gì hở mẹ<br />
Ai đi xa cũng nhớ nhiều”<br />
<br />
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một tìm tòi và thể hiện sự mới mẻ của Hoàng Phủ <br />
Ngọc Tường đối với thể loại bút kí. Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ <br />
Huế và khẳng định được tài năng uyên bác của mình. Chính vì thế mà sông Hương đã trở <br />
thành một dòng sông bất tử, luôn chảy trôi mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả.<br />
<br />
Bài làm 2<br />
<br />
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều <br />
hình vực. Ông chuyên về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc <br />
Tường là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc <br />
bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, <br />
lịch sử, địa lí, lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng <br />
sông? là bài bút ký xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng tên của ông.<br />
<br />
Tác phẩm đã miêu tả cảnh quan thiên nhiên sông Hương, sự gắn bó của con sông với lịch <br />
sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bộc lộ niềm tự hào tha thiết, <br />
sâu lắng dành cho dòng sông Hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.<br />
<br />
Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. <br />
Trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già <br />
với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt <br />
vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và <br />
say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.<br />
<br />
Với cái nhìn được nhân hoá, sông Hương tựa cô gái Digan phóng khoáng và man dại với <br />
một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn <br />
ngắm khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội, người ta <br />
khó mà hiểu hết các vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã <br />
không muốn bộc lộ.<br />
<br />
Như vậy, ở thượng nguồn, sông Hương có thể chất mạnh, toát lên vẻ đẹp của một sức <br />
sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Sông Hương khi chảy về kinh thành Huế lại mang <br />
nhiều vẻ đẹp đa dạng, gắn bó với đặc trưng văn hoá, không gian kinh thành Huế. Trước <br />
khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một <br />
hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác <br />
giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình <br />
nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.<br />
<br />
Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ nét lịch lãm <br />
và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Độc giả khó cưỡng một sức hấp dẫn toát lên từ <br />
hàng loạt động từ diễn tả cái dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ <br />
Huế. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”; <br />
nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương <br />
bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên <br />
tục”, “rồi vòng những khúc quanh đột ngột”, vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi <br />
Thiên Mụ, rồi “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như <br />
thành quách”…<br />
<br />
Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh. <br />
Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa <br />
vàng, chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố và mang vẻ đẹp trầm <br />
mặc khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong <br />
những rừng thông u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “tiếng <br />
chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát <br />
tiếng gà”…<br />
<br />
Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi <br />
bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kỳ thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú <br />
mà hài hoà.<br />
<br />
Sông Hương khi chảy trong Huế, như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, <br />
sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim <br />
Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi <br />
“uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một <br />
tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”. Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, <br />
sông Hương cũng giống sông Xen của Pari, sông Đanuýp của Buđapét,… nhưng trong <br />
cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn <br />
bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét <br />
thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương <br />
“đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim <br />
đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ. Điều này được diễn tả trong <br />
một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng <br />
chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần <br />
thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng <br />
ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ <br />
ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa <br />
cổ”. Cũng theo tác giả khúc quanh thật bất ngờ đó, tựa như một “nỗi vương vấn”, và <br />
dường như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu…<br />
<br />
Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc lại mang vẻ đẹp của một bản hùng ca <br />
ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất <br />
nước các vua Hùng, thủa nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa <br />
chí của Nguyễn Trãi, là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới <br />
phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, “nó vẻ vang soi bóng kinh <br />
thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ mười tám; “nó sống hết lịch <br />
sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời <br />
đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển qua hai <br />
cuộc chiến tranh vệ quốc sau này…<br />
<br />
Sông Hương với cuộc đời và thi ca là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những <br />
thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của <br />
dòng sông là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một chiến công, để <br />
rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. <br />
Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm <br />
hứng của các nghệ sĩ.<br />
<br />
Có thể nói, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình yêu say đắm <br />
với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một <br />
vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao <br />
nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.<br />
<br />
Trích đoạn bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn <br />
người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. <br />
Ông xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút <br />
giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào <br />
đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.<br />