Phân tích môi trường kinh doanh ngành vàng bạc đá quý Việt Nam
lượt xem 98
download
Vàng bạc đá quý là một ngành không còn mới mẻ ở Việt Nam, nó có một lịch sử lâu đời nhưng phát triển chưa mạnh mẽ. Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của cả nên kinh tế. Ngành đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống người dân được nâng cao, cơ chế luật pháp được sửa đổi đã thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế trong...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phân tích môi trường kinh doanh ngành vàng bạc đá quý Việt Nam
- Bài Luận Phân tích môi trường kinh doanh ngành vàng bạc đá quý Việt Nam 1
- Phân tích môi trường kinh doanh ngành vàng bạc đá quý Việt Nam I. Tổng quan về ngành vàng bạc đá quý Việt Nam Vàng bạc đá quý là một ngành không còn mới mẻ ở Việt Nam, nó có một lịch sử lâu đời nhưng phát triển chưa mạnh mẽ. Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của cả nên kinh tế. Ngành đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống người dân được nâng cao, cơ chế luật pháp được sửa đổi đã thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế trong đó có ngành vàng bạc đá quý . Theo thông tin Hội đồng Vàng Thế giới cho biết, từ năm 2005 đến nay, nhu cầu tiêu thụ vàng nữ trang ở Việt Nam ngày càng tăng cao (trung bình từ 30 đến 35 tấn/năm). Trong đó năm 2007, chỉ tính riêng Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC) đã có khối lượng vàng nữ trang bán ra đạt 41.129 món, tăng gấp 2,5 lần so với năm 2006, doanh số lên đến hàng tỉ đồng. Để có một cái nhìn rõ hơn về ngành Vàng bạc đá quý ta đi vào nghiên cứu sâu một số vấn đề cốt lõi dưới đây II. Môi trường bên ngoài + Ngày càng phức tạp do; quá trình toàn cầu hóa và tự do kinh tế ngày mạnh mẽ -> tiến bộ kỹ thuật liên tục phát triển với nhịp đọ nhanh, 1. Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế chỉ bản chất và định hướng của nền kinh tế trong đó doanh nghiệp hoạt động. 2
- Các ảnh hưởng của nền kinh tế đến một công ty có thể làm thay đổi khả năng tạo giá trị và thu nhập của nó. Theo dự báo của IMF, mức độ tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ bị chậm lại trong năm 2008, chỉ còn 3,7%, tức là thấp hơn 1,25% so với năm 2007. Dự báo này, thậm chí còn thấp hơn cả mức dự báo của IMF được đưa ra hồi đầu tháng Khi đó, do những dao động của thị trường tín dụng và tình trạng đình trệ của thị trường bất động sản Mỹ, IMF đã hạ mức dự đoán tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ 4,9% xuống còn 4,1%. IMF nhận định rằng sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ giờ không chỉ còn là phạm vi nội bộ của một quốc gia mà nó đang lan rộng sang các khu vực khác mà điển hình là nạn lạm phát về giá nhà đất ở một số nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Ireland, Anh. Thêm vào đó, cơn bão giá các mặt hàng lương thực thực phẩm cũng góp phần vào sự suy giảm khiến nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu ngày càng hiện hữu. Ước tính, có đến 25% khả năng xảy ra suy thoái toàn cầu nếu sự tăng trưởng kinh tế thế giới thấp hơn 3%. IMF dự đoán kinh tế Mỹ năm nay chỉ có thể tăng 0,5% và thậm chí còn thấp hơn và sự phục hồi cũng diễn ra chậm chạp vào năm 2009 với dự báo là 0,6%. Đối với khu vực đồng euro, tốc độ tăng trưởng cũng chỉ có mức 1,4% trong năm 2008 và 1,2% trong năm 2009 Nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn tăng trưởng chậm do tác động của cuôc khủng hoảng nền king tế Mỹ trong những năm gần đây đã làm kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại. Tuy nhiên kinh tế các nước Châu Á trong những năm gần đây vẫn đạt tốc độ phát triển nhanh. nhưng theo dự báo của các tổ chức:IMF, WB, OECD thì sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới có xu hướng phục hồi.Dù kinh tế Mỹ ảm đạm gây tác động tiêu cực, song Nền kinh tế các nước phát triển trên thế giới vẫn rất năng động. Dẫn đầu vẫn là khu vực các nước đang phát triển với tốc độ tăng trung bình đạt đỉnh cao 7%, các nước giàu thì có chậm hơn chỉ bằng một nửa con số này chừng 2.6%. Các nền kinh tế châu Á vẫn bứt phá mạnh mẽ trong năm 2008.Các nước đang phát triển ở châu Á đạt tốc độ tăng trưởng 8,2% trong năm 2007 và sẽ duy trì ở mức 7,8% trong năm 2008. Trong năm 3
- 2007, Nền kinh tế Trung quốc tăng lên 11%, Tỷ lệ lạm phát trong tháng 12/2007 đã giảm xuống chỉ còn 6,5% so với cuối năm 2006. Ngày càng nhiều các nước tham gia vào các hiệp hội kinh tế trên thế giới để tìm kiếm các cơ hội cho đất nước của mình và đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tê thế giới, Điều nay sẽ khuyến khích nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế của các quốc gia ngày càng phat triển hơn tạo điều kiện phát triển nền kinh tế của quốc gia cũng như tăng khả năng xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp và các quốc gia. 6 tháng đầu năm 2008, tình hình kinh tế - tài chính thế giới đã nổi lên một số biến động lớn: Khủng hoảng tín dụng tiếp tục lan rộng đẩy kinh tế toàn cầu vào nguy cơ khủng hoảng; tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới giảm; các thị trường chứng khoán thế giới chao đảo; giá cả hàng hóa (đặc biệt là lương thực) và lạm phát gia tăng mạnh. Trong bối cảnh có nhiều yếu tố bất lợi như hiện nay, sẽ không có một giải pháp nào chỉ đem lại lợi ích mà không gây thiệt hại. Bởi vậy, điểm mấu chốt là phải phối hợp nhiều chính sách, dung hoà các mục tiêu kinh tế khác nhau, mỗi nhóm lợi ích phải gánh vác một phần trách nhiệm. Sự suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế tại Mỹ đã lan sang các nước châu Âu, Nhật Bản và châu Á thông qua con đường xuất khẩu. Mặc dù tăng trưởng kinh tế của châu Âu, Nhật Bản chững lại song vẫn cao hơn so với Mỹ. Ước tính, tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực đồng Euro là 1,4%, Nhật Bản: 1,4%. Các nước đang phát triển vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng cao, tuy có giảm đi một chút. Các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga vẫn giữ tốc độ tăng trưởng cao. Mặc dù chính phủ Trung Quốc đã hạ mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong năm 2008 xuống mức 8% để chống lạm phát song dự báo mức tăng trưởng của quốc gia này là 9,3%; Nga: 6,8%; Ấn Độ: 7,9%; các nước Thái Lan, Ma-lai- xi-a, In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, Việt Nam: 5,8%. Tính chung, kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng ở mức 3,7%. Từ những thay đổi của nền kinh tế toàn cầu đã tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam, nền kinh tế thế giới đang có sự thay đổi mạnh mẽ đã tác động đến nền kinh tế Việt Nam là: 4
- Thứ nhất, Tác động đến xuất nhập khẩu và tăng trưởng kinh tế: Nhìn chung, sự suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trên thế giới, giá hàng hoá gia tăng và việc đồng USD mất giá so với VND là những xu thế không thuận lợi đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, đặc biệt là các hàng hoá công nghiệp như dệt may, giày dép, hàng điện tử và linh kiện máy tính. Việc đồng USD mất giá so với các đồng tiền khác trên thế giới cũng như với VND trong thời gian qua có thể cũng có tác động tiêu cực đến xuất khẩu, làm tăng nhập khẩu và thâm hụt thương mại. Thứ hai, Tác động đến giá cả và lạm phát: Mặc dù nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát tăng cao của Việt Nam trong nửa năm trở lại đây xuất phát từ những yếu tố trong nước (hiệu quả đầu tư thấp, thâm hụt ngân sách cao, tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao, thiên tai, dịch bệnh…), nhưng sự bùng nổ giá cả hàng hoá trên thế giới trong điều kiện tỷ giá hối đoái VND/USD ổn định khiến lạm phát tăng lên mức 2 con số. Một số nhà kinh tế cho rằng, nếu giá cả hàng hoá trên thế giới có xu hướng chững lại thì áp lực lạm phát tại Việt Nam sẽ được giảm bớt. Thứ ba, Tác động đến tỷ giá hối đoái, các dòng vốn và thị trường: Tỷ giá VND/USD ổn định trong điều kiện lạm phát và lãi suất VND cao khiến các dòng vốn nước ngoài đổ vào trái phiếu chính phủ có xu hướng gia tăng trong thời gian qua. Vốn FDI vào Việt Nam trong quý I/2008 đạt mức 5,4 tỉ USD. Tuy nhiên, việc biên độ dao động của tỷ giá VND/USD hẹp đang tạo nên tình trạng mất tính thanh khoản trên thị trường ngoại hối. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu không bán được USD để quay vòng vốn. Các dòng vốn vào Việt Nam tăng mạnh đang là một thách thức đối với Ngân hàng Nhà nước. Việc mua ngoại tệ nhiều để ổn định tỷ giá sẽ làm xói mòn công cuộc chống lạm phát. Nếu dùng các biện pháp trung hoà tiền tệ sẽ dẫn đến lãi suất tăng cũng như áp lực trả lãi sau này. Tuy nhiên, nếu Ngân hàng Nhà nước không mua ngoại tệ vào sẽ dẫn đến tình trạng tiếp tục mất thanh khoản trên thị trường, đồng thời VND vẫn tăng giá so với đồng USD trên thị trường “chợ đen”. Để chống lạm phát, đồng thời ổn định tỷ giá VND/USD, Ngân hàng Nhà nước chỉ 5
- còn cách hạn chế các dòng vốn vào và điều này sẽ lạm chậm tiến trình huy động vốn ngoại để phát triển kết cấu hạ tầng, thị trường bất động sản, thực hiện cổ phần hoá cũng như hỗ trợ thị trường chứng khoán, Nói chung tỷ giá hối đoái thay đỏi hay nói cách khác là đồng đola đang bị mất giá làm ảnh hưởng không tôt đến quá trìnhkinh doanh xuất khẩu. Đặc biệt là Việt Nam hiện nay đang có nhiều mặt hàng xuất khẩu ra thị trường thế giới chiếm tỷ trọng cao trong thị phần sản xuất kinh doanh của cả nước góp phần to lớn vò sự phát triển kinh tế của đất nước. Hơn nữa hiện nay thị phần xuất khẩu tiêu ở Việt Nam đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân nên sự không ổn định của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu tiêu của các doanh nghiệp trong nước nói riêng và các doanh nghiệp trên thế giới nói chung. Và sau đây là một số điểm đáng chú ý của nền kinh tế Việt Nam: 1. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm ước tính tăng 6,5% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,04%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7%; khu vực dịch vụ tăng 7,6%. So với các năm từ 2001 đến 2007, tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm này bằng với con số tương ứng của năm 2002, thấp hơn các năm còn lại. Nếu muốn đạt được tốc độ tăng cả năm ở mức 7,0% như Chính phủ đề ra, những tháng còn lại của năm phải đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7,4%. Theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, trong ba trụ cột của nền kinh tế, khả năng khu vực công nghiệp và xây dựng khó cho thấy sự “bứt phá” trong nửa cuối của năm. Tuy nhiên, nếu tập trung đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và khu vực dịch vụ, khả năng đạt được tốc độ tăng trưởng GDP 7,0% cả năm là lớn và khả thi. 2. Thu chi ngân sách Nhà nước đều tăng hơn cùng kỳ năm trước. 6 tháng đầu năm nay, thu ngân sách đạt 60,6% dự toán năm (con số tương ứng của năm 2007 là 46,1%). 6
- Các nguồn thu chủ yếu đều tăng khá so với dự toán năm. Thu nội địa đạt 56,7%. Thu từ dầu thô đạt 64,3%, chủ yếu do giá xuất khẩu sản phẩm này tăng cao. Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 67,8% Tổng chi ngân sách Nhà nước cũng đạt 51,8% dự toán năm. Đáng chú ý là chi đầu tư phát triển đạt thấp, 45,9% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 44,9%). Tổng chi ngân sách 6 tháng vượt quá 50% dự toán chủ yếu là do chính sách cải cách tiền lương khu vực quản lý nhà nước và hệ thống quốc phòng, an ninh... Khoản chi này đạt 52,8%. 3. Dòng tiền “đổ” vào nền kinh tế tiếp tục tăng lên. Vốn đầu tư thực hiện 6 tháng đầu năm nay theo giá thực tế ước tính đạt 265,4 nghìn tỷ đồng, tăng 21,1% so với cùng kỳ năm ngoái, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 106,1 nghìn tỷ đồng, vốn khu vực ngoài Nhà nước 80 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 79,3 nghìn tỷ đồng. Vốn “rót” từ ngân sách Nhà nước, ngược lại, giảm so với trước, chỉ đạt 39,1 nghìn tỷ đồng, bằng 39,8% kế hoạch năm, con số tương ứng của năm 2007 là 41,8 nghìn tỷ đồng và 43,8%. Liên quan đến con số này, ông Bùi Bá Cường, Vụ trưởng Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia (Tổng cục Thống kê) cho biết thêm, 11 đoàn kiểm tra đầu tư công tại các bộ, địa phương, tập đoàn, tổng công ty... đã hoàn thành điều tra và đang trong giai đoạn tập hợp số liệu. Đầu tư nước ngoài tiếp tục là điểm sáng của 6 tháng đầu năm. Tính đến 20/6, cả nước có 478 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép với số vốn đăng ký 30,9 tỷ USD. Số dự án như vậy là giảm 29,5% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng lại tăng tới 324,3% về vốn. Nếu tính cả 661,2 triệu USD vốn cấp bổ sung của 158 lượt dự án thì tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong 6 tháng đạt 31,6 tỷ USD, gấp 3,7 lần so với cùng kỳ năm trước, vượt xa con số 21,3 tỷ USD đầu tư nước ngoài vào Việt Nam của cả năm 2007. 7
- 4. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm nay theo giá thực tế ước tính đạt 447,3 nghìn tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ năm trước. Nếu loại trừ yếu tố tăng do giá thì còn tăng 8%, thấp hơn nhiều mức tăng 15% của cùng kỳ năm ngoài. Sự cắt giảm chi tiêu trong dân được cho là do giá cả tăng và đứng ở mức cao trong phần lớn thời gian của chu kỳ 6 tháng đầu năm nay. 5. So với giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2007, giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm nay tăng 20,34%, mức cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Sự tăng giá tập trung chủ yếu ở hai nhóm hàng hoá chính là hàng ăn, dịch vụ ăn uống, tăng 33,05% và nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 20,49% so với cùng kỳ năm 2007, đi sau những biến động về giá lương thực và xi măng, sắt thép thời gian qua. 6. Kim ngạch xuất nhập khẩu tiếp tục tăng khá. Xuất khẩu 6 tháng ước tính đạt 29,7 tỷ USD, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm trước. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam xuất được giá cao như dầu thôn xuất khẩu tăng bình quan 69,5% trong 6 tháng qua, than đá tăng 68,4%, gạo tăng 88%, cà phê tăng 40,4%, cao su tăng 33,7%. Kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt 44,5 tỷ USD, tăng 60,3% so với vùng kỳ năm trước. Kim ngạch nhập khẩu tăng cao ngoài yếu tố to tăng khối lượng nhập khẩu còn do yếu tố giá. Trong nửa đầu của năm, nhiều mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam đều tăng giá như xăng dầu tăng 61,8%, sắt thép tăng 29,8%, phân bón tăng 96%, chất dẻo tăng 15,4%... Nhập siêu hàng hoá 6 tháng đầu năm ước tính là 14,8 tỷ USD, bằng 49,8% kim ngạch xuất khẩu, cao hơn mức nhập siêu của cả năm 2007. Tuy nhiên, mức độ nhập siêu trong những tháng gần đây đã giảm. 7. Vận chuyển hành khách 6 tháng đầu năm 2008 ước tính đạt 899,1 triệu lượng người và bằng 41,5 tỷ lượt khách/km, tăng 10,8% về lượt khách và 11,2% về lượt khách/km. 8
- Vận chuyển hàng hoá 6 tháng đầu năm ước tính đạt 207,3 triệu tấn và bằng 78,4 tỷ tấn/km, tăng 10% về số tấn và tăng 37,9% về số tấn/km so vớicùng kỳ năm trước. 8. Trong 6 tháng đầu năm, cả nước đón 2,3 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Chiếm tỷ lệ lớn là nhóm khách quốc tế đến với mục đích du lịch, nghỉ ngơi, đạt 1,4 triệu lượt khách, nhưng tăng mạnh nhất là nhóm đến vì công việc, đạt 430 nghìn lượt khách, tăng 39,7% so với cùng kỳ. 9. Bưu chính viễn thông trong nước và quốc tế tiếp tục phát triển mạnh. Tính đến hết tháng 6/2008, cả nước có 61,8 triệu thuê bao điện thoại và Internet, trong đó riêng 6 tháng đầu năm có thêm 9,9 triệu thuê bao mới. Tổng doanh thu dịch vụ bưu chính viễn thông 6 tháng đầu năm nay ước tính đạt 33 nghin tỷ đồng, tăng 32,2% so với cùng kỳ năm trước. 10. Trong 6 tháng đầu năm 2008, thu nhập bình quân đầu người một tháng của lao động khu vực Nhà nước đạt 2,3 triệu đồng, tăng 21,1% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, do giá tiêu dùng tăng nên đời sống của phần lớn lao động trong khu vực này chưa được cải thiện đáng kể. Khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa... đời sống của nhiều hộ gia đình còn rất khó khăn. Tính đến 20/6, cả nước có 102,3 nghìn lượt hộ với 452,5 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói. So với cùng kỳ năm trước, số lượt hộ thiếu đói tăng 55,3% và số lượt nhân khẩu thiếu đói tăng 59,8%. Trước những biến động bất thường của nền kinh tế Việt Nam khi các chỉ số tiêu dùng tăng cao. Lạm phát chưa được kìm hãm, thị trường chứng khoán sau một thời gian tăng điểm chóng mặt nay trở về đúng với thực trạng với bản chất thực của nó. Lãi suất tiền gửi ngân hàng tăng cao, đồng tiền VNĐ bị mất giá so với các ngoại tệ mạnh khiến các nhà đầu tư tổ chức cũng như người dân chuyển sang mua vàng cất trữ điều này tạo ra nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp vàng bạc đá quý Việt Nam phát triển. Khi nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần 9
- đây phát triển mạnh, thu nhập của người dân cũng tăng lên nên nhu cầu về mua sắm trang sức cũng tăng lên. 2. Môi trường nhân khẩu học Dân số là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội. Về quy mô: Dân số thế giới đã vượt qua ngưỡng 6 tỉ người vào cuối thập kỷ XX, đạt 6,616 tỉ người vào năm 2007, với tỷ lệ tăng dân số hằng năm 1,2% (so với 2% của những năm thập kỷ 60 của thế kỷ XX). Chỉ trong vòng 12 năm, thế giới đã tăng thêm 1 tỉ dân (từ 1987 - 1999), là giai đoạn ngắn nhất trong lịch sử loài người để có thêm 1 tỉ dân và 1 tỉ tiếp theo sẽ đạt được sau 13 năm. Theo dự báo, dân số thế giới sẽ tăng thêm 2,6 tỉ trong vòng 45 năm tới, tức đến năm 2050 dân số thế giới sẽ đạt 9,1 tỉ người và sẽ ổn định ở quy mô này, với điều kiện các cặp vợ chồng tiếp cận dễ dàng các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình có chất lượng. Theo thống kê, Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới. Trong khi đó, mỗi năm lại thêm khoảng 1 triệu dân được sinh ra, nên mật độ dân số nước ta tuôn ở mức cao, khoảng 237người/m2, gấp 1,8 lần mật độ Trung Quốc, gấp 5 lần mật độ dân số trung bình của thế giới Báo cáo về tình hình dân số hiện nay ở nước ta do Bộ Y tế mới gửi lên Thủ tướng Chính phủ.Theo báo cáo này, ngoài vấn đề dân số đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng, tình trạng mất cân bằng giới tính xuất hiện thì chất lượng dân số nước ta vẫn còn trong tình trạng rất thấp. Đây là yếu tố cản trở sự phát triển và đặt nước ta trước nguy cơ tụt hậu xa hơn. Báo cáo nêu rõ, chỉ số phát triển con người ở nước ta tuy từng bước cải thiện, nhưng vẫn ở mức thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và thấp xa so với các nước công nghiệp. Mặc dù tuổi thọ bình quân của nước ta đạt khá cao là 71,3 tuổi nhưng theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới thì tuổi thọ khỏe mạnh lại rất thấp, chỉ đạt 58,2 tuổi và xếp thứ 116/174 nước. 10
- Bên cạnh đó chỉ tiêu phản ánh về sức khoẻ bà mẹ, trẻ em còn ở mức thấp: Năm 2005 tỷ suất tử vong mẹ còn ở mức cao tới 80/100.000 trẻ sinh ra sống, cao gấp 2 lần so với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia; gấp 4 lần so với Hàn Quốc. Tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi của cả nước là 17,8‰; Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi còn 20,2%; Người tàn tật chiếm gần 6,3% dân số, có tới 1,5% dân số bị thiểu năng thể lực và trí tuệ…Tình hình cải thiện các chỉ tiêu này vẫn đang tiếp tục nhưng đến nay vẫn đạt ở mức chậm. Về cơ cấu dân số, báo cáo này cho biết: Tỷ số giới tính khi sinh ở nước ta có xu hướng mất cân bằng và đáng cảnh báo nếu như chúng ta không có biện pháp quyết liệt để điều chỉnh. Hiện có 16 tỉnh, thành phố có tỷ số giới tính cao từ 115 nữ - 128 nam. Tỷ số giới tính này tương đương với Trung Quốc cách đây 20 năm, và hiện nay nước bạn đang “thiếu” khoảng 20 triệu phụ nữ. Với số dân hơn 84 triệu người và có kết cấu dân số trẻ thì đây được xem là một trong những điều kiện cơ bản để ngành vàng bạc đá quý phát triển hơn nữa khi nhu cầu về trang sức của người dân ngày một nhiều. 3. Môi trường văn hoá xã hội Nước Việt Nam có 54 dân tộc sinh sống với những bản sắc văn hoá khác nhau. Trong đó dân tộc kinh chiếm đa số tiếp đó là dân tộc chăm…Các dân tộc sinh sống tập trung ở cả đồng bằng và miền núi. Sự đa dạng của các nền văn hoá, cùng với sự phát triển đi lên của xã hội nước ta đã xoá được nạn mù chữ trong dân và phổ cập giáo dục ở cấp tiều học và trung học cơ sở, đang tiến tới thực hiện phổ cập trung học phổ thông. Các hủ tục lạc hậu của các dân tộc đang dần được xoá bỏ. Nền kinh tế phát triển, đời sống người dân được nâng cao, từ chỗ chỉ lo đến đáp ứng nhu cầu vật chất thì nay đã hướng tới đáp ứng nhu cầu hưởng thụ về mặt tinh thần. Ở Việt Nam nhu cầu về đồ trang sức rất cao, vàng và các loại trang sức được mọi người ưa chuộng mang theo. Đó là các món quà tặng không thể thiếu trong các lễ cưới hỏi trong các gia đình Việt Nam. Bên cạnh đó do thói quen mua vàng của người dân Việt Nam được xem như là một phương tiện để tiết 11
- kiệm. Đó chính là một thuận lợi không hề nhỏ đối với sự phát triển của ngành trong hiện tại và tương lai. 4. Môi trường công nghệ Hiện nay công nghệ đã rất phát triển tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển tuy nhiên vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp nước ta là làm thế nào dể tiếp thu công nghệ khoa học tiên tiến trên thế giới một cách có hiệu quả và nhanh chóng nhất, và để tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến này thì đối với một nước có nền kinh tế còn kém phát triển như nước ta là điều rất khó khăn và trong con đường hội nhập nếu nền kinh tế nước ta không bắt kịp nhịp độ phát triển của khoa học và công nghệ thì dễ bị bỏ rơi và lệ thuộc vào nền kinh tế của các nước phát triển, điều đó rất nguy hiểm đối với một nước đang phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa như nước ta. Và để tránh điều đó xảy ra cho cho nước ta thì hiện nay nhà nước ta đang tích cực đổi mới công nghệ một cách nhanh chóng và có hiệu quả nhất và thành tựu bước đầu thu được cũng rát khả quan, nhờ đổi mới công nghệ đặc biệt phát triển khoa học công nghệ và thông tin mà trong những năm gần đây trình độ của con người được nâng cao hơn và thông qua mạng Internet toàn cầu chúng ta có thể mua bán trao đổi hàng hóa không chỉ trong nước mà cả trên thế giới. Cũng nhờ khoa học công nghệ thông tin mà nhà nước ta có thể giới thiệu nền kinh tế của nước ta ra thế giới một cách toàn diện và cái hiệu ứng thu lai rất lớn hàng trăm các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trên thế giới đang ra sức đầu tư phát triển vào nước ta, và khi các doanh ghiệp, tập đoàn lớn trên thế giới đầu tư vào nước ta thì đồng nghĩa với việc khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại cũng được các nhà đầu tư đưa vào nước ta một cách nhanh chóng và hiệu quả đó là điều kiên lớn để nước ta có thể bắt kịp sự tiến bộ của khoa học và công nghệ và có thể vươn lên sánh ngang hàng với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đối với ngành vàng bạc đá quý ở Việt Nam thì việc đổi mới công nghệ là việc làm cấp thiết nhất ngay trong lúc này. Bởi vì các sản phẩm của ngành sản 12
- xuất ra chưa đáp ứng được thị hiếu của khách hàng, độ tinh xảo, kỹ thuật, và độ sáng tạo còn thấp, thua hẳn các sản phẩm của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trình độ tay nghề của thợ kim hoàn còn hạn chế việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành này hiện đang được thực hiện ở trong nước và nước ngoài. Hiện nay đã có nhiều công ty chuyên cung cấp các thiết bị máy móc cho ngành. Đảm bảo cho các doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh được với các công ty nước ngoài khi mà quá trình hội nền kinh tế nước ta với thế giới đang diễn ra mạnh mẽ. Bên cạnh dịch vụ hậu mãi, chăm sóc khách hàng và bảo hành sản phẩm ưu việt, Các công ty trong ngành luôn phải tiếp cận và cập nhật một cách nhanh chóng trong lĩnh vực cải tiến công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh vàng - trang sức. Từ nhiều năm qua, nhất là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO thì các doanh nghiệp trong ngành đã mạnh dạn đầu tư và đưa vào sử dụng nhiều trang thiết bị, máy móc công nghệ hiện đại, kỹ thuật cao nhập từ các nước có nền công nghiệp sản xuất vàng - trang sức dẫn đầu thế giới như Đức, Ý, Mỹ, Nhật…để tạo ra các sản phẩm vàng - trang sức đạt chất lượng , kỹ thuật, mỹ thuật, mẫu mã tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt trong những máy móc thiết bị nhập ngoại, đã đưa vào sử dụng nhiều hệ thống dây chuyền máy móc công nghệ đồng bộ sản xuất trang sức thế hệ mới nhất, hiện đại nhất hiện nay do các công ty nước ngoài sản xuất đạt hiệu quả cao. Với những máy móc, công nghệ hiện đại được kết hợp với phương pháp kim hoàn cổ truyền, những ý tưởng sáng tạo độc đáo, sự cách tân táo bạo của đội ngũ cán bộ kỹ thuật, các nghệ nhân nhiều kinh nghiệm, những sản phẩm mà các công ty đưa ra thị trường trang sức đạt chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật cao, mẫu mã đẹp, đa dạng , nhiều chủng loại phù hợp với trào lưu, xu hướng thẩm mỹ hiện đại mới không thua kém trang sức nhập ngoại nhưng giá bán phù hợp và đáp ứng mọi thị hiếu và nhu cầu người tiêu dung 13
- 5. Môi trường chính trị pháp luật Các nhân tố chính trị và luật pháp cũng có tác động lớn đến mức độ của các cơ hội và đe dọa từ môi trường. Điều chủ yếu là cách thức tương tác giữa các doanh nghiệp & chính phủ, Thị trường vàng nước ta hiện còn phụ thuộc vào thị trường vàng thế giới, cho nên giá vàng trong nước biến động liên tục theo giá thế giới như trong thời gian vừa qua là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, để rút ngắn khoảng cách về giá vàng giữa Việt Nam và thế giới cũng như làm cho thị trường vàng trong nước trở nên sôi động, lành mạnh hơn rất cần những yếu tố nội lực Thay đổi liên tục, phân đoạn này sẽ gây ảnh hưởng đáng kể đến cạnh tranh. Giá vàng tăng, giảm thất thường trên thị trường vàng thế giới sẽ tạo ra hiệu ứng tức thì đối với thị trường vàng trong nước. Điều đó là tất yếu, bởi hiện nay nước ta phải nhập khẩu gần như 100% lượng vàng tiêu thụ, trong khi lượng khai thác trong nước chỉ đạt từ 1 đến 1,5 tấn. Đây là một bất lợi lớn trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của nước ta. Để khắc phục tình trạng này, chúng ta phải khai thác thật tốt yếu tố nội lực, bởi chỉ có tổ chức khai thác tốt nội lực, thị trường vàng nước ta mới đứng vững và chủ động hội nhập thị trường vàng thế giới Hiện nay, nguồn vốn bằng vàng trong dân còn rất lớn, nếu có chiến lược tốt và các chính sách phù hợp, ngành công nghiệp khai thác, chế tác vàng, bạc, đá quý và trang sức nước ta hoàn toàn có thể trở thành một trong những ngành mũi nhọn của nền kinh tế có kim ngạch xuất khẩu tương đương với các nước trong khu vực. Việc Ngân hàng nhà nước ban hành Quyết định 03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/01/2006 cho phép các DN và ngân hàng thương mại kinh doanh vàng trên tài khoản được coi là bước đi tích cực trong việc đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế. hiện nay đã có một số ngân hàng đã thực hiện kinh daonh vàng theo quyết 14
- định này như Ngân hàng Á châu, Ngân hàng Sài gòn thương tín (Sacombank), Ngân hàng Việt –Úc. Trước những biến động thất thường của thị trường vàng thế giới, các đơn vị kinh doanh vàng đã chủ động hơn, kịp thời “ứng phó” với những rủi ro và bước đầu và giữ được vai trò điều tiết cung cầu thị trường. Thói quen mua bán bằng vàng vật chất đang được thay thế bằng hình thức phi vật chất thong qua tài khoản Mới đây, Tổng cục Hải quan đã cấp phép cho Cty kinh doanh Mỹ nghệ vàng bạc đá quý - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thành lập kho ngoại quan vàng tại Hà Nội, góp phần giảm chi phí nhập khẩu, rút ngắn thời gian, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các DN. Về chính sách thuế, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 25/QĐ- BTC giảm thuế nhập khẩu vàng miếng từ 3% xuống 1% và thuế nhập khẩu vàng nguyên liệu từ 1% xuống 0,5%. Tuy nhiên, tại cuộc họp mới đây giữa Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam và một số cơ quan liên quan, đại diện Vụ Ngoại hối, Ngân hàng nhà nước Việt Nam cho biết: Trong Nghị định hướng dẫn Pháp lệnh Ngoại hối sẽ không phân biệt giá nhập khẩu vàng miếng và vàng nguyên liệu. Đây là tín hiệu mừng vì sẽ giảm bớt được chi phí cũng như hao hụt, lãng phí cho các DN kinh doanh vàng trong nước bởi trước đây DN thường phải nhập vàng hạt về sau đó mới đúc thành vàng miếng (vì thuế vàng miếng cao hơn). Hoạt động mua bán, giao dịch vàng hiện nay trên thị trường nước ta hầu như hoàn toàn tự phát, chưa có tổ chức, giám sát, quản lý của bất kỳ cơ quan tổ chức nào. Đây chính là cơ sở cho thị trường vàng chợ đen phát triển. Trước thực trạng này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thông qua việc thành lập Trung tâm Giao dịch vàng Việt Nam (một ở Hà Nội và một ở Tp Hồ Chí Minh). Mục đích của việc thành lập Trung tâm Giao dịch vàng là nhằm thu hẹp hoạt động của thị trường vàng tự do, huy động nguồn vốn bằng vàng và góp phần tiết kiệm ngoại tệ. Đây cũng là kênh điều hoà cung cầu vàng, hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh vàng chủ động hơn nguồn nguyên liệu, giảm được lượng ngoại tệ dành cho nhâp khẩu, đồng thời huy động được nguồn vốn bằng vàng trong dân đang bị đóng 15
- băng. Tuy nhiên, việc thành lập Trung tâm Giao dịch vàng Việt Nam hiện nay cũng đang bị “đóng băng” do nhiều nguyên nhân. Trong đó phải kể đến công tác chuẩn bị cán bộ, cơ sở vật chất và nhất là cơ chế cho trung tâm hoạt động vẫn “chưa đâu vào đâu” Trong khi chờ đợi sự ra đời và đi vào hoạt động của Trung tâm Giao dịch vang Việt Nam thì dường như việc thành lập Kho ngoại quan vàng của các công ty kinh doanh vàng phần nào đó đã góp phần bình ổn được thị trường vàng, giúp thị trường vàng trong nước thích ứng với những cơn sốt “nóng lạnh” của thị trường vàng thế giới Các công ty kinh doanh vàng tin rằng kho ngoại quan, giảm thuế nhập khẩu và đa dạng nguồn nguyên liệu đầu vào là những động thái tích cực không chỉ đối với họ mà còn góp phần làm bình ổn thị trường vàng trong nước, tránh những đợt nóng sốt bất thường. Giá vàng trong nước sẽ được kích theo sát giá vàng thế giới khi những cản trở cung cầu vàng đã được gỡ bỏ./. 6. Môi trường toàn cầu Thời gian gần đây, giá vàng thế giới liên tục tăng lên những đỉnh giá mới, tiến tới mốc 974 USD/ounce. Liệu tình hình này sẽ tiếp tục kéo dài, và liệu có khả năng giá vàng lên trên 1.000 USD/ounce hay hơn nữa? • Các nguyên nhân khiến giá vàng tăng cao trong hai tháng đầu năm 2008: Cung cầu: cung giảm, cầu tăng Hiện tại, với tình hình kinh tế và thị trường tài chính thế giới ngày càng xấu đi thì nhu cầu đầu tư vào vàng sẽ ngày càng tăng lên. Như cựu chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED), ông Alan Greenspan, nhận xét là việc chúng ta đang ở trong chu kỳ suy thoái là điều không cần bàn cãi, nhiều khả năng kinh tế toàn cầu 16
- sẽ còn diễn biến theo chiều hướng xấu đi hơn nữa trong trung hạn. Và vì vậy, nhu cầu đầu tư vào vàng sẽ không giảm đi. Theo dự đoán, nhu cầu này sẽ vẫn ở mức cao kỷ lục, trên 40 triệu ounce trong năm nay và năm tới. Cung vàng, ngược lại lại đang sụt giảm. Hiện tại sản lượng nhiều mỏ vàng đang sụt giảm. Các nhà sản xuất vàng lớn như Nam Phi và Mali đang gặp nhiều trục trặc trong khai thác vàng và bạch kim. Sản lượng của các nước Tây Phi cũng giảm 9% trong năm 2007. Mặt khác, trái với giai đoạn những năm 1990 khi các Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) đồng ý bán vàng ra để tăng cung vàng nhằm kiềm chế giá vàng tăng, thì hiện tại, các NHTƯ đang mua vàng vào để dự trữ trong tình huống đồng USD đang mất giá. NHTƯ Trung Quốc đã chuyển hóa một phần kho dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới của mình (hơn 1.400 tỉ đôla) từ đôla và các tài sản bằng đôla sang vàng. Đồng USD: tiếp tục suy yếu Những diễn biến trong thời gian gần đây trên thị trường thế giới không hề đưa ra bất kỳ thông tin nào cho thấy đồng USD sẽ hồi phục trong ngắn hạn. Kinh tế Mỹ suy thoái buộc FED phải cắt lãi suất, mà FED cắt lãi suất thì USD tiếp tục giảm giá. Trong vòng chưa đầy năm năm, đồng USD đã mất giá 50% so với đồng EUR! Đồng USD càng giảm thì vàng càng rẻ tương đối so với các kênh đầu tư khác, và là “thiên đường an toàn” trong tình huống các thị trường chứng khoán đi xuống còn lạm phát tăng cao. Vì vậy, đồng USD càng yếu thì giá vàng sẽ càng tăng trong tình hình hiện nay. Các nhà đầu tư tổ chức vẫn đang đầu cơ vàng Các tổ chức đầu tư vẫn đang tiến hành đầu cơ giá vàng ở mức rất cao. Điều này đẩy nhu cầu ngắn hạn của vàng lên ngày càng cao trong năm 2007 và đóng vai trò chính trong việc đẩy giá lên những mức cao kỷ lục. Với việc nhu cầu vàng nguyên liệu của Trung Quốc và Ấn Độ vẫn cao, các nhà đầu cơ này tiếp tục mong đợi những mức giá cao hơn rất nhiều, tạo sức ép rất lớn lên giá vàng. Vàng và dầu “chạy” cùng chiều 17
- Mối tương quan cùng chiều giữa vàng và dầu vẫn đang tiếp diễn giống như trong các năm trước. Theo số liệu quá khứ, tỉ số dầu/vàng thường xoay quanh mức 15:1, nghĩa là 15 thùng dầu bằng giá của một ounce vàng. Hiện tại, tỉ số này chỉ là 10:1 do giá dầu tăng quá nhanh. Nếu theo diễn biến quá khứ, tỉ số này sẽ điều chỉnh trở lại mức 15:1 khi nhà đầu tư nhận ra vàng đang rẻ tương đối so với dầu. Để tỉ số này trở lại mức đó, hoặc là giá dầu phải giảm xuống khoảng trên 50 USD hoặc giá vàng tăng lên 1.400 USD! Bạn sẽ tin vào kịch bản nào? Một trong những kịch bản trung dung mà người viết dự đoán là giá dầu giảm một phần xuống trung bình khoảng 80 USD và giá vàng sẽ nằm ở mức 1.100-1.200 USD trong năm nay. Kinh tế vẫn bất ổn, lạm phát vẫn tăng cao Cho đến bây giờ, các nền kinh tế chính của thế giới như Mỹ, châu Âu và Anh đều đang đương đầu với suy giảm kinh tế, lạm phát cao, thậm chí là khủng hoảng tín dụng tại các nước phương Tây. Nhật cũng đang cho thấy kinh tế của họ cũng không "khỏe" lắm và rủi ro giảm tăng trưởng không hề nhỏ. Nhiều người đang so sánh tình hình kinh tế hiện nay với việc suy thoái toàn cầu trong năm 1987. Người ta nhận định rằng những gì diễn ra hiện tại đối với cuộc khủng hoảng tín dụng cũng không khác gì giai đoạn sụp đổ chứng khoán năm 1987, thậm chí tình hình hiện nay của Mỹ còn tệ hơn giai đoạn đó khi các số liệu bảng lương, việc làm và sản lượng công nghiệp đều giảm sút. Nhiều nhà phân tích cho rằng FED sẽ còn phải cắt giảm thêm 2% lãi suất nữa trong vòng 12 tháng tới để cứu nền kinh tế, còn NHTƯ châu Âu và Anh cũng khó tránh bài toán tương tự. Yếu tố kỹ thuật ủng hộ Quan sát trên đồ thị giá vàng theo tuần (xem hình), áp dụng phân tích về đường trung bình di động lẫn sóng Elliott, chúng ta có thể nhận ra giá vàng vào cuối tháng 10-2007 đã bắt đầu một giai đoạn tăng giá trung hạn mạnh khi đường bình quân di động ngắn hạn đã cắt đường bình quân di động dài hạn theo chiều từ 18
- dưới lên, mở ra một chu kỳ tăng giá trung hạn, tương ứng với bước sóng 3 theo chiều tăng của phân tích sóng Elliott. Bỏ qua các vấn đề kỹ thuật phức tạp trong phân tích này, chúng ta có thể kết luận rằng việc giá vàng tăng cao trong hai tháng đầu năm 2008 được hỗ trợ mạnh mẽ bởi những yếu tố tâm lý và kỹ thuật của thị trường xuất hiện từ cuối năm 2007. • Dự báo Theo phân tích kỹ thuật mà nói, trong ngắn hạn, giá vàng sẽ bắt đầu một giai đoạn điều chỉnh giảm ngắn theo sóng 4 của phân tích sóng Elliott trước khi tăng trở lại (hiện tại giá vàng đang ở mức 974, hiện tại nhiều nhà đầu cơ quốc tế có thể sẽ bán kiếm lời ở mức này). Khả năng giá vàng quốc tế quay lại giá dưới 890 USD trong ngắn hạn là không thấp, và chính những mức cản quá khứ xung quanh 890 và 850 sẽ là những mức giá hấp dẫn để nhà đầu cơ trên thế giới mua vào. Đây cũng là những mức giá gợi ý tốt cho nhà đầu tư trong nước thực hiện chiến lược kinh doanh của mình. 19
- Về dài hạn, theo dự đoán tình hình kinh tế thế giới nhanh nhất chỉ có thể hồi phục vào quí 4 năm nay (mà triển vọng này cũng không sáng sủa). Chính vì vậy khả năng vàng tiếp tục tăng giá trong trung hạn là khá rõ ràng, tương ứng với phân tích kỹ thuật là sau khi điều chỉnh giảm, giá vàng sẽ quay lại phá vỡ đỉnh 950 USD. Dự báo của một số nhà phân tích ở Anh là giá vàng sẽ lên trên 1.200 USD trong năm 2008 thì có lẽ hơi quá lạc quan, nhưng theo người viết, có nhiều lý do để giá vàng lên đến mức 1.100 USD trong năm nay. III. Phân tích môi trường bên trong 1. Phân tích mô hình 5 lực lượng cạnh tranh a. Các đối thủ cạnh tranh trong ngành Trong ngành vàng bạc đá quý Việt Nam hiện nay có rất nhiều công ty đang hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này. Hầu hết các công ty lớn mạnh có tiềm lực tập trong chủ yếu ở 2 trung tâm kinh tế lớn nhất nước là TP HCM và Hà Nội. Trong đó phải kể đến các đại gia như Công ty vàng bạc Bảo Tín Minh Châu tại Hà Nội, Công ty cổ phần vàng bạc đá quý Phú Nhuận, Công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn( SJC)…Chiếm phần lớn thị phần của ngành. Có một số liệu thống kê choi thấy xếp hạng của các doanh nghiệp trong ngành vàng bạc đá quý Việt Nam trong top 500 công ty hàng đầu lớn nhất nước. 1. Xếp hạng các doanh nghiệp ngành Vàng bạc đá quý thuộc Danh sách VNR500 – 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam X Xế ếp hạng p hạng Mã Tên công ty trong trong số thuế ngành VNR500 03010 1 15 Công Ty Vàng Bạc Đá Qúy Sài Gòn - SJC 45759 2 13 Công Ty CP Vàng Bạc Đá Quý Phú Nhuận 03005 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoạch định chiến lược tài chính của CTCP cơ điện Thủ Đức giai đoạn 2011-2020
163 p | 610 | 220
-
Đề tài: Phân tích chiến lược kinh doanh của hệ thống bán lẻ của siêu thị Big C
31 p | 674 | 205
-
Đề tài: Phân tích môi trường vi mô của Pepsi
24 p | 3359 | 153
-
Tiểu luận: Chiến lược marketing sản phẩm bánh trung thu của công ty Kinh Đô
44 p | 658 | 90
-
Thuyết trình: Phân tích môi trường kinh doanh công ty cổ phần Vinagame
26 p | 470 | 69
-
LUẬN VĂN:Phân tích môi trường kinh doanh Công ty Cổ phần Thiết kế Xây dựng và Thương mại Nghĩa Hùng.
47 p | 283 | 67
-
Tiểu luận: Chiến lược mở rộng thị trường của Tập đoàn Cafe Trung Nguyên
27 p | 1006 | 66
-
Đề tài: Phân tích tài chính và tình hình hoạt động Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi 2015
49 p | 346 | 42
-
Tiểu luận môn Môi trường kinh doanh
18 p | 394 | 37
-
Báo cáo: Đề xuất chiến lược kinh doanh của Tổng công ty Xây dựng Sông Đà
5 p | 195 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần VIWASEEN 6
102 p | 183 | 29
-
Đề tài: Phân tích môi trường kinh doanh
10 p | 215 | 17
-
Bài tiểu luận kết thúc học phần: Phân tích hoạt động kinh doanh
34 p | 87 | 14
-
Tiểu luận: Phân tích hoạt động kinh doanh của công ty và của Phòng kinh tế đối ngoại
30 p | 164 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Hoạch định chiến lược kinh doanh tại Công ty Cổ phần In Thái Nguyên từ nay đến năm 2015
115 p | 79 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Tài chính - Ngân hàng: Phân tích hoạt động kinh doanh tại Agribank chi nhánh huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2010-2012
119 p | 15 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp: Phân tích môi trường và định hướng chiến lược kinh doanh của Công ty TNHH Nhập khẩu và Thương mại Minh Tuyết (Đức Minh sport)
70 p | 25 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoạch định chiến lược cho chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Sài Gòn đến năm 2020
98 p | 35 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn