Phân tích tác phẩm
lượt xem 4
download
Tham khảo tài liệu 'phân tích tác phẩm', tài liệu phổ thông, ôn thi đh-cđ phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phân tích tác phẩm
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ PHÂN TÍCH TÁC PH ẨM VỢ CHỒNG A PHỦ CỦA TÔ HO ÀI Năm 1952 Tô Hoài đi v ới bộ đội trong chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Trong đợt công tác 8 tháng ấy, nhà văn đ ã sống với nhân dân nhân nhiều dân tộc ở những khu căn cứ du kích và nh ững vùng bị địch chiếm đóng tr ước đây. Tô Ho ài thuật lại: “Cái kết quả lớn nh ất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy l à đất nước và người miền Tây đ ã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ qu ên. Tôi không th ể bao giờ qu ên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi hốc núi l àng Tà Sùa r ồi cùng vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù!” (T rở lại! Trở lại!). Không bao gi ờ tôi qu ên được vợ chồng Lý Nủ Chu tiễn chúng tôi d ưới chân núi Cao Ph ạ cũng vẫy tay k êu: “Chéo lù! Chéo lù!”. Hai ti ếng “Trở lại! Trở lại!” chẳng những nhắc tôi có ng ày trở lại, phải đem trả lại cho nhữ ng ngư ời thương ấy của tôi một kỉ niệm tấm l òng mình, m ột cái g ì làm hi ện lại cả cuộc đời ng ười Hmông trung thực, chí t ình, dù gian nan đ ến thế n ào bao gi ờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại.(…). H ình ảnh Tây Bắc đau th ương và d ũng cảm lúc n ào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi (…) ý thức thiết tha với đề t ài là m ột lẽ quyết định, v ì thế tôi viết Truyện Tây Bắc. Đoạn tự thuật trên đây đã nói khá rõ v ề hoàn cảnh và nhiệt tình thúc đẩy tác giả sáng tác Truyện Tây Bắc. Truyện Tây Bắc viết năm 1953, gồm ba truyện m à Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn th ành công nh ất (hai truyện kia l à Cứu Đất Cứu M ường và Mường Giơn). Tác ph ẩm được tặng giải nhất giải th ưởng văn học của Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955. I – CỐT TRUYỆN VÀ CHỦ ĐỀ VỢ CHỒNG A PHỦ 1. Cốt truyện Dựa vào m ột câu chuyện có thật, Tô Ho ài viết truyện Vợ chồng A Phủ . Truyện ngắn này kể lại cuộc đời của đôi vợ chồng ng ười Hmông – Mị và A Phủ – từ chỗ là kẻ nô lệ đau khổ trong nh à tên th ống lý Pá Tra, rồi giúp nhau thoát đư ợc, đến khi gặp cán bộ cách mạng trở thành nh ững quần chúng trung ki ên, nh ững đội vi ên du kích tích c ực. Cốt truyện của tác phẩm khá đ ơn giản, bám sát theo diễn biến của cuộc đời hai nhân vật chính v à được trình bày theo trình t ự thời gian. Có thể thấy hai chặng của câu chuyện diễn ra ở hai địa đ iểm Hồng Ng ài và Phiềng Sa. Đoạn một là thời gian Mị v à A Ph ủ ở Hồng Ngài. Đ ọan này có th ể xem là một tình tiết khá trọn vẹn, có giới thiệu, mở mối, phát triển, thắt nút và giải quyết. Hai nhân vật chín h được giới thiệu lai lịch, dung m ạo, rồi cùng sống trong m ột hoàn cảnh và dẫn tới sự thông cảm, gặp gỡ giữa họ. Mâu thuẫn giữa A Phủ v à Mị với bố con Pá Tra – đại diện cho thế lực phong kiến ở miền núi – đã phát triễn đến gay gắt, đưa tới hành động đấu tr anh tự phát để giải thoát của Mị v à A Phủ: cắt dây trói, trốn đi. Đoạn đầu là quãng đường đấu tranh tự phát của họ. Đoạn thứ hai là quãng th ời gian Mị v à Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ A Phủ ở Phiềng Sa. Đến Phiềng Sa, Mị v à A Phủ đã thành v ợ chồng. Họ mong muốn v à bắt tay vào xây d ựng một cuộc sống hạnh phúc đ ơn sơ nhưng l ại bị bọn Tây ở đồn Bản Pe c ướp phá. T ừ đây bắt đầu một quá tr ình giác ng ộ của vợ chồng A Phủ, qua hai buớc: gặp Tây đồn và gặp cán bộ A Châu. Những ngộ nhận đ ược gải quyết v à hình thành ở họ nhận thức đúng đắn về bạn và thù. H ọ còn được thử thách v à trưởng th ành trong cu ộc chiến đấu chống giặc l ên càn quét khu du kích Phi ềng Sa. Đoạn thứ hai l à quá trình giác ng ộ và trưởng thành của Mị và A Phủ dưới ánh sáng của Đảng, trong ho àn cảnh khu du kích Phiềng Sa. Tác giả đã dùng một lối kể chuyện mạch lạc, khá đ ơn giản, nhân vật cũng phân ra hai tuyến đối lập r õ rệt, do đó m à truyện ít nhiều gần gũi với truyện dân gian. Chính cách kể chuyện này đã phù h ợp với nội dung v à nhân v ật trong truyện, góp phần tạo n ên sự thống nhất thẫm mỹ của h ình th ức với nội dung tác phẩm. Cốt truyện có hai phần nh ư vậy được diễn biến khá tự nhi ên: nhưng nó c ũng bộc lộ được nhược điểm: ch ưa làm rõ sự câu kết giữa hai thế lực phong kiến v à đế quốc, n ên hai vấn đề chống đế quốc v à phong ki ến ch ưa thật gắn bó nhuần nhuyễn, hai chặng đ ường của các nhân v ật chính cũng c òn tách r ời. Chưa kể một nh ược điểm nữa ở đoạn hai, l à đời sống tâm hồn của nhân vật, nhất l à Mị- ít được soi sáng, diễn tả, n ên nhân v ật cũng giảm sức thu hút với người đọc. 2. Chủ đề Con đường đi và số phận của hai ng ười thanh ni ên Hmông – Mị và A Phủ – khá tiêu biểu cho vận mệnh lịch sử của nhân dân các dân tộc thiểu số miền núi trong cách mạng. Đấy là con đư ờng từ tự phát đến tự giác đấu tranh chống đế quốc v à phong ki ến, từ trong đau khổ tăm tối v ươn ra ánh sáng, dư ới sự d ìu dắt của cán bộ Đảng. Trong quá tr ình ấy, những ng ười nông dân lao động ngh èo kh ổ ở miền núi đ ã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp và trở thành người quần chúng cách mạng, những con ng ười mới. Có th ể xem nhận định tr ên là chủ đề truyện ngắn Vợ chồng A Phủ . Cùng v ới hai truyện nữa trong tập Truyện Tây Bắc , Vợ chồng A Phủ là tác ph ẩm thành công xu ất sắc đầu tiên về đề tài miền núi trong nền văn xuôi cách mạng hiện đại. Có thể nói Tô Ho ài đã góp phần đổi mới đề t ài miền núi t rong n ền văn học ta từ tr ước cho đến lúc đó. Với Truyện Tây Bắc, hình ảnh chân thực của các dân tộc miền núi trong quá tr ình phát tri ển cách mạng đ ã được phản ánh v ào văn h ọc, với hai vấn đề c ơ bản là đấu tranh chống đế quốc v à phong kiến. Ở truyện Vợ chồn g A Phủ, trong khi t ập trung diễn tả quá trình đến với cách mạng của nhân vật, tác giả cũng đồng thời đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa trong cuộc sống của nhân dân mi ền núi: vấn đề giải phóng phụ nữ – vấn đề t ình yêu và h ạnh phúc của thanh niên… Nh ững vấn đề ấy làm sâu s ắc và phong phú hơn ý trung tâm c ủa tác phẩm. Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ II – PHÂN TÍCH ĐO ẠN TRÍC H Đoạn trích giảng l à phần đầu của truyện, kể về lai lịch cô Mị, cuộc sống đau khổ của Mị trong nh à Pá Tra và s ức trỗi dậy m ãnh liệt của l òng yêu đời, ham sống ở cô, tr ong m ột ngày xuân. 1. Cô M ị và cuộc đời l àm dâu g ạt nợ trong nh à thống lý Pá Tra Mị xuất hiện ngay trong câu đầu của truyện. Giữa khung cảnh tấp nập, gi àu có của nhà Pá Tra “nhi ều nương, nhi ều bạc, nhiều thuốc phiện nhất l àng”, ngư ời đọc không thể không ch ú ý đến vị trí xuất hiện của Mị: “ngồi quay sợi gai b ên tảng đá tr ước cửa, cạnh t àu ngựa”. Một vị trí có rất nhiều ngụ ý, chẳng phải thế sao, khi cô Mị đ ược đặt ngang với những tảng đá v à cái tàu ng ựa? Cô Mị lại th ường xuyên xuất hiện ở vị trí ấy, nh ư gắn vào những vật kia, tạo n ên m ột mảng sống ri êng, cái m ảng sống im l ìm, tăm tối, cực nhọc nó phơi bày ra c ạnh cái gi àu sang, t ấp nập của nh à quan th ống lý, nh ưng chính nó c ũng là một phần của h ình ảnh trọn vẹn về nh à thống lý Pá Tra. Th êm m ột nét phác về châ n dung nhân vật gợi cho ng ười đọc những băn khoăn chờ đợi sự lí giải của tác giả: “Lúc n ào cũng vậy, d ù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi c õng nước dưới khe suối l ên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn r ười rượi“. Như thế là, chỉ trong mấy câu mở đầu, tác giả đ ã làm được rất khéo việc giới thiệu nhân vật v à hoàn cảnh. Như để trả lời cho những băn khoăn ở tr ên, tác gi ả kể lại câu chuyện cô Mị về l àm dâu nhà Pá Tra. Mị vốn là một cô gái nh à nghèo, tr ẻ, đẹp và nhất là Mị rất giàu lòng yêu đời, ham sống, lại thêm tài th ổi sáo nữa. Đấy l à một cô gái chăm l àm (“Con nay đ ã biết cuốc n ương làm ngô, con ph ải làm ngô tr ả nợ cho bố” – lời Mị nói với bố). Mị cũng thật l à một đứa con hiếu thảo (khi bị ép về nh à Pá Tra, M ị muốn quy ên sinh, nhưng ngh ĩ đến bố sẽ kh ổ hơn, nên không đành l òng chết nữa). Tóm lại, đấy l à một cô gái rất xứng đáng để h ưởng hạnh phúc và đang s ống những ng ày tươi đ ẹp của tuổi trăng tr òn, dù trong c ảnh ngh èo khó. Mùa xuân đ ến, Mị sống những giờ phút hồi hộp sung s ướng chờ nghe những tiếng sá o quen thuộc của ngừ ơi yêu; và không ít nh ững chàng trai Hmông đ ã say mê cô gái con nhà nghèo ấy: “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Thế nhưng chính trong m ột đêm xuân như th ế, Mị đã bị ép về làm con dâu g ạt nợ cho nhà Pá Tra. Do đâu? Ch ỉ vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị: Bố mẹ Mị ng ày trước lấy nhau, không có ti ền cưới, phải đến vay của bố thống lý Pá Tra “…, mỗi năm đem nộp l ãi cho chủ nợ một n ương ngô. Đ ến tận khi hai vợ chồng gi à rồi mà vẫn ch ưa trả được nợ. Ng ười vợ chết cũng ch ưa trả hết nợ”. Mị mang món nợ ấy nh ư một thứ “tội tổ tông” của ng ười nghèo, t ừ lúc sinh ra đời! Tô Ho ài đã tố cáo một h ình th ức bóc lột của bọn phong kiến ở miền xuôi cũng nh ư miền núi: h ình th ức cho vay nặng l ãi, nó đã buộc chặt bao nhi êu người lao động ngh èo khó vào số phận nô lệ, phụ thuộc bọn thống trị gi àu có. Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ Trong th ời gian đầu bị bắt về l àm vợ A Sử, Mị – bằng lòng yêu t ự do và ham s ống mạnh mẽ – đã phản kháng quyết liệt. H àng mấy tháng r òng, đêm nào M ị cũng khóc, rồi Mị quyết tự tử. N àng Kiều của Nguyễn Du kh i bị dấn thân v ào cu ộc đời ô nhục, đ ã hơn một lần nghĩ đến quy ên sinh mà c ũng không thóat đ ược kiếp đọa đ ày đến mười lăm năm! Cô Mị ở đây còn gặp tình cảnh chua xót h ơn: cô có ch ết thì món n ợ vẫn còn, bố già còn kh ổ hơn nữa! Thế l à Mị không đ ành ch ết. Mị phải chịu đựng cuộc sống nô lệ. Những năm tháng trong nh à Pá Tra là m ột chuỗi d ài nh ững cực nhọc, vất vả nối tiếp nhau, là nh ững sự bóc lột v à hành h ạ của bọn chủ nô với kẻ nô lệ m à Mị phải chịu đựng: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, m à lúc nào c ũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau tiếp nhau vẽ ra tr ước mắt, mỗi năm, mỗi m ùa, m ỗi tháng lại l àm đi làm l ại… Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó c òn được đứng g ãi chân, đứng nhai cỏ, đ àn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đ êm cả ngày”. Thê m vào s ự đày đọa về thể xác ấy, c òn là ách áp chế về tinh thần. Mị bị r àng bu ộc trong một ý nghĩ: bố con Pá Tra đ ã “trình ma” mình là người nhà nó rồi, th ì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thôi! M ê tín, th ần quyền đã hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị, nó l à một thứ “thuớc phiện của tinh thần” đối với người dân bị áp bức, nh ư Mác đ ã nói. Trong đo ạn kể về cuộc đời l àm dâu c ủa Mị, Tô Ho ài đã không ch ỉ đứng ở chỗ tố cáo những sự áp bức bóc lột của bọn phong kiến miền núi, m à còn nói lên m ột sự thật đau xót này: con ng ừơi bị áp bức cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo d ài đến một lúc n ào đó th ì dường như bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. Cô Mị chính l à nạn nhân nh ư thế: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ th ì Mị tưởng m ình cũng là con trâu , mì nh cũng là con ng ựa, là con ngựa phải đổi cái t àu ngựa nhà này đến cái t àu ngựa nhà khác, con ng ựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi l àm mà thôi”. Và chân dung M ị cũng đ ược khắc đậm một nét n ày: “Mị cúi mặt không ngh ĩ ngợi nữa”, “mỗi ng ày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó c ửa”. Mị sống nh ư một cái bóng, sống m à như ch ết. Suốt trong phần đầu của truyện, Tô Ho ài gần như không đ ể nhân vật Mị có một lời nói trực tiếp n ào (trừ một câu nói với bố, trong đoạn hồi tưởng quá khứ). Chi tiết về căn buồng Mị nằm, âm u, chạng vạng với cái cửa sổ lỗ vuông b ằng bàn tay đã là một biểu t ượng đậm nét cho cuộc đời nhân vật. Cái cửa sổ “lúc nào trông ra c ũng chỉ thấy trăng trắng, không biết l à sương hay là n ắng. Mị nghĩ rằng m ình đành ng ồi trong cái lỗi vuông ấy m à trông ra cho đ ến chết th ì thôi”. Th ậm chí Mị cũng không bu ồn nghĩ đến cái chết nữa: “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng M ị cũng không c òn ngh ĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Khi một nạn nhân đau khổ còn ngh ĩ đến cái chết để chấm d ứt hoàn cảnh sống bi kịch của m ình, thì ph ải chăng trong h ọ còn m ột chút sức phản kháng, c òn tha thi ết một cuộc sống có ý nghĩa h ơn. Nhưng Mị lúc này dường như đã phó m ặc cuộc sống của m ình cho định mệnh, không nghĩ g ì về thân ph ận của m ình nữa, thậm chí c ũng không có ý thức về thời gian sống nữa. Cô không nhớ rằng m ình về làm dâu nhà Pá Tra đ ã bao nhiêu n ăm. Và ng ồi trong căn buồng âm u Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ nhìn qua cửa sổ, Mị không biết cái m àu nhờ nhờ trăng trắng ng òai kia là s ương hay là n ắng. Với Mị, sự chuyển biến của thờ i khắc sớm tối hay l à năm tháng qua đi c ũng không có ý nghĩa gì, không g ợi cho cô cảm xúc g ì, cuộc sống chỉ c òn là m ột màn sương m ờ đục không dĩ vãng, không hi ện tại và tương lai! Tất cả t ình trạng đó l à hậu quả của sự đọa đ ày dai dẳng, nặng nề của ách thố ng trị phong kiến trung cổ đối với những ng ười lao động bị đẩy v ào thân ph ận nô lệ. Ng òi bút của Tô Hòai có s ức tố cáo mạnh mẽ. Mặt khác chính sự đ è nén càng ph ũ phàng tàn b ạo, th ì sự trỗi dậy ở phần sau của nhân vật c àng có giá tr ị. Trong ph ần đầu của tác phẩm, cuộc sống của Mị nh ư bị giam h ãm trong cái không gian ch ật hẹp và tù đọng của nh à Pá Tra v ới một nhịp điệu buồn tẻ, đ ơn điệu của những công việc lao dịch lặp đi lặp lại “… lúc n ào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra tr ước mặt, mỗi năm mỗi m ùa, m ỗi tháng lại làm đi làm l ại”; cuộc sống ấy diễn ra trong một thời gian cũng nh ư ngưng đ ọng với một ánh sáng mờ mờ đ ùng đục, cái sắc m àu của những ho àng hôn dài đ ằng đẵng, buồn tẻ đến tê tái mà ta thư ờng gặp trong văn học x ưa. 2 . Sự “trỗi dậy” m ãnh liệt của l òng ham s ống và khát v ọng hạnh phúc. Phải chăng trong tâm h ồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh? Cô Mị một thời trẻ đẹp, y êu đời nay đã hoàn toàn an ph ận trong cuộc sống nô lệ, sống m à như ch ết ấy? Không, ng òi bút của nhà văn không ch ỉ hướng vào cái ảm đạm, mặt đen tối của cuộc đời m à còn thiết tha hướng tới phía sự sống v à ánh sáng, đ ể khơi gợi nó lên. Tô Hoài đ ã tìm sâu vào t ận cùng của ý thức v à trong đáy sâu ti ềm thức nhân vật, cho thấy vẫn c òn le lói chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống, của khao khát hạnh phúc. Nh ư dưới lớp tro d ày ngu ội lạnh kia vẫn ủ chút than hồng, chỉ chờ một ngọn gió thổi đến l à lại bùng lên. Trong truy ện Chí Ph èo, ngòi bút nhân đạo của nh à văn hiện thực xuất sắc Nam Cao c òn kh ơi bùng lên nh ững khát vọng hạnh phúc và lương thi ện ở Chí Ph èo, m ột kẻ đã tưởng như không c òn đời sống tâm linh con ngư ời với một h ình hài không ph ải là nhận dạng nữa! Tô Ho ài cũng góp th êm vào truyền thống nhân đạo của văn học ta một tiếng nói có sức mạnh. Trong đo ạn văn n ày, tác gi ả đã dõi theo t ừng bước biến diễn, phát triển của đời sống tâm hồn nhân vật, đ ược đặt trong một ho àn cảnh khá “điển h ình” là mùa xuân v ề trên vùng núi cao. D ầu còn trong nghèo khó, mùa xuân v ề cũng kh ơi gợi ở ng ười dân miền núi một niềm vui sống. Ng ười Hmôn g ở Hồng Ng ài ăn Tết khi ngô lúa đ ã gặt xong, m ùa xuân có niềm vui thu họach m ùa màng. Cái T ết năm ấy đến giữa lúv gió v à rét d ữ dội, nh ưng vẫn không ngăn đư ợc những sắc m àu của mùa xuân. “nh ững chiếc váy hoa đ ã đem phơi trên mỏm đá, x òa như con bư ớm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra m àu đỏ hau, đỏ thậm, rồi sang m àu tím man mát”. Và còn nh ững âm thanh rộn r ã báo hiệu mùa xuân: “đám trẻ đợi Tết, ch ơi quay, cư ời ầm trên sân chơi trư ớc nhà”. Sự sống của tạo vật v à con người như được khởi động, b ừng tỉnh (Ai đ ã đi qua Tây B ắc cũng khó m à quên đư ợc những miền núi cao với những đồi cỏ tranh v àng nhạt, những ng àn lau xam xám đi ểm vào cái trập Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ trùng của núi đá xanh mờ, đi h àng buổi đường vẫn khao khát một bóng ng ười, một xóm núi… Cái Tây B ắc vắng lặng ấy khi m ùa xuân đ ến bỗng tr ào lên s ức sống. Đấy l à rừng ban trắng ngút ng àn như lẫn vào trong mây núi, là nh ững đốm lửa đốt tr ên nương, và nh ất là những sắc m àu sặc sỡ vui mắt của váy áo, d ù, ô của từng tốp nam nữ thanh ni ên Hmông đi chơi xuân, d ập dìu trong tiếng sáo tiếng kh èn…). Hoàn cảnh ấy không thể không tác động v ào tâm h ồn Mị. Nhất l à tiếng sáo, tiếng sáo rủ bạn đi ch ơi ngòai đầu núi. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Trong đoạn tả diễn biến tâm trạng của Mị, tiếng sáo đ ã có m ột vai tr ò đặc biệt quan trọng. Bởi v ì “ngày tr ước Mị thổi sáo giỏi. M ùa xuân này, M ị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá tr ên môi, th ổi lá cũng hay nh ư thổi sáo. Có biết bao nhi êu ngư ời mê, ngày đêm đ ã thổi sáo đi theo Mị hết núi n ày sang núi khác”. Như thế, với Mị, tiếng sáo l à biểu tượng lôi cuốn nhất của m ùa xuân, c ủa khát vọng hạnh phúc. Thời khắc để ngọn lửa sống trong l òng Mị bùng lên đ ã đến, đấy l à một “đêm tình mùa xuân”. Và chúng ta c ũng hồi hộp t heo ngọn đèn của tác giả “từng b ước rọi sâu v ào miền thâm u của thế giới nội tâm nhân vật”. Tiếng sáo, tiếng kh èn và tiếng reo h ò của đám trai gái và tr ẻ con tụ tập ở sân ch ơi đầu làng vẳng lại. “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Cái n ồng nàn của một đ êm xuân lại được tăng th êm bởi bữa cơm rượu ngày tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ỹ và đámngư ời nhảy đồng, ng ười hát… “Mị cũng uống r ượu. Mị lén lấy hũ r ượu, cứ uống ực t ừng bát. Rồi say…”. Chính trong một tình trạng đã được kích động bởi men r ượu, bởi những âm thanh náo nhiệt của ng ày tết, Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay của m ình, mà d ấu hiệu đầu ti ên là M ị sống lại v ới những kỉ niệm đẹp ng ày trước, những ngày hạnh phúc của tuổi trẻ, với những bữa r ượu bên bếp lửa ấm cúng, với những tiếng sáo dặt d ìu của bao nhi êu trai làng ngày đêm theo M ị … Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đ ã vượt qua t ình trạng sống “phí thời gian”, sống m à như ch ết, lâu nay. Tiến th êm một bước nữa. Mị trở lại với những niềm vui sống, trong chốc lát. “M ị thấy phơi ph ới trở lại, trong l òng đột nhiên vui sư ớng như những đêm tết ngày trước, Mị trẻ lắm. Mị vẫn c òn trẻ. Mị muốn đi ch ơi”. Lòng ham s ống đã trỗi dậy. Sức sống bấy lâu nay bị đ è nén bỗng bồng bột tr ào lên, không th ể dập tắt đ ược nữa! Phản ứng đầu tiên đến trong tâm trí M ị là một ý nghĩ : “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc n ày, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa…”. Ý nghĩ về cái chết lúc n ày là biểu hiện của sự phản kháng với ho àn cảnh, nó chứng tỏ rằng Mị đ ã ý th ức trở lại t ình cảnh đau xót dai dẳng của m ình. Trong khi ấy th ì tiếng sáo gọi bạn t ình cứ thôi thúc, quyến rũ. Nó l à biểu tượng của sự sống, t ình yêu, t ự do, m à bấy lâu nay Mị d ường nh ư đã quên r ồi, nay đang trở lại. Tiếng sáo theo sát t ừng bước diễn biến tâm trạng nhân vật, nó chính là ngọn gió thổi b ùng lên đốm lửa trong l òng Mị. Tiếng sáo từ chỗ l à một sự việc của thực tại b ên ngoài nhân v ật Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ (“tiếng sáo gọi bạn y êu vẫn lửng l ơ bay ng òai đường”), đã xâm nh ập thế giới tâm hồn Mị, trở thành một hiện hữu của đời sống b ên trong (“trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”). Sức sống trỗi dậy nh ư những đợt sóng ào ạt trong tâm hồn Mị, đợt sau lại mạnh mẽ hơn đợt trước. Đến đây đ ã xảy ra b ước phát triển quyết định: từ những sôi sục trong tâm trí nó bùng ra thành hành đ ộng. Mà đầu tiên là m ột hành động có nhiều ý nghĩa: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ th êm vào đ ĩa đèn cho sáng”. Có th ể xem đấy l à một hành đ ộng thức tỉnh. Nó có nghĩa l à Mị đã thắp lên m ột ngọn đ èn soi r ọi vào cu ộc sống của mình, để thóat ra khỏi những đ êm dài tăm t ối triền miên của quá khứ. V à hành đ ộng này thúc đẩy hành động khác tiếp theo, nh ư một “phản ứng dây chuyền” không thể ngăn lại được nữa. D ường như không k ể gì đến những r àng bu ộc khe khắt, những xiềng xích t àn bạo của nh à Pá Tra, M ị tự m ình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình: qu ấn lại tóc, rút cái váy hoa…, sử a soạn đi ch ơi Tết. Giữa lúc l òng ham s ống trỗi dậy m ãnh liệt nhất, th ì cũng là lúc nó b ị dập xuống phũ phàng nh ất. A Sử b ước vào, thản nhiên,lầm lỳ trói đứng Mị v ào cột nhà. “Tóc M ị xõa xu ống, A Sử quấn tóc l ên cột… Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt l ưng xanh ra ngoài áo, r ồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép c ửa lại”. Trong cái kĩ càng, rành r ẽ của từng động tác của A Sử , ta thấy toát lên sự tàn ác đến thản nhi ên của một kẻ đ ã không còn chút g ợn nào của lương tri n ữa. Suốt cái đêm bị trói đứng v ào cột ấy, Mị đ ã sống trong sự giằng xé m ãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng v à thực tại t àn bạo lạnh lùng. Lúc m ới bị trói, Mị vẫn sống trong tâm trạng say m ê với tiếng sáo, với những đám ch ơi Tết ngoài kia. “Ti ếng sáo đưa M ị đi theo những cuộc ch ơi, nh ững đám ch ơi”. Mị như quên m ình là đang b ị trói, qu ên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút niềm khát khao cuộ c sống mãnh liệt. Mị đã vùng bư ớc đi!” Nh ưng th ực tế phũ ph àng là nh ững vòng dây trói đang thít ch ặt, dẫu ước mong mãnh li ệt đến mấy, Mị không v ượt qua nó đ ược. Hai biểu t ượng của ước m ơ và th ực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngư ợc- tiếng sáo gọi bạn tình tha thi ết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan! . “Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ c òn nghe ti ếng chân ngựa đạp vào vách. Ng ựa vẫn đứng y ên, gãi chân, nhai c ỏ. Mị thổn thức nghĩ m ình không b ằng con ng ựa”. Thực tại phũ ph àng đã lấn át, bóp nghẹt nh ững ước mơ, khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói l ên rằng chỉ có những phản kháng tự phá t, nhân vật không thể giải thoát khỏi tình cảnh bị giam h ãm đày đọa, không thể giải phóng thực sự cho những ước vọng hạnh phúc. Trong đo ạn văn chúng ta v ừa phân tích ở t rên, Tô Hoài đ ã đặt nhân vật của m ình vào m ột hoàn cảnh thật căng thẳng, l àm bộc lộ những động lực tiềm ẩn sâu xa trong đời sống tâm hồn nhân vật, với một diễn biến, phát triển đ ược dẫn dắt hợp qui luật. Đấy l à một đoạn văn mi êu tả tâm lý khá sâu sắc v à tinh tế, có thể nói rằng tác giả đ ã đạt đến “biện chứng pháp của tâm hồn nhân vật”. Ng òi bút của nh à văn cũng thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện trong niềm tin, sự trân trọng đối với khát vọng sống trong sạch ở những con Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ người bị đọa đ ày đau kh ổ. Đấy cũ ng là sự tiếp nối tự nhi ên tinh th ần nhân đạo trong truyền thống văn học dân tộc, v à phát triển lên m ột mức cao h ơn. Nàng Ki ều bị xô đẩy v ào cu ộc sống thanh lâu ô nhục, đ ã bao l ần cố sức v ùng vẫy thóat ra, v à tấm lòng nh ớ cha mẹ, nhớ người yêu vẫn thiết th a đau đ ớn suốt ngần ấy năm trời l ưu lạc. Nhân vật Tám Bính của Nguyên H ồng, sống cuộc đời một “bỉ vỏ” d ưới đáy xã hội, bị khinh khi, săn đuổi nh ưng vẫn không nguôi khát khao m ột cuộc sống l ương thiện, trong sạch. Chỉ có điều l à những tác giả văn h ọc quá kh ứ đã không th ể tìm ra con đường thoát cho những nạn nhân đau khổ ấy trong tác ph ẩm của họ, c òn cô M ị – cũng nh ư nhiều nhân vật khác trong các tác phẩm văn học hiện đại – thì đã tìm th ấy con đ ường giải phóng thật sự, t ìm thấy sự thực hiện những ước vọng châ n chính c ủa m ình trong quá trình đến với cách mạng, d ưới ánh sáng của Đảng. Quá trình giác ng ộ và trưởng thành ấy sẽ diễn ra ở phần sau của tác phẩm nh ưng động lực thúc đẩy thì đã được phát động l ên từ trong h ành động đấu tranh tự phát ở đây rồi. III – KẾT LUẬN 1. Một số nét th ành công v ề nghệ thuật tác phẩm Thành công c ủa truyện tr ước hết là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Hai nhân vật Mị và A Phủ đã phần nào là nh ững tính cách điển h ình. Nhân v ật vừa mang tính ti êu biểu cho dân t ộc, cho giai cấp của họ, đồng thời cũng có nét cá tính r õ rệt. A Phủ th ì gan góc mà bộc trực, cả tin, chất phác. Ở Mị có một đời sống nội tâm sôi nổi d ưới vẻ ngo ài lặng lẽ. Nét đặc sắc trong xây dựng nhân vật của Tô Ho ài trong truy ện ngắn n ày là miêu t ả diễn biến b ên trong tâm h ồn nhân vật, nhất l à Mị. Những đoạn tả sự thức tỉnh của niềm khát vọng cuộc sống ở Mị trong một đ êm xuân (đ ã phân tích ở trên), cảnh Mị suy nghĩ tới hành đ ộng cắt dây trói cho A Phủ l à những thành công n ổi rõ của tác giả trong cách mi êu tả “từ bên trong” nhâ n vật. Tác giả diễn tả đ ược những biến chuyển tinh tế trong nội tâm nhân vật của m ình, tránh được cái nh ìn giản đơn cũng như cách tô v ẽ giả tạo khi viết về những con ngư ời miền núi. Tính cách c ủa hai nhân vật chính cũng đ ã được miêu tả trong sự biến đổi, p hát triển theo quá trình đi tới cách mạng của họ (chú ý sự thay đổi từ ngoại h ình đến nội tâm v à hành đ ộng của Mị v à A Phủ khi ở Phiềng Sa, so với thời k ì ở Hồng Ng ài; cũng cần chú ý sự biến đổi của A Phủ trong cái nh ìn đồn Tây ở Bản Pe lúc ch ưa giác ng ộ đến khi đã thành ti ểu đội trưởng du kích). Nghệ thuật truyện của Tô Ho ài còn thành công ở chỗ tác giả đ ã nắm bắt, lựa chọn được nhiều chi tiết chân thực, sinh động m à có sức khái quát cao. Những chi tiết ấy lại thường đặt trong một hệ thống t ương quan đ ối lập nên càng n ổi rõ (Cô M ị cúi mặt, lặng lẽ như m ột cái bóng giữa cảnh gi àu có t ấp nập của nh à Pá Tra; căn ph òng âm u c ủa Mị và khung cảnh mùa xuân tràn đ ầy sức sống v à ánh sáng ở bên ngòai; ti ếng sáo v à tiếng chân ngựa đạp vào vách v.v…). Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ Cũng nh ư trong t ập Truy ện Tây Bắc, truyện Vợ chồng A Phủ c òn lôi cu ốn người đọc bởi chất th ơ đậm đà trong sáng. “Phong c ảnh và con ngư ời đẹp đẽ của Tây Bắc đ ược ngòi bút của Tô Ho ài vẽ nên với một sức rung động th ơ” . Chất thơ ấy toát lên từ nội dung tác phẩm: vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc của nhân dân lao động miền núi v à con đư ờng giải phóng của họ. Nó cũng toát l ên từ tâm hồn trong sáng, hồn hậu, trung thực của các nhân vật tích cực. Chất th ơ ấy cũng thắm đ ượm trong những bức tranh thi ên nhiên giàu màu sắc tươi sáng và đường nét uyển chuyển v à hùng v ĩ của Tây Bắc, l àm nền cho những cảnh sinh hoạt gi àu chất trữ t ình của con ng ười (Những đ êm mùa xuân, c ảnh đi ch ơi Tết, tiếng sáo gọi bạn ngo ài đầu núi, những đám ch ơi pao, th ổi khèn, u ống rượu bên bếp lửa của trai gái Hmô ng…). Tô Hoài c ũng nói về những ý th ơ trong truy ện của m ình: “Ở mỗi nhân v ật và trùm lên t ất cả miền Tây, tôi đ ã đưa vào m ột không khí vời vợi, l àm cho đ ất nước và con ngư ời bay bổng l ên hơn n ữa, rồi bỏ đ ược cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt th ường làm co qu ắp nhân vật và nhỏ bé vấn đề đi” . 2. Ý nghĩa giáo dục t ư tưởng của tác phẩm Đoạn trích giảng trên đây thu ộc phần đầu câu ch uyện Vợ chồng A Phủ. Cho đến lúc Mị cắt dây trói cho A Phủ v à cùng trốn đi, các nhân vật vẫn c òn ở trong phạm vi đấu tranh tự phát chống lại thế lực phong kiến thống trị. Nh ưng chặng đường ấy có một ý nghĩa rất quan tr ọng trong quá tr ình phát tri ển của các nhân vật. Qua đây, tác giả đ ã làm bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp, những sức mạnh tiềm t àng của những ng ười lao động ngh èo kh ổ ở miền núi . Đó chính là ti ền đề cho b ước đường giác ngộ cách mạng của họ ở phần sau. Với lòng căm thù sâu s ắc bọn chúa đất thống trị, với sức sống v ươn lên m ạnh mẽ v à khát v ọng tự do, hạnh phúc chân chính, các nhân vật Mị v à A Ph ủ đã nhanh chóng đón nhận ánh sáng cách mạng do cán bộ A Châu đem lại. Không thấy những tiềm lực ấy, th ì cũng không hiểu và lí giải được con đ ường đến với cách mạng của quần chúng. Truyện Vợ chồng A Phủ đã miêu tả một cách cô đọng nh ưng sinh đ ộng quá tr ình trưởng thành, con đư ờng đi đến với c ách mạng của nhân dân lao động miền núi, của các dân tộc thiểu số anh em. Nó đ ã góp ph ần tăng c ường tình đòan kết giữa các dân tộc miền xuôi, mi ền ngược. Nh ìn khái quát, thì con đường mà Vợ chồng A Phủ cùng với các dân tộc mình núi Tây B ắc đã đi cũng chính là một hình ảnh thu nhỏ của con đ ường tất yếu cách mạng mà dân tộc ta trải qua trong mấy m ươi năm qua. Con đư ờng của dân tộc ta c àng làm sáng t ỏ chân lý c ủa thời đại ng ày nay: “C hỉ có chủ nghĩa x ã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng đư ợc các dân tộc bị áp bức và những ng ười lao động tr ên thế giới khỏi ách nô lệ” . Nguyễn Văn Long Trích gi ảng Vợ chồng A Phủ, In trong Giảng văn , tập 2, Nxb ĐH v à THCN, HN, 1982 . Biên tập viên: Trần Hải Tú www.hoc360.vn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Một số bài phân tích tác phẩm Ngữ văn 12
253 p | 2701 | 1849
-
Phân tích tác phẩm: Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
31 p | 2279 | 1556
-
Phân tích tác phẩm Rừng Xà nu
4 p | 708 | 41
-
Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ - sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo
7 p | 335 | 38
-
Bài văn mẫu: Phân tích tác phẩm Độc Tiểu Thanh Kí của Nguyễn Du
25 p | 63 | 11
-
Văn phân tích tác phẩm văn học lớp 12: Phân tích Bài thơ Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan !
7 p | 190 | 10
-
Bài văn mẫu: Phân tích tác phẩm Bình ngô đại cáo
37 p | 73 | 10
-
Văn phân tích tác phẩm văn học lớp 12: Tôi đi học ( truyện ngắn Thanh Tịnh)
7 p | 139 | 8
-
Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài
21 p | 26 | 8
-
Phân tích tác phẩm Ngữ Văn lớp 9
33 p | 39 | 7
-
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành
21 p | 18 | 7
-
Phân tích tác phẩm Làng (Kim Lân)
10 p | 31 | 6
-
Tổng hợp 5 bài phân tích tác phẩm vợ chồng A Phủ của tác giả Tô Hoài
22 p | 167 | 6
-
Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội - Nguyễn Khải
10 p | 23 | 6
-
5 bài văn mẫu phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
22 p | 160 | 5
-
Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ)
7 p | 35 | 5
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 - Bài: Thực hành phân tích tác phẩm văn học chủ nghĩa hiện thực Chí Phèo
21 p | 104 | 3
-
Phân tích tác phẩm Ông già và biển cả của Hemingway - Nguyễn Thị Yến
5 p | 69 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn