intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phân tích tình hình hệ thống tài chính tại Việt Nam

Chia sẻ: Thanh Thảo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:37

242
lượt xem
26
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong thực tế, các quan hệ tài chính diễn ra rất phức tạp và đa dạng, chúng đan xen nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế. Tuy nhiên, đó không phải là một hoạt động hỗn loạn mà ngược lại, chúng tuân thủ những nguyên tắc, những quy luật nhất định, trong đó những quan hệ 1 Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển tài chính có tính chất đặc thù giống nhau nhóm lại thành một bộ phận riêng. Giữa các bộ phận này luôn có mối liên hệ,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phân tích tình hình hệ thống tài chính tại Việt Nam

  1. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển PHẦN I TỔNG QUAN VỀ CẢI CÁCH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH I. Lý thuyết chung về hệ thống tài chính 1. Hệ thống tài chính và vai trò của hệ thống tài chính Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Trong thực tế, các quan hệ tài chính diễn ra rất phức tạp và đa dạng, chúng đan xen nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau c ủa nền kinh tế. Tuy nhiên, đó không phải là một hoạt động hỗn loạn mà ngược lại, chúng tuâ n thủ những nguyên tắc, những quy luật nhất định, trong đó những quan hệ 1
  2. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển tài chính có tính chất đặc thù giống nhau nhóm lại thành một bộ phận riêng. Giữa các bộ phận này luôn có mối liên hệ, tác động ràng buộc lẫ n nhau và tạo thành hệ thống tài chính. Do vậy, hệ thống tài chính là tổng thể c ủa các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhất định. Các bộ phận trong hệ thống tài chính hoạt động trên các lĩnh vực: tạo ra nguồn lực tài chính, thu hút các nguồn tài chính và chu chuyển các nguồn tài chính (dẫn vốn). Với các lĩnh vực hoạt động này, toàn bộ hệ thống tài chính thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân là đả m bảo nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội. 2. Cấu trúc của hệ thống tài chính. Cấu trúc của hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và các bộ phận dẫn vốn bao gồm: Tài chính doanh nghiệp, Ngân sách Nhà nước, thị trườ ng tài chính và các tổ chức tài chính trung gian, tài chính dân cư và các tổ chức xã hội, tài chính đối ngoại Các tụ điểm vốn là bộ phận mà ở đó các nguồn tài chính được tạo ra, đồng thời c ũng là nơi thu hút trở lại nguồn vốn, tuy nhiên ở các mức độ và phạm vi khác nhau. Trong hoạt động kinh tế, các tụ điểm vốn này có mối liên hệ thườ ng xuyên với nhau thông qua những mối quan hệ nhất định. 2.1. Tài chính doanh nghiệp. Chính tại đây nguồn tài chính xuất hiện và đồng thời đây c ũng là nơi thu hút trở lại phần quan trọng các nguồn tài chính trong nền kinh tế. trong hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp được coi như những tế bào có khả năng tái tạo ra các nguồn tài chính. Do vậy nó có khả năng tác động rất lớn đế n đờ i sống xã hội, đế n sự phát triển hay suy thoái c ủa nề n sản xuất. Tài chính doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với tất cả các bộ phận c ủa hệ thống tài chính trong quá trình hình thành và sử dụng vốn cho các nội dung khác nhau, quá trình kinh doanh chứng khoán trên thị trườ ng chứng khoán. mỗi quan hệ đề u có những nét khác biệt và có những tác động khác nhau đế n tài chính doanh nghiệp. Chính s ự đa dạng này phản ánh mối quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp với các bộ phậ n khác trong hệ thống tài chính. Trong nền kinh tế thị trườ ng, đặc trưng cơ bản c ủa bộ phận tài chính doanh nghiệp thể hiện ở chỗ: nó bao gồm những quan hệ tài chính vận hành theo cơ chế kinh doanh hướ ng tới lợi nhuận cao. Chính nhờ cơ chế này mà nguồn tài chính được tăng cường và mở rộng không ngừng, đáp ứng tốt nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 2.2.Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước ngắn liền với các chức năng, nhiệm vụ c ủa nhà nước, đồng thời là phương tiện vật chất cần thiết để hệ thống chính 2
  3. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển quyền nhà nước thực hiện được nhiệ m vụ của mình. Trong điều kiện c ủa nền Kinh tế thị trườ ng. Ngân sách Nhà nước còn có vai trò to lớn trong điều tiết vĩ mô c ủa nền kinh tế – xã hội. Đó là vai trò định hướ ng phát triển sản xuất, điều tiết thị trườ ng, bình ổn giá cả, điều chỉnh đờ i sống xã hội.. Để thực hiện được các vai trò đó, ngân sách nhà nước phải có các nguồn vốn được tập trung từ các tụ điể m vốn thông qua các chính sách thu thích hợp. Ngân sách Nhà nước thực hiện các khoản chi cho tiêu dùng thườ ng xuyên và chi đầ u tư kinh tế. Việc cấp phát vốn Ngân sách Nhà nước cho các mục đích khác nhau sẽ làm tăng nguồn vốn ở các tụ điể m nhận vốn. Như vậy hoạt động thu – chi c ủa Ngân sách Nhà nước đã là m nảy sinh các mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế, xã hội, các tầng lớp dân cư, nhà nước với các nhà nước khác. Các mối quan hệ kinh tế giữa một tụ điểm vốn quan trọng: Ngân sách Nhà nước với các bộ phận khác c ủa hệ thống tài chính. 2.3. Tài chính dân cư và các tổ chức xã hội Đây là một tụ điểm vốn quan trọng trong hệ thống tài chính. Hoạt động tài chính c ủa các nước có nền kinh tế phát triển và hoạt động tài chính ở nước ta những nă m gần đây đã chỉ ra rằng: nếu có những biệ n pháp thích hợp, chúng ta có thể huy động được một khối lượ ng vốn đáng kể từ các hộ gia đình để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, đồng thời còn góp phần to lớn vào việc thực hiện các chính sách về định hướ ng tích lũy và tiêu dùng c ủa nhà nước. 2.4. Tài chính đ ối ngoại Trong nền kinh tế thị trườ ng, khi các quan hệ kinh tế đã quốc tế hoá thì hệ thống tài chính c ũng là một hệ thống mở với những quan hệ tài chính đối ngoại hết sức phong phú. Trên thực tế, những quan hệ này không tập trung vào một tụ điểm nhất định mà chúng phân tán, đan xen vào các quan hệ tài chính khác. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và vị trí đặc biệt quan trọng c ủa quan hệ tài chính đối ngoại cho nên ngườ i ta thừa nhận nó hình thành một bộ phận tài chính có tính chất độc lập tương đối. Với những kênh vận động c ủa tài chính như viện trợ, thanh toán xuất nhập khẩu... nếu chỉ đứng trên góc độ c ủa từng tụ điể m vốn ở trong nước để xem xét thì hoạt động tài chính đối ngoại được xem như là một trong số các biện pháp để huy động nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước (qua viện trợ, vay nợ từ nước ngoài), huy động vốn c ủa các doanh nghiệp (qua liên doanh, góp vốn cổ phần)... đối với hoạt động tài chính đối ngoại phả i đứng trên góc độ tổng hợp, toàn c ục để xem xét, nghiên c ứu. Khi đó các mối quan hệ c ụ thể, cục bộ sẽ hoà nhập vào một tụ điểm duy nhất và quan hệ tài chính sẽ xảy ra giữa hai tụ điể m lớn, đó là quan hệ giữa tài chính quốc gia và tài chính quốc tế và hoạt động tài chính quốc tế c ũng có những nét đặc thù riêng và chịu sự tác động của những quy luật biến động tài chính quốc tế. 2.5. Thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian 3
  4. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển Hoạt động c ủa thị trườ ng tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ những ngườ i có vốn sang những ngườ i cần vốn thông qua hoạt động tài chính trực tiếp. Hoạt động dẫn vốn trực tiếp được thực hiện bằng cách những ngườ i cần vốn bán ra thị trườ ng các công c ụ nợ, các cổ phiếu hoặc thực hiện các món vay thế chấp. Những ngườ i có vốn sẽ sử dụng tiền vốn của mình để mua vào các công c ụ nợ hoặc các cổ phiếu đó. Như vậy, vốn đã được chuyển từ ngườ i có vốn sang người cần vốn một cách trực tiếp. Với chức năng này, thị trườ ng tài chính có chức năng thu hút mọi nguồn vốn cần thiết cho đầ u tư phát triển kinh tế, làm nâng cao hiệu quả chung của toàn nền kinh tế và cải thiện mức sống c ủa ngườ i tiêu dùng ngay cả khi khả năng thực tế về tài chính c ủa họ chưa cho phép. Trong hệ thống tài chính, các trung gian tài chính thực hiện việc dẫn vốn thông qua hoạt động tài chính gián tiếp. Trước hết các trung gian tài chính huy động vốn từ những ngườ i có vốn (ngườ i tiết kiệm) bằng nhiều hình thức để tạo thành vốn kinh doanh c ủa mình. Sau đó, sử dụng vốn kinh doanh này để cho ngườ i cần vốn vay lại hoặc thực hiện các hình thức đầ u tư khác. Bằng cách này, các trung gian tài chính đã tập trung được các nguồn vốn nhỏ, từ các hộ gia đình các tổ chức kinh tế thành một lượ ng vốn lớn, đáp ứng nhu cầu c ủa ngườ i cần vốn từ những khối lượ ng vay nhỏ đế n những khối lượ ng vay lớn, từ những cá nhân chưa từng ai biết đế n tới những công ty lớn có tiếng trên thị trườ ng. Chính vì vậy, các trung gian tài chính đã đáp ứng được những nhu cầu mà thị trườ ng tà i chính không giải quyết được, hoặc giải quyết không có hiệu quả. Tuỳ theo lĩnh vực và phạm vi hoạt động, các trung gian tài chính được chia thành các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng như công ty bảo hiể m, quỹ trợ cấp, công ty tài chính... II. Tính tất yếu khách quan của việc thực hiện cải cách hệ thống tài chính Một hệ thống tài chính năng động đóng vai trò hết s ức quan trọng đối với tích luỹ và phân chia nguồn vốn. Do vậy, nó c ũng đặc biệt có ý nghĩa đối với năng suất lao động c ũng như tăng trưở ng kinh tế quốc dân. Tại các nước đang phát triển thì hệ thống tài chính đang bộc lộ những đặc điểm sau đây: - Nó được tăng cưòng bởi các ngân hàng kinh doanh. - Nó bị đánh thuế cao nhằ m chi phí cho những thâm hụt Ngân sách. - Hệ thống Ngân hàng không đáp úng được yêu cầu phục vụ và điề u chỉnh cao. - Có sự chế định giới hạn lãi suất và mức cho vay. - Xuất hiện lạm phát và mức thâ m hụt tiền quá cao. - Có sự phụ thuộc lẫn nhau cao độ giữa phát triển tài chính và tăng trưở ng kinh tế. Chính vì lẽ đó, nó đã tạo ra áp lực buộc các nước phải cải cách hệ thống tài chính. 4
  5. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển 1. Áp lực từ bên ngoài 1.1. Áp lực từ các tổ chức tài chính quốc tế Hầu hết các quốc gia theo đuổi chính sách kiề m chế tài chính là các quốc gia đang phát triển. Ở các nước này, nhu cầu nhận vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế để phát triển kinh tế trong nước là rất lớn. Một khi đã nhận viện trợ từ các tổ chức tài chính đa phương thì chắc chắn đi kè m với nó là các điều kiện về kinh tế và đôi khi có cả điều kiện về chính trị, xã hội. Các tổ chức này thườ ng đòi hỏi các nước nhận viện phải đả m bảo có một nền kinh tế được tự do phát triển, một hệ thống tài chính được tự do hoá, nghĩa là lãi suất, tỷ giá… được điều chỉnh bởi thị trườ ng chứ không phải bằng các quyết định c ủa chính phủ. Ví như IMF, khi cho Việt Nam vay thì yêu cầu Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện: tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước, tự do hoá lãi suất, tự do hoá thương mại…. Và các nước đang cần vốn, muốn nhận được các khoản viện trợ này thì tất nhiên phải thực hiện theo các yêu cầ u của các tổ chức này. Điều này có nghĩa là Chính phủ các nước này buộc phải tiến hành cải cách hệ thống tài chính, phải từ bỏ s ự can thiệp quá sâu của mình vào hệ thống tài chính. Thực tế cho thấy, ở một số các quốc gia Đông Á, hầu hết các cuộc cải cách đề u thực hiện dướ i s ức ép c ủa IMF và Hoa Kỳ. Đầu thập kỷ 90, chính phủ Hoa Kỳ đã gây sức ép buộc Hà n Quốc tự do hoá tài chính một cách triệt để nếu muốn gia nhập OECD. 1.2. Áp lực trong quá trình hội nhập Bên cạnh những áp lực c ủa các tổ chức tài chính đa phương thì áp lực về hội nhập quốc tế c ũng là một nhân tố quan trọng đòi hỏi các quốc gia phải cải cách hệ thống tài chính. Đối với hệ thống các ngân hàng thương mại, hội nhập tài chính quốc tế sẽ khiến cho các ngân hàng này chịu sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ phía các ngân hàng nước ngoài trong mọi lĩnh vực hoạt động từ nghiệp vụ kinh doanh, giành giật khách hàng, mở rộng quy mô hoạt động cho tớ i việc thu hút nguồn lao động có kỹ thuật cao. Điều này xảy ra là vì một mặt, sức cạnh tranh c ủa hệ thống ngân hàng ở các nước đang phát triển thườ ng không cao (trình độ quản lý và kinh doanh kém, cơ cấu tài sản không hợp lý, bị hạn chế về thể chế, cơ sở công nghệ lạc hậu…). Mặt khác, các ngân hàng nước ngoài đề u là những ngân hàng có ưu thế về quy mô (thực lực vốn hùng hậu, chất lượ ng tài sản tốt, cơ chế quản lý kinh doanh linh hoạt, thiết bị tiên tiến…), về kinh nghiệm quản lý và kinh doanh (thích nghi nhanh với s ự biến đổi của môi truờng quốc tế, dịch vụ tài chính đa dạng…), về kỹ năng và thiết bị hiện đạ i… Do đó, đòi hỏi phải cải cách hệ thống ngân hàng để nâng cao khả năng cạnh tranh c ủa các ngân hàng trong nước. Tình hình thực tế tại Việt Nam c ũng tương tự như vậy. Hiện nay các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam bị hạn chế rất nhiề u loại dịch vụ so với các ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, trong một vài 5
  6. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển năm tới, với việc thực hiện các quy định cam kết với các tổ chức quốc tế trong tiến trình hội nhập quốc tế như AFTA, APEC…, đặc biệt là hiệp định thương mại Việt-M ỹ, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần phải ngày càng phát triển, nâng cao tính cạnh tranh. Với việc cam kết thực hiệ n Hiệp định thương mại Việt M ỹ, từng bước nới lỏng các hạn chế hoạt động đối với các ngân hàng M ỹ bằng cách chỉnh sửa luật lệ trong nước sẽ là những mốc quan trọng tiến tới tự do hoá ngân hàng ở Việt Nam. Hiện nay, các ngân hàng Việt Nam chỉ có khoảng 200 loại hình dịch vụ trong khi đó, một ngân hàng phát triển ở M ỹ cung cấp đế n khoảng 6000 loạ i dịch vụ. Mặt khác, tiềm lực tài chính c ủa các ngân hàng Việt Nam quá nhỏ bé so với các ngân hàng M ỹ. Do đó, một khi thực hiện các cam kết trong quá trình hội nhập bắt buộc Việt Nam phải nới lỏng các luật lệ hạn chế hoạt động c ủa các ngâ n hàng nước ngoài thì chắc chắn các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ chịu sức ép từ cạnh tranh mạnh mẽ hơn. Nếu vẫn bình chân như vại thì đến một lúc nào đó, các ngân hàng Việt Nam sẽ không còn đủ sức chống đỡ với làn sóng cạnh tranh c ủa các ngân hàng nước ngoài. Vì vậy, chúng ta cần cân nhắc việc thực hiện cải cách hệ thống tài chính nói chung, cải cách hệ thống ngân hàng nói riêng vào một thời điểm thích hợp và theo từng bước đi vững chắc. 2. Áp lực từ bên trong 2.1. Các nguyên nhân có tính lịch sử Bên cạnh những áp lực từ bên ngoài thì đôi khi có những lý do từ bên trong đòi hỏi các quốc gia phải cải cách hệ thống tài chính. Có thể kể ra đây những lý do mang tính lịch sử. Chẳng hạn như trong quá trình chạy đua vào chiếc ghế tổng thống, cương lĩnh tranh c ử c ủa các ứng c ử viê n quan tâm đế n việc thực hiện cải cách hệ thống tài chính, khi trúng c ử, những nhân vật này sẽ tiến hành các kế hoạch c ủa mình. 2.2. Do bản thân yêu cầu nội tại trong hệ thống ngân hàng Các ngân hàng muốn mở rộng qui mô hoạt động, mở rộng thị phần thì cần phải có một số vốn lớn nhất định. Vấn đề về vốn có thể được giả i quyết bằng việc sáp nhập các ngân hàng với nhau, hoặc tiến hành cổ phầ n hoá, tư nhân hoá các ngân hàng quốc doanh. Ngoài ra, để tăng hiệu quả hoạt động c ủa các ngân hàng thì nhất thiết phải chú ý đế n sự minh bạch trong các luồng thông tin và cơ chế quản lý. Đặc biệt có đủ sức cạnh tranh trong điều kiện nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế, các ngân hàng cần tiếp tục gấp rút thực hiện việc lành mạnh hoá trong tổ chức và trong hoạt động kinh doanh. Do đó cần phải cải tổ bộ máy ngân hàng. III. Xu hướng cải cách hệ thống tài chính Trong những giai đoạn nhất định, tuỳ thuộc vào những đặc điểm riêng và căn cứ vào những mục tiêu riêng mà mỗi quốc gia có thể theo đuổi chính sách kiềm chế tài chính hoặc tự do hóa tài chính. Tuy nhiên, 6
  7. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển xu hướ ng chung là các quốc gia đều chuyển từ kiềm chế tài chính sang tự do hóa tài chính. 1. Sự lựa chọn kiềm chế tài chính Kiề m chế tài chính là sự lựa chọn c ủa một số quốc gia trong những giai đoạn nhất định. Nó có một số đặc điểm như sau: Thứ nhất, về lãi suất: Các quốc gia lựa chọn kiề m chế tài chính thườ ng áp dụng chính sách lãi suất cố định hoặc lãi suất trần. Thứ hai, về chính sách tỷ giá: Chính sách tỷ giá khi các quốc gia theo đuổi kiề m chế tài chính thườ ng là chính sách tỷ giá cố định hoặc chính sách tỷ giá không linh hoạt. Thứ ba, về mức dự trữ bắt buộc: M ức dự trữ bắt buộc mà các quốc gia theo đuổi kiềm chế tài chính thườ ng ở mức cao. Sự lựa chọn này xuất phát từ quan điểm cho rằng mức dự trữ cao sẽ hạn chế được rủi ro dẫn đến sự đổ vỡ của hệ thống tài chính. Thứ tư, về mức độ can thiệp c ủa Chính phủ: Sự can thiệp c ủa Chính phủ vào quá trình phân bổ tài chính là rất sâu. Các ngân hàng thương mại phải tham gia các dự án c ủa Chính phủ mà biết chắc rằng các dự án này là không hiệu quả nhưng vì mục tiêu xã hội mà vẫn phải thực hiện. 2. Sự lựa chọn tự do hoá tài chính Tự do hoá tài chính thể hiện ở 4 đặc điểm chính như sau: Một là, tự do hoá lãi suất, theo đó những hạn chế (như những qui định về trần và sàn lãi suất) đối với lãi suất tiền gửi c ũng như lãi suất cho vay c ủa các ngân hàng được xoá bỏ và các loại lãi suất này được xác định một cách tự do trên thị trườ ng. Hai là, tự do hoá tỷ giá, nghĩa là không quy định tỷ giá chính thức đối với các giao dịch c ủa tài khoản vãng lai c ũng như giao dịch c ủa tài khoản vốn. Ba là, trong trườ ng hợp tự do hoá tài chính toàn bộ thì dự trữ bắt buộc thườ ng được quy định thấp hơn 10%, còn nếu tự do hoá một phầ n thì dự trữ bắt buộc thườ ng từ 10-50 %. Bốn là, tự do hoá hoạt động phân bổ tín dụng, theo đó tín dụng được phân bổ theo lãi suất thị trườ ng chứ không phải bởi các quyết định hành chính c ủa chính phủ. Như vậy, kiềm chế tài chính c ũng mang lại một số kết quả nhất định đặc biệt là đối với các mục tiêu về xã hội. Tuy nhiên, để có một nề n kinh tế kinh tế phát triển bền vững thì không thể thiếu được một hệ thống tài chính vững mạnh. Do đó, tuỳ thuộc điều kiện c ủa mỗi nước mà tiến hành cải cách hệ thống tài chính vào những thời điểm thích hợp nhất. IV. Các biện pháp cải cách hệ thống tài chính 1. Cải cách các chính sách tài chính 7
  8. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển Các chính sách tài chính được cải cách theo xu hướ ng hướ ng vào thị trườ ng, giảm bớt sự can thiệp một cách trực tiếp c ủa Nhà nước vào hệ thống tài chính, thay vào đó sự can thiệp của Nhà nước chỉ mang tính chất định hướ ng, gián tiếp. 2. Cải cách hệ thống ngân hàng Hệ thống ngân hàng được cải cách theo hướ ng phân rõ chức năng cho vay thương mại và cho vay chính sách. Tiến hành tăng nguồn vốn thông qua biện pháp tư nhân hoá, cổ phần hoá, sát nhập... Đồng thời các ngân hàng phải cái tiến công nghệ, tăng số lượ ng các loại hình dịch vụ theo hướ ng hiện đạ i và phù hợp với tiêu chuẩn thông lệ quốc tế. 3. Phương pháp tiến hành cải cách 3.1. Cải cách đ ồng bộ hệ thống tài chính Cải cách đồng bộ hệ thống tài chính là sự chuyển hướ ng từ kiề m chế tài chính sang tự do hoá tài chính mà theo đó các biện pháp được tiế n hành một cách đồng bộ, tức thời. Các chính sách tài chính chuyển từ cố định lãi suất sang tự do hoá lãi suất, từ tỷ giá cố định sang tự do hoá t ỷ giá... Hệ thống các ngân hàng được cổ phần hoá hàng loạt. Phương pháp này thườ ng gây ra phản ứng sốc đối với hệ thống tài chính và nền kinh tế. Phản ứng này có thể có tác dụng tốt đối với nền kinh tế có sự chuẩn bị kỹ càng. Tuy nhiên hầu hết các quốc gia khi chuyển đổi từ kiềm chế tài chính sang tự do hoá tài chính đề u có hệ thống tài chính rất yếu kém. Chính vì vậy biện pháp này nhiều khi lại gây ra tác động xấu dẫn đế n s ự sụp đổ c ủa hệ thống tài chính c ủa các quốc gia áp dụng biện pháp này. 3.2. Cải cách từng bước hệ thống tài chính Biện pháp cải cách từng bước hệ thống tài chính thườ ng được các quốc gia lựa chọn vì nó không gây ra các phản ứng sốc quá mạnh đối với các hệ thống tài chính và nền kinh tế c ủa các quốc gia. Tuy nhiên, để biệ n pháp này tiến hành có hiệu quả thì tiến độ thực hiện cải cách hệ thống tà i chính phải được đẩ y nhanh tránh để lâu dài sẽ không hiệu quả vì sức ỳ của nền kinh tế quá lớn. Tóm lại, mỗi phương pháp cải cách hệ thống tài chính đề u có những ưu điểm và hạn chế riêng. Tuỳ vào hoàn cảnh và điều kiện c ủa mỗi nước mà việc áp dụng phương pháp nào cho phù hợp là hết sức quan trọng. 8
  9. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển PHẦN II THỰC TRẠNG CẢI CÁCH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Ở MỘT SỐ NƯ ỚC VÀ VIỆT NAM 9
  10. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển I. Xu hướng tài chính - tiền tệ quốc tế đầu thế kỷ XXI Tự do hoá tài chính đang là xu hướ ng nỗi bật trên thị trườ ng tài chính quốc tế thế kỷ XXI. Sự phát triển c ủa cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tác động sâu sắc tới thị trườ ng tài chính quốc tế. Nó làm cho không gian và thời gian ngắn dần, khoảng cách địa lý sẽ ngày càng mất dần ý nghĩa. Khối lượ ng và tốc độ chu chuyển c ủa các dòng vốn ngày càng cao. Chính vì vậy, thị trườ ng tài chính c ủa các quốc gia sẽ ngày càng thâ m nhập lẫn nhau và phụ thuộc nhau nhiều hơn. Sự phát triển tài chính tiền tệ quốc tế vừa mang lại cơ hội vừa mang lại thách thức cho các quốc gia. Quá trình tự do hoá tài chính sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ hơn bao gồm các nội dung sau: - Xoá bỏ kiểm soát tín dụng - Tự do hoá lãi suất - Tự do hoá việc tham gia và rút khỏi các hoạt động ngân hàng và các dịch vụ tài chính, kể cả đối với các nhà đầu tư nước ngoài. - Bảo đả m quyền tự chủ c ủa các ngân hàng, các quỹ tài chính, quan trọng nhất là chấm dứt sự can thiệp vào công việc hàng ngày c ủa các đối tượ ng này. - Phát triển các ngân hàng tư nhân, các trung gian tài chính, đặc biệt là các quỹ tài chính dướ i nhiều hình thức khác nhau. - Tự do hoá các luồng vốn quốc tế. II. Cải cách hệ thống tài chính ở một s ố nước trên thế giới 1. Cải cách hệ thống tài chính của ASEAN: Cũng như các nước khác trên thế giới, hầu hết các nước ở khu vực ASEAN, chiến lược công nghiệp hoá hướ ng về xuất khẩu và thu hút đầ u tư nước ngoài đang là một chiến lược quan trọng. Các quốc gia áp dụng chiến lược này không những thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu mà còn vươ n lên ngang hàng với các nước phát triển trên thế giới. Để thực hiện tốt được chiến lược này, các quốc gia ASEAN đã và đang tăng c ườ ng ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, cải thiện môi trườ ng đầ u tư... đặc biệt là cải cách hệ thống tài chính. Hai biện pháp được các nước này áp dụng là xoá bỏ những quy định về lãi suất và cải cách hệ thống ngân hàng. Các nước ASEAN thực hiện trong lĩnh vực này là xóa bỏ những quy định về lãi suất và nâng cao tính cạnh tranh c ủa thị trườ ng tài chính. Để thực hiện được việc xoá bỏ quy định về lãi suất, các nước này buộc phải gia tăng cạnh tranh trên thị trườ ng tài chính chủ yếu bằng cách gia tăng thành lập các công ty tài chính, tư nhân hoá các tổ chức tài chính c ủa chính phủ. 1.1. Công cuộc cải cách hệ thống tài chính ở Thái Lan Thái Lan đã tăng cườ ng cạnh tranh thông qua thành lập các công ty tài chính và thực hiện cải cách như sau: 10
  11. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển - Xoá bỏ mức trần lãi suất, nới lỏng việc quản lý tài sản c ủa các tổ chức tài chính & tạo điều kiện thuận lợi cho sự tự do di chuyển các dòng vốn. - Cải thiện các tiêu chuẩn c ủa các tổ chức tài chính theo tiêu chuẩn của ngân hàng thanh toán quốc tế. - Tiếp tục các biện pháp tăng c ườ ng cạnh tranh đã được tiến hành trước đó, đồng thời đề ra mục tiêu giám sát chặt chẽ các tổ chức và hệ thống tài chính. 1.2. Công cuộc cải cách hệ thống tài chính ở Indonesia, Tại Indonesia, việc gia tăng cạnh tranh đượ c tiến hành thông qua tư nhân hoá các ngân hàng nhà nước. Vào giữa thập kỷ 80, các ngân hàng tư nhân ở nước này được phát triển rất nhanh với 39 ngân hàng tư nhân và 1.400 chi nhánh được thành lập mới. Chúng được phép kiể m soát các khoản tiền vay, tiền gửi. Tiếp đó, Luật ngân hàng năm 1992 đã cho phép tư bản nước ngoài tham gia sở hữu ngân hàng bằng cách tham gia mua c ổ phần, mở rộng liên doanh giữa nhà nước, tư nhân trong và ngoài nước. Indonesia cũng có bước đi tương tự như Thái Lan: - Tiến hành tự do hoá lãi suất, tăng tính cạnh tranh c ủa thị trườ ng tài chính bằng cách tư nhân hoá các ngân hàng quốc doanh. - Xoá bỏ kiểm soát vốn. - Vào tháng 1/1995, ban hành hệ thống kế toán đặc biệt đối với các ngân hàng. Indonesia c ũng xoá bỏ kiể m soát vốn sớm, song tác động không lớn như Thái Lan, vì nước này đã áp dụng một số biện pháp ngăn chặn các dòng vốn ngắn hạn, như đưa ra giới hạn trần đối với các khoản vay nước ngoài c ủa các ngân hàng, c ủa các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước và của các doanh nghiệp tư nhân chịu sự quản lý c ủa các ngân hàng nhà nước, đánh thuế thu nhập đối với thu nhập từ việc bán cổ phiếu và các công c ụ nợ khác trên thị trườ ng chứng khoán c ủa các công ty được niê m yết. 1.3. Công cuộc cải cách hệ thống tài chính ở Malaysia Ở Malaysia đã có một trình tự cải cách khác so với Thái Lan và Indonesia. Malaysia vẫn duy trì việc kiể m soát các dòng vốn nước ngoài ở mức độ nhất định. Chính phủ Malaysia quy định chỉ có những ngườ i không thườ ng trú ở nước này mới được phép mở tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ ở các ngân hàng thương mại trong nước. Malaysia vẫn hạn chế sự tham gia c ủa các ngân hàng nước ngoài trên thị trườ ng nội địa. Hơn thế, việc thành lập chi nhánh thuộc các ngân hàng này phải tuân thủ theo một quy định riêng. Những công c ụ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ tiề n mặt tối thiểu được sử dụng rất thườ ng xuyên ở nước này trong việc điề u tiết cung tiền, hỗ trợ việc cân bằng ngân sách và thực hiện chức năng giá m sát. 11
  12. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển 12
  13. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển 2. Cải cách hệ thống tài chính của Trung Quốc Quá trình cải cách hệ thống tài chính ở Trung Quốc được tăng cườ ng từ giữa thập kỷ 80, nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn c ủa một nền kinh tế có tốc độ tăng trưở ng cao, thích ứng với những đòi hỏi c ủa quá trình phi tập trung hoá đang tăng lên trong nền kinh tế và quá trình mở cửa để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài. Để tăng c ườ ng cạnh tranh trong khu vực tài chính, nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng và ngân hàng đã được thành lập và tham gia vào các hoạt động thu hút tiền gửi và cho vay, như Công ty uỷ thác và đầu tư, Hợp tác xã tín dụng, Công ty thuê mua, các ngân hàng không thuộc sở hữu nhà nước. Vì vậy, vai trò c ủa các tổ chức tài chính phi ngân hàng trong việc huy động và cung cấp vốn ngày càng gia tăng. Ở Trung Quốc, Chính phủ vẫn duy trì việc kiể m soát vốn. Tuy cho phép các công ty uỷ thác đầ u tư được vay vốn nước ngoài nhưng không được phép vay dài hạn và chỉ được vay trong hạn ngạch dướ i hình thức vay trực tiếp hoặc thông qua kênh tín dụng. Các công ty này có thể huy động vốn thông qua thị trườ ng tiền tệ liên ngân hàng, phát hành trái phiế u cổ phiếu. Những quy định điều tiết trên đây c ủa Chính phủ Trung Quốc đã đặt các công ty uỷ thác và đầ u tư trước những vấn đề mới. Các công ty này buộc phải tiến hành các hoạt động có độ rủi ro cao hơn như phát hành cổ phiếu, huy động vốn với lãi suất thay đổi trên thị trườ ng liên ngâ n hàng, thực hiện các khoản đầ u tư dài hạn. Như vậy có thể nói, giống như các công ty tài chính Thái Lan, các công ty uỷ thác và đầ u tư Trung Quốc đã vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn và cũng phải gánh chịu những khoản nợ xấu. Song, các công ty Trung Quốc chưa bị khủng hoảng như ở Thái Lan vì Chính phủ nước này vẫn duy trì việc kiểm soát vốn khá chặt chẽ. 3. Cải cách hệ thống tài chính của Liên bang Nga. Công cuộc cải cách kinh tế thị trườ ng ở Liên bang Nga đã thu được các kết quả đáng kể, đặc biệt từ năm 2000 đến nay. Khu vực ngân hàng cũng tăng trưở ng tương đối mạnh mẽ trong giai đoạn 2001 – 2003. Nhưng đế n cuối tháng 7 đầ u tháng 8 năm 2004, hệ thống ngân hàng Nga gặp nhiều khó khăn đã bộc lộ những yếu kém: - Tốc độ phát triển c ủa hệ thống ngân hàng chưa theo kịp tốc độ phát triển c ủa nền kinh tế. - Mức rủi ro tín dụng cao - Chưa có đủ cơ sở pháp lý nhằm tạo ra một môi trườ ng cạnh tranh lành mạnh trên thị trườ ng dịch vụ ngân hàng. - Sự thiếu minh bạch về sở hữu c ủa hệ thống ngân hàng đã gây khó khăn cho các nhà đầ u tư. - Thiếu tin tưở ng giữa các ngân hàng trong hệ thống - Ngân hàng Trung ương chưa có chính sách hợp lý với quá trình phát triển c ủa hệ thống ngân hàng. 13
  14. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển Trước tình hình đó, Chính phủ Nga đã đề ra một chiến lược phát triển đồng bộ hệ thống ngân hàng với nhiệm vụ trọng tâm là củng cố hệ thống giám sát ngân hàng, đả m bảo sự ổn định c ủa hệ thống ngân hàng với ưu tiên số một là ngăn chặn các cuộc khủng hoảng. Cụ thể: · Cần tiếp tục phát triển hệ thống ngân hàng 2 cấp, đề cao vai trò c ủa Ngân hàng Trung ương. cải cách mạng lưới ngân hàng thương mại theo hướ ng tăng c ườ ng tích tụ tập trung tư bản, hình thành những ngân hàng hạt nhân có tiềm lực tài chính mạnh, công nghệ hiện đạ i, giảm bớt số lượ ng ngân hàng. · Tạo điều kiện thu hút tư bản nước ngoài đầu tư vào khu vực ngâ n hàng. Khuyến khích các ngân hàng Nga mở rộng ra thị trườ ng quốc tế. · Cải cách sâu rộng Ngân hàng Trung ương nhằm nâng cao vai trò giá m sát hệ thống ngân hàng c ủa nó. · Nâng cao vai trò của nhà nước trong phát triển ngân hàng theo hướ ng kinh tế thị trườ ng. Tăng cườ ng kiểm soát của nhà nước với hoạt động c ủa ngân hàng thương mại trước hết là c ủng c ố những nguyên tắc thị trườ ng trong hoạt động c ủa các tổ chức tín dụng. - Tăng c ườ ng gắn bó giữa các ngân hàng với khu vực sản xuất. - Gắn tổ chức hoạt động và cơ cấu mạng ngân hàng với khía cạnh khu vực, giả m sự mất cân bằng c ủa các ngân hàng theo khu vực. - Tăng c ườ ng bảo vệ lợi ích c ủa các nhà đầu tư, nhà tài trợ và các cổ đông ngân hàng. C ụ thể đã đưa ra hệ thống bảo hiểm tiền gửi và hoạt động. · Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động của hệ thống ngân hàng theo hướ ng bình đẳ ng và minh bạch. · Lành mạnh hoá hệ thống tài chính, tái cấu trúc các tổ chức tín dụng gặp khó khăn. · Nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh c ủa các ngân hàng theo hướ ng mở rộng lĩnh vực kinh doanh. · Như vậy, cùng với việc hoàn thiện cơ chế thị trườ ng, hoàn thiện các công c ụ tài chính -tiền tệ ngân hàng ở Liên bang Nga là những nhiệ m vụ quan trọng đả m bảo thực hiện mục tiêu chiến lược c ủa Nga trong những năm đầ u c ủa thế kỷ 21. 4. Cải cách hệ thống tài chính của Hàn Quốc Đối với Hàn Quốc, cải cách hệ thống tài chính tập trung chủ yếu vào tài chính ngân hàng với lý do sau: Các ngân hàng c ủa Hàn Quốc đã phải chịu đựng những tác động nặng nề nhất kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á nổ ra vào giữa năm 1997. Sự mất giá c ủa đồng nội tệ cùng với mức lãi suất cao trong những nă m 1997- 1998 đã là m nhiều công ty không thể trả nổi các mó n nợ ngân hàng. Điều này đã đẩ y hệ thống ngân hàng Hàn Quốc rơi vào tình trạng “hiểm nghèo” và nhiều ngân hàng đã buộc phải tuyên bố mất 14
  15. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển khả năng thanh toán. Các biện pháp mà Chính phủ Hàn Quốc tiến hành cải cách hệ thống ngân hàng như sau: Thứ nhất, chỉ những tổ chức có thể hoạt động hiệu quả mới được tiếp tục hoạt động và khi cơ cấu lại thì thiệt hại phải được phân bổ một cách minh bạch và hạn chế tối đa cho những ngườ i đóng thuế. Thứ hai, việc cơ cấu lại phải c ủng cố các nguyên tắc tài chính bằng việc chia sẻ thiệt hại trước hết cho các cổ đông, sau đó mới đế n các chủ nợ, và có thể cả một số ngườ i gửi nhiều tiền. Thứ ba, phải có biện pháp duy trì nguyên tắc tín dụng đối với ngườ i vay vốn của ngân hàng và có những biện pháp khuyến khích tăng vốn từ nguồn tư nhân mới. Thứ tư, tốc độ cơ cấu lại phải nhanh để có thể khôi phục được tín dụng, đồng thời duy trì được lòng tin c ủa quần chúng đối với hệ thống ngân hàng. Bên cạnh các biện pháp trên, Chính phủ Hàn Quốc còn dự kiến tư nhân hoá các quĩ đầ u tư và sáp nhập các ngân hàng, đồng thời nới lỏng những hạn chế đối với các ngân hàng thương mại gặp khó khăn. Theo cách này, kể từ tháng 3 năm 2000 các ngân hàng Hàn Quốc đang gặp khó khăn do giảm sút tiền gửi sẽ được phép mở rộng hoạt động sang lĩnh vực môi giới. Uỷ bán giá m sát tài chính Hàn Quốc c ũng tuyên bố nới lỏng những hạn chế đối với việc chuyển đổi, sáp nhập các ngân hàng thương mại thành các công ty môi giới nhằm cho phép các ngân hàng này cung cấp các dịch vụ tài chính hợp nhất. Đồng thời các ngân hàng thương mại Hàn Quốc có thể nhằm tiền gửi tiết kiệm trong thời hạn 5, 6 nă m thay vì 3 năm như hiện nay. 5. Kinh nghiệm đ ối với Việt Nam: Trong hai thập kỷ qua, các nước đang phát triển Châu Á đã rất quan tâm đế n việc cải cách lĩnh vực tài chính theo hướ ng tự do hoá và đã đạt được những thành công nhất định. Qua nghiên cứu quá trình cải cách khu vực tài chính c ủa một số nước ta có thể rút ra vài nhận xét sau: Thứ nhất, những nước tương đối thành công hơn thườ ng là những nước có tốc độ cải cách từ từ và đáp ứng nguyên tắc cơ bản c ủa trình tự cải cách kinh tế tối ưu mà Mc.Kinnon đã đưa ra là không thể xoá bỏ kiể m soát vốn trước khi tự do hoá thương mại và tài chính. Đó là trườ ng hợp của Trung Quốc. Thứ hai, sự kém thành công hơn trong cải cách tài chính ở một số nước có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau tạo nên, nhưng tốc độ cải cách quá nhanh (đặc biệt trong việc phi điều tiết hệ thống ngân hàng), cải cách không đồng bộ (ví dụ cải cách quá nhanh trong lĩnh vực tổ chức và quản lý, nhưng lại quá chậm trong lĩnh vực luật pháp, hoặc chưa đáp ứng những tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình cải cách như tiêu chuẩn kế toán) Thứ ba, trong điều kiện c ủa các nước đang phát triển - trình độ quản lý yếu ké m, thiếu kinh nghiệ m trong phát triển kinh tế thị trườ ng, 15
  16. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển cải cách với tốc độ từ từ là phù hợp hơn. Trong quá trình cải cách cầ n phải đả m bảo một số nguyên tắc sau: - Không nên tự do hoá hệ thống ngân hàng trong nước hoặc mở cửa hoàn toàn đối với các dòng vốn vào trong điều kiện một bộ phận c ủa hệ thống không có khả năng trả nợ hoặc trở nên không trả được nợ khi tự do hoá. - Nên tự do hoá các dòng vốn vào dài hạn, đặc biệt là đầ u tư trực tiếp nước ngoài, trước các dòng vốn vào ngắn hạn. - Cần loại bỏ từng bước những méo mó như nguyên tắc kế toán, kiể m toán và công bố thông tin cân xứng, đả m bảo ngầm c ủa chính phủ để khuyến khích các dòng vốn vào quá nhiều (chính sách tỷ giá, tiền tệ…) Qua phân tích trên ta thấy rằng đ ối với Việt Nam trong thời gian tới có thể cải cách theo các hướng sau: Thứ nhất, Chính phủ và ngân hàng trung ương phải thể hiện vai trò lãnh đạo rõ ràng và nhất quán trong việc cải cách hệ thống ngân hàng. Thứ hai, tái điều chỉnh khu vực tài chính- ngân hàng gắn liền với việc cải cách hệ thống doanh nghiệp để tạo ra một trật tự kinh tế thị trườ ng lành mạnh cho mọi đối tượ ng thị trường hoạt động. Thứ ba, chương trình cải cách chủ yếu là dùng công quĩ và có thể phát hành trái phiếu nội địa để tái cấp vốn cho hệ thống ngân hàng, mua nợ khó đòi để lành mạnh hoá tài chính c ủa các ngân hàng thương mại nhằ m khôi phục khả năng tín dung c ủa nó. Thứ tư, cải cách hệ thống tài chính cần phải được tiến hành từ từ để tránh những cú sốc ngoại sinh. Bên cạnh đó, cải cách hệ thống tài chính một cách đồng bộ là hết sức quan trọng. 6. Quá trình cải cách hệ thống tài chính ở Việt Nam 6.1. Cải cách chính sách tài chính 6.1.1. Chính sách lãi suất Từ khi có Pháp Lệnh Ngân hàng đế n nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNH) đã không ngừng đổi mới cơ chế điều hành lãi suất nhằm từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất. Bắt đầ u từ năm 1989, Việt Nam đã thực hiện chính sách lãi suất thực dương tạo cơ hội cho các ngân hàng thu hút được nhiều hơn các nguồn vốn trong dân cư. Tiếp theo đó, chính sách lãi suất đã được điề u chỉnh cho phù hợp với tình hình kinh tế tài chính trong nước và quốc tế. Lãi suất đã được thay đổi từ chỗ khống chế lãi suất cho vay theo ngành sang cơ chế lãi suất trần tín dụng và bỏ dần các mức chênh lệch khống chế nhằm nâng cao tính tự chủ cho các ngân hàng. Năm 1992, NHNN đã thực hiện một bước đổi mới đáng kể về điều hành chính sách lãi suất bằng việc chuyển từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương. Có thể nói đây là bước khởi đầ u, tạo cơ sở cho việc theo đuổi mục tiêu tự do hoá lãi suất và tạo đòn bẩy quan trọng để các ngân hàng thương mại (NHTM) chuyển hoạt động kinh doanh từ thua lỗ 16
  17. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển sang có lãi. Trên cơ sở lãi suất thực dương, NHNN đã từng bước nới lỏng sự quản lý trực tiếp lãi suất c ủa mình và trao dần quyền tự chủ về quy định lãi suất cho các NHTM. Bước sang năm 1996, NHNN đã tiến hành cải cách đáng kể tiếp theo về điều hành lãi suất thông qua việc tự do hoá lãi suất tiền gửi và thực hiện quy định trần lãi suất cho vay. Việc chỉ khống chế lãi suất cho vay tối đa, không quy định lãi suất tiền gửi được thực hiện nhằ m từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất mà vẫn đả m bảo sự kiểm soát mặt bằng lãi suất c ủa NHNN, phù hợp với sự phát triển của các công c ụ hiện có. Với quy chế này, các NHTM được phép tự do quy định mức lãi suất huy động, tự chủ hơn trong kinh doanh. Song việc quy định trần lãi suất cho vay có một số hạn chế nhất định do lãi suất nhiều khi không phản ánh đúng cung cầu vốn trên thị trườ ng, không gắn liền với mức độ rủi ro c ủa món vay, gây nên sự méo mó trong phân bổ nguồn vốn tín dụng. Từ tháng 8/2000, NHNN đã thực hiện bướ c đổi mới cơ bản về điều hành lãi suất, thay thế cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng tiền Việt Nam, và cơ chế lãi suất thị trườ ng có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. NHNN công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo lãi suất cho vay thương mạ i đối với khách hàng tốt nhất c ủa nhóm các tổ chức tính dụng được lựa chọn theo quyết định c ủa thống đốc ngân hàng trong từng thời kỳ. Trê n cơ sở lãi suất cơ bản do NHNN công bố, tổ chức tín dụng (TCTD) ấ n định lãi suất cho vay đối với khách hàng theo nguyên tắc không vượt quá mức lãi suất cơ bản và biên độ do NHNN quy định trong từng thời kỳ. Ngoài ra, NHNN đã có cơ chế chính thức liên hệ lãi suất đồng USD trong nước và lãi suất đồng USD quốc tế thông qua lãi suất đồng USD trên thị trườ ng tiền tệ Singapore. 6.1.2 Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng c ũng có những thay đổi căn bản đáng kể theo hướ ng tiến dần tới mục tiêu tự do hoá tín dụng thể hiện ở việc xoá bỏ các hạn mức tín dụng. Trước hết cần phải kể đến việc Chính phủ và NHNN đã ban hành các cơ chế tín dụng khá đồng bộ, tạo khuôn khổ hành lang pháp lý ngày càng có tính hệ thống phù hợp với cơ chế thị trườ ng, hạn chế tới mức thấp nhất bao cấp qua tín dụng và cơ chế “xin-cho”, từng bước tách tín dụng theo chính sách ra khỏi hoạt động tín dụng c ủa các NHTM. Các cơ chế tín dụng mới ngày càng được hoàn thiện theo hướ ng chỉ đưa ra các quy định mang tính nguyên tắc. Theo đó các TCTD chủ động tìm kiếm các dự án khá thi có hiệu quả và có khả năng trả nợ để quyết định cho vay và tự chịu trách nhiệm về việc cho vay. Phạm vi điều chỉnh c ủa cơ chế tín dụng c ũng ngày càng mở rộng phù hợp với quy định của luật pháp. Theo quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 c ủa thống đốc NHNN, quy chế cho vay mới được chỉnh sửa trên nguyên tắc 17
  18. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển thông thoáng về thủ tục nhưng vẫn đả m bảo an toàn hiệu quả c ủa hoạt đông tín dụng, nâng cao năng lực kinh doanh c ủa các TCTD. Bên cạnh các hình thức cho vay thông thườ ng theo quy chế cho vay, Chính phủ và NHNN đã ban hành một số văn bản quy định về một số hình thức cấp tín dụng khác như cho thuê tài chính, bảo lãnh, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá trị ngắn hạn…. Đặc biệt, để tạo môi trườ ng pháp lý cho hoạt động tín dụng có hiệu quả, tháo gỡ các vướ ng mắc, nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệ m c ủa các TCTD trong việc quyết định cho vay, tạo lập s ự bình đẳ ng giữa mọi khác hàng và mọi TCTD trong đả m bảo tín dụng, Chính phủ đã ban hành Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đả m tiền vay c ủa các TCTD. Theo đó, vấn đề bảo đả m tiền vay được quy định theo hướ ng bở sung thêm hình thức tín chấp… Thủ tục cấp tín dụng và đả m bảo tiền vay được đổi mới theo hướ ng đơn giản hoá. Việc đả m bảo tiền vay đối với các khoản tín dụng ưu đã i theo chính sách c ủa Nhà nước được tách ra khỏi tín dụng thương mại. Ngoài ra, các TCTD được tự quyết định việc áp dụng các biện pháp bảo đả m hay không bảo đả m trong cấp tín dụng đối với từng khách hàng, không có sự chỉ định bắt buộc hay miễn trừ áp dụng biện pháp bảo đả m đối với từng loại TCTD và khách hàng c ủa họ từ phía Chính phủ. Cho đế n nay, cơ chế bảo đả m tiền vay c ũng đã được ban hành khá hệ thống và đồng bộ. Bên cạnh Nghị định 178 nêu trên, Chính phủ, NHNN và các Bộ ngành khác đã ban hành một số các văn bản liên quan dến đả m bảo tiền vay như Nghị định 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 “Về giao dịch bảo đả m”, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 “Về đăng ký giao dịch đả m bảo”, Nghị định 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 “Về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượ ng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất, góp vốn bằng giá trị sử dụng đất” và các Thông tư hướ ng dẫn các Nghị định nêu trên. 6.1.3 Chính sách tỷ giá a. Về quản lý ngoại hối Trong những nă m qua, chính sách quản lý ngoại hối đã từng bước đổi mới theo hướ ng tăng c ườ ng khả năng quản lý, kiểm soát ngoại hối của Nhà nước, thu hẹp dần phạm vi hoạt động c ủa ngoại tệ. Một loạt các chính sách, quy định về quản lý ngoại hối và các hoạt động liên quan đế n ngoại hối đã được ban hành và ngày càng hoàn thiện và hỗ trợ thực hiệ n mục tiêu chính sách tiền tệ, tạo tiền đề thực hiện mục tiêu trên đất Việt Nam chỉ lưu hành đồng Việt Nam, hướ ng tới mục tiêu đồng Việt Nam trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi và tự do hoá các giao dịch ngoạ i hối. Nghị định 63/1998?NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Thủ tướ ng Chính phủ về quản lý ngoài hối đã xây dựng khung pháp lý khá toàn diện và hệ thống quản lý ngoại hối, phù hợp với yêu c ầu chuyển đối sang kinh tế thị 18
  19. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển trườ ng và tăng c ườ ng hội nhập quốc tế. Nghị định 63 đã đưa ra một s ố điể m khá cơ bản về quản lý ngoại hối tạo tiền đề cần thiết để tiến tới tụ do hoá các giao dịch ngoại hối như: Đưa ra khái niệ m mới về ngoại hối, xác định rõ khái niệm ngườ i cư trú và ngườ i không cư trú, phân chia các giao dịch liên quan đế n ngoại hối thành giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và giao dịch liên quan đế n ngoại hối c ủa TCTD, chỉ thừa nhận vàng tiêu chuẩn quốc tế làm ngoại hối. b. Về điều hành tỷ giá. Năm 1989 là mốc quan trọng trong việc thay đổi cơ chế, chính sách điều hành tỷ giá hối đoái ở nước ta. Tháng 3/1989, Việt Nam bãi bỏ hệ thống bao cấp c ủa nhà nước qua tỷ giá đối với các hoạt động ngoại thương, xoá bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ; đồng thời áp dụng cơ chế t ỷ giá mới. Sau khi áp dụng cơ chế quản lý chặt đối với lưu thông ngoại tệ nói chung, tỷ giá hối đoái nói riêng, trên thực tế tỷ giá hối đoái đã được thả nổi và do vậy tỷ giá tăng lên nhanh chóng dẫn tới lạm phát cao đồng nghĩa với VNĐ giảm giá. Trước tình hình đó, NHNN đã áp dụng một loạt các chính sách bổ trợ như ban hành tín phiếu kho bạc, thay đổi mức dự trữ ngoại tệ bắt buộc để ép tỷ giá giảm xuống nên tỷ giá thị trườ ng đã giả m xuống và ổn định trở lại vào năm 1992. Trong những năm qua, Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực trong việc duy trì tỷ giá hối đoái ổn định. Trong những năm 90, tỷ giá đã từng được duy trì khá ổn định, tuy nhiê n vẫn là cứng nhắc. Theo kinh nghiệm c ủa các nước trên thế giới, một trong những điều kiện tiền đề cần thiết cho tự do hoá tài chính là việc điều hành tỷ giá theo nguyên tắc thị trườ ng. Thời gian vừa qua, NHNN đã không ngừng đổi mới phương pháp điều hành tỷ giá để từng bước tiến tới mục tiêu trên. Từ năm 1994, với sự ra đờ i của thị trườ ng liên ngân hàng, NHNN đã thực hiện bước đổi mới đáng kể đầ u tiên về điều hành tỷ giá theo cơ chế mới thay cho chế độ đa tỷ giá trước đây. Do đó, tỷ giá mua bán trên thị trườ ng chỉ được phép dao động trong biên độ cho phép. Từ 1994- 1996, chế độ tỷ giá ở Việt Nam thiên về mục tiêu đả m bảo tính ổn định của tỷ giá danh nghĩa giữa đồng Việt Nam và đồng USD. Năm 1997, việc điều hành tỷ giá ngày càng trở nên linh hoạt, mục tiêu quản lý tỷ giá đã chuyển hướ ng từ nhấn mạnh tính ổn định sang điều hành linh hoạt trên cơ sở đả m bảo sự ổn định giá trị đồng Việt Nam. Sang năm 1999, NHNN thực hiện một bước đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá từ quản lý có tính chất hành chính theo hướ ng thị trườ ng có sự quản lý c ủa nhà nước. Kể từ ngày 26/2/1999, NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trườ ng ngoại tệ liên ngân hàng. Tỷ giá này được áp dụng làm cơ sở để các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ, xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ, áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu. Trên cơ sở tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trườ ng ngoại tệ liên ngân 19
  20. Tài chÝnh Ngân hàng và sự phát triển hàng c ủa ngày giao dịch gần nhất trước đó do NHNN công bố, các TCTD được quy định tỷ giá giao dịch giữa VND và USD không vượt quá 0,1% so với tỷ giá này. Việc thay đổi cơ chế quản lý điều hành tỷ giá đã tạo quyền chủ động cho các NHTM trong việc tự quy định tỷ giá giữa đồng Việt Nam với các ngoại tệ khác 6.1.4. Kết quả đ ạt được Với tư cách là công c ụ quản lý vĩ mô, là nguồn máu c ủa cơ thể sống, là nguồn lực, bằng chính sách và cơ chế vận hành phù hợp, các chính sách tài chính đã góp phần thúc đẩ y công cuộc đổi mới, duy trì tốc độ tăng trưở ng kinh tế. Qua 10 năm đổi mới và mở c ửa, hệ thống tài chính Việt Nam đã được xây dựng và phát triển, làm tốt vai trò của mình với nền kinh tế quốc dân và đã được một số kết quả như sau: Thứ nhất là, chính sách lãi suất đã đem lại một bước đệ m quan trọng tiến tới tự do hoá lãi suất, góp phần luân chuyển vốn hợp lý. Lãi suất cơ bản hiện nay được coi là phù hợp với mức độ phát triển c ủa thị trườ ng tiền tệ và khả năng kiể m soát c ủa NHNN. Việc xác định lãi suất cơ bản dựa trên lãi suất cho vay tốt nhất c ủa các ngân hàng thương mạ i cộng với biên độ đủ rộng cho thấy yếu tố thị trườ ng chứa đựng trong cơ chế lãi suất nà nhiều hơn cơ chế trần lãi suất cho vay trước đây. Như vậy, giá cả của đồng vốn trên thị trườ ng đã gắn nhiều hơn với cung cầu vốn trên thị trườ ng, đế n mức độ rủi ro cua món vay. Điều này góp phần thúc đẩy sự luân chuyển vốn hợp lý. Việc quy định lãi suất tái cấp vốn c ụ thể phù hợp với thông lệ quốc tế, cung cấp tín hiệu về mục tiêu nới lỏng hay thắt chặt chính sách tiền tệ. Như vậy, trong thời gian qua, cùng với việc chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lã i suất tái chiết khấu (hình thức tái cấp vốn). Bên cạnh đó, lãi suất tái cấp vốn do NHNN công bố c ũng không ngừng được hoàn thiện nhằm nâng cao tính hiệu quả c ủa công c ụ tái cấp vốn trong điều hành chính sách tiền tệ. Từ tháng 5-1997, NHNN đã thực hiện chuyển từ việc quy định lãi suất tái cấp vốn theo tỷ lệ % trên lãi suất cho vay áp dụng đối với dự án cho vay của tổ chức tin dụng (bắng từ 60%-100% lãi suất ghi trên khế ước cho vay c ủa tổ chức tín dụng) bằng việc quy định mức lãi suất tái cấp vốn c ụ thể phù hơpự với thông lệ quốc tế, cung cấp tin hiệu về mục tiêu nới lỏng hay thắt chặt chính sách tiền tệ. Như vậy, trong thời gian qua cùng với việc chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu (hình thức tái cấp vốn được áp dụng khi NHNN tái chiết khấu thương phiếu, các giấy tờ có gấ ngắn hạn c ủa TCTD) do NHNN công bố cũng được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp vớ mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Trên cơ sở đó, NHNN từng bước tiến tới mục tiêu tự do hoá lãi suất. Thứ hai là, việc đổi mới chính sách, cơ chế tín dụng phù hợp với các nguyên tắc thị trườ ng và thông lệ quốc tế đã có những kết quả đáng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0