intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển dịch vụ chất lượng cao tại Việt Nam trong công cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Chia sẻ: Mao A Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

32
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số biện pháp phát triển dịch vụ chất lượng cao tại Việt Nam dưới sự tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của bài viết này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển dịch vụ chất lượng cao tại Việt Nam trong công cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHẤT LƢỢNG CAO TẠI VIỆT NAM TRONG CÔNG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0. Th.S. Phạm Thu Trang, Th.S. Vũ Thúy An. Khoa Kinh tế- Quản trị kinh doanh- Trƣờng Đại học Hải Phòng TÓM TẮT Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thế giới, dịch vụ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của các nước. Tại Việt Nam, lĩnh vực dịch vụ cũng đang phát triển nhanh chóng cùng với chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Nhà nước trong giai đoạn đổi mới. Trong thời đại Cánh mạng công nghiệp 4.0, sự hội tụ của công nghệ hiện đại trong tin học, viễn thông, tài chính- ngân hàng, truyền thông,…đang tạo ra rất nhiều dịch vụ chất lượng cao, mang lại tiện nghi cho người tiêu dùng, tiết kiệm chi phí cho xã hội. Vì lẽ đó, việc phát triển dịch vụ chất lượng cao hiện nay đã trở thành chìa khóa để ngành dịch vụ đứng vững trên và vươn ra tầm thế giới. Bài viết nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số biện pháp phát triển dịch vụ chất lượng cao tại Việt Nam dưới sự tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0. Từ khó : Dịch vụ, chất lượng, công nghệ, kinh tế, điện tử, 4.0, Việt Nam. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ. Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển hơn, nền kinh tế đi lên, mức sống của con người cũng được cải thiện rất nhiều so với thời kì trước đây, con người có xu hướng tiêu dùng các sản phẩm chất lượng hơn, dịch vụ ưu việt hơn. Nhu cầu của con người không có giới hạn, vì vậy, các ngành kinh tế, đặc biệt là dịch vụ cần phát triển với hướng nâng cao chất lượng để đáp ứng tốt hơn, đầy đủ hơn các nhu cầu đó. Chất lượng dịch vụ có thể đánh giá thông qua các tiêu thức về trình độ, bí quyết, kỹ năng của người cung ứng dịch vụ; trình độ công nghệ, trang thiết bị; trình độ tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ và nhận định, đánh giá của khách hàng. Mặt khác, trong thời đại “Cách mạng công nghiệp 4.0” - "Industrie 4.0" kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học, hứa hẹn cơ hội thay đổi bộ mặt cho các ngành kinh tế. Ba vấn đề cốt lõi của Cách mạng công nghiệp 4.0 là Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data) cho thấy tương lai các công việc của con người sẽ được giảm bớt rất nhiều. Nắm lấy cơ hội này, Việt Nam cần thiết phát triển dịch vụ chất lượng cao như một tất yếu theo xu hướng phát triển của con người và nền kinh tế trong thời đại “Cách mạng công nghiệp 4.0”. 2. KHÁI QUÁT VỀ DỊCH VỤ CHẤT LƢỢNG CAO. 2.1. Quan niệm về dịch vụ chất lƣợng cao Trong xu thế hội nhập hiện nay, yêu cầu hàng đầu đối với dịch vụ là yêu cầu về chất lượng. Chất lượng dịch vụ, xét theo cách tiếp cận dựa trên khách hàng, biểu hiện ở mức độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng khi tiêu dùng dịch vụ [2]. Trên cơ sở đó, quan niệm về dịch vụ chất lượng cao ra đời. Dịch vụ chất lượng cao được hiểu là một loại hình dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, tiềm năng và lợi thế cạnh tranh lớn, đáp ứng đầy đủ các điều kiện làm hài lòng người tiêu dùng. Dịch vụ chất lượng cao có hai đặc điểm cơ bản là độ thỏa dụng lớn (đem lại mức độ thoả mãn cao cho khách hàng khi tiêu dùng dịch vụ) và giá trị gia tăng cao (đem lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp cung ứng dịch vụ). Việc sản xuất và cung ứng dịch vụ chất lượng cao phải dựa trên nền tảng cơ sở vật chất hiện đại, trình độ khoa học công nghệ cao, đội ngũ nhân lực sản xuất và phục vụ có tay nghề, tính chuyên nghiệp cao hoặc có kỹ năng, trình độ tổ chức và hoạt vào loại tiên tiến. Thực chất, dịch vụ chất lượng cao chính là tất cả các ngành dịch vụ hiện tại nhưng được phát triển ở một trình độ cao, đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, trọn gói và hướng đến các nhóm khách hàng có thu nhập cao. Như vậy, dịch vụ chất lượng cao có thể là cả một ngành dịch vụ được phát triển trên nền tảng công nghệ hiện đại, phương thức quản lý tiên tiến như các dịch vụ tư vấn, chuyển 290
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG giao công nghệ, marketing; tài chính-ngân hàng và các loại hình bảo hiểm, thẻ ATM; các cửa hàng tự chọn, chuỗi cửa hàng tiện ích; các hoạt động du lịch kết hợp văn hóa-sinh thái, du lịch hội thảo hội nghị, các dịch vụ gia tăng của bưu chính như chuyển tiền nhanh, chuyển phát nhanh.... 2.2. Vai trò của dịch vụ chất lƣợng cao với nền kinh tế Việt Nam Dịch vụ vốn được mệnh danh là ngành công nghiệp không khói, mang lại giá trị kinh tế cao cho mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, dịch vụ đóng vai trò không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Biểu đồ 2.1. Tỉ trọng ngành dịch vụ trong tổng GDP 9 tháng đầu n m 2017 (Nguồn: Số liệu thống kê tình hình kinh tế- xã hội- Tổng cục thống kê Việt Nam)[3] Có thể thấy, về cơ cấu, ngành dịch vụ chiếm tỉ lệ cao nhất (42,67%) trong tổng sản phẩm trong nước. Trong đó, một số ngành có tỉ trọng lớn trong khu vực dịch vụ đều có mức tăng trưởng tương đối đồng đều và đóng góp cao vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế cả nước. Bảng 2.1. Mức độ phát triển của một số ng nh dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn Giá trị tính theo giá Tốc độ phát triển so Nhóm dịch vụ so sánh 2010 (tỉ đồng) với tháng 9/2016 - Dịch vụ bán buôn, lẻ, sửa chữa 207.141 8,16 - Dịch vụ kinh doanh bất động sản 116.849 3,99 - Dịch vụ tài chính- ngân hàng 114.091 7,89 - DV lưu trú, ăn uống 88.314 9 - Dịch vụ vận tải, kho bãi 65.005 7.81 (Nguồn: Số liệu thống kê tình hình kinh tế- xã hội- Tổng cục thống kê Việt Nam)[3] Như vậy, nhóm các dịnh vụ quyết định tăng trưởng và đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP là tài chính, ngân hàng, khoa học công nghệ, bất động sản và tư vấn. Các ngành dịch vụ này đều là những ngành tiên phong trong việc phát triển các dịch vụ chất lượng cao. Trên thực tế, phát triển dịch vụ chất lượng cao thường mang lại hiệu quả lớn hơn rất nhiều lần so với dịch vụ thông thường cùng loại. Việc phát triển dịch vụ chất lượng cao còn giúp mở rộng phạm vi hoạt động của nền kinh tế, do tạo thêm nhiều việc làm mới cho người dân, tạo nên giá trị tăng cao của toàn nền kinh tế. 291
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHẤT LƢỢNG CAO TRONG MỘT SỐ NGÀNH DỊCH VỤ TẠI VIỆT NAM 3.1. Dịch vụ t i chính- ngân hàng Là ngành dịch vụ ra đời dựa trên sự phát triển của cơ sở vật chất kĩ thuật cũng như trình độ chuyên môn của người lao động, bản thân ngành tài chính- ngân hàng đã là một dịch vụ chất lượng cao. Hiện nay, tại các ngân hàng, ngoài những dịch vụ truyền thống còn xuất hiện các dịch vụ mới, chất lượng cao được ra đời và cung ứng trên cơ sở hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Dịch vụ chất lượng cao trong ngành tài chính - ngân hàng được phát triển trong thời gian qua có thể kể đến là dịch vụ ngân hàng điện tử. Dịch vụ ngân hàng điện tử (Enectronic Banking viết tắt là E-Banking) là một dạng của thương mại điện tử (electronic commerce hay e-commerce) ứng dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tại Việt Nam, một số dịch vụ ngân hàng điện tử được các ngân hàng thương mại (NHTM) triển khai và phát triển như: Dịch vụ máy rút tiền tự động ATM, ngân hàng qua điện thoại (telephone banking), ngân hàng trên mạng máy tính toàn cầu (internet banking), ngân hàng tại nhà (home banking), ngân hàng qua mạng viễn thông không dây (mobile banking)… Phát triển các dịch vụ của ngân hàng điện tử là xu hướng tất yếu, mang tính khách quan trong nền kinh tế hiện đại. Theo kết quả điều tra, khảo sát tình hình ứng dụng thương mại điện tử năm 2015 của Cục thương mại điện tử và Công nghệ thông tin- Bộ Công thương, trong các hình thức thanh toán chủ yếu người mua hàng trực tuyến thực hiện có 48% người mua tham gia khảo sát sử dụng phương thức chuyển khoản qua ngân hàng, 20% người tham gia khảo sát cho biết từng sử dụng các loại thẻ thanh toán. Đối với doanh nghiệp, có 97% doanh nghiệp được khảo sát chấp nhận cho khách hàng thanh toán bằng phương thức chuyển khoản qua ngân hàng, 16% doanh nghiệp chấp nhận thanh toán bằng thẻ thanh toán. [7] Như vậy, dịch vụ ngân hàng điện tử đã và đang ngày càng thu hút nhiều khách hàng cá nhân và doanh nghiệp. Trải qua gần 20 năm phát triển tại Việt Nam, hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đều đã triển khai dịch vụ chất lượng cao này và bước đầu thu được kết quả tốt. Đến nay, có khoảng 45 ngân hàng cung cấp dịch vụ SMS banking, Internet Banking và 32 ngân hàng phát triển ứng dụng Mobile Banking. Đặc biệt, dịch vụ Mobile Banking được đánh giá là có ưu điểm nổi trội. Theo báo cáo Mobile Banking năm 2015 của KPMG, kênh mobile giúp tiết kiệm chi phí và thời gian đến 43 lần so với một chi nhánh, 13 lần so với call center, 13 lần so với ATM và hai lần so với kênh online (tức Internet Banking) [4], [8] Các sản phẩm thanh toán của ngành ngân hàng hiện nay không chỉ dừng lại ở các đối tượng doanh nghiệp mà đang có xu hướng đi sâu vào đời sống thường nhật của người dân. Cụ thể như Viettin Bank tiên phong trong việc triển khai giải pháp thanh toán thu học phí qua website của nhà trường tích hợp với hệ thống quản lý sinh viên cho các trường đại học như: Đại học Bách Khoa, Đại học Nông nghiệp Hà Nội,...hay dịch vụ thu viện phí không dùng tiền mặt tại các bệnh viện lớn trên toàn quốc như: Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), Bệnh viện Nhi Đồng I (TP. HCM)… Lĩnh vực giao thông vận tải, điện lực, viễn thông cũng đã ghi dấu ấn thanh toán điện tử của ngành tài chính- ngân hàng với việc triển khai dịch vụ thu phí cầu đường không dừng tại nhiều trạm thu phí lớn trên toàn quốc hay trả phí tiền điện qua tài khoản... Tuy nhiên, dù những dịch vụ ngân hàng điện tử hầu hết đã được các NHTM áp dụng nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc. Việc sử dụng chữ ký điện tử, chứng nhận điện tử chưa được phổ biến rộng rãi và chưa thể hiện được ưu thế so với chữ ký thông thường. Bên cạnh đó, mỗi hệ thống ngân hàng có một chiến lược phát triển khác nhau, không có sự gắn kết với nhau gây ra sự lãng phí về vốn và thời gian. Chưa kể, hiện nay thương mại điện tử của Việt Nam hiện vẫn đang trong giai đoạn phát triển, làm hạn chế sự phát triển của dịch vụ này. Chất lượng mạng, tốc độ đường truyền, lỗi kỹ thuật hoặc thiết bị đầu cuối không đảm bảo chất lượng dẫn tới chất lượng dịch vụ chưa cao. Ngoài những điều trên thì những rủi ro như lộ danh tính, thông tin cá nhân, tin tặc tấn công, virus máy tính… khiến khách hàng e ngại khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử. 292
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 3.2. Dịch vụ viễn thông, thông tin Cũng như dịch vụ tài chính- ngân hàng, bản thân dịch vụ viễn thông, thông tin đòi hỏi phải được xây dựng trên nền tảng công nghệ hiện đại và mức độ chất xám cao. Phát triển các dịch vụ chất lượng cao trong ngành viễn thông, thông tin sẽ tạo tiền đề cho việc phát triển các ngành dịch vụ khác. Bởi hầu hết các dịch vụ chất lượng cao đều phát triển trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng dịch vụ viễn thông hiện đại. Năm 2016 là năm đánh dấu hạ tầng viễn thông Việt Nam có những điểm nhấn đáng kể nhằm phát triển các dịch vụ chất lượng cao. Với việc VNPT đưa vào sử dụng dịch vụ di động vệ tinh VinaPhone-S phủ sóng toàn bộ lãnh thổ Việt Nam cả trên đất liền, vùng biển, vùng trời, lần đầu tiên khẳng định xóa bỏ hoàn toàn “điểm trắng” về liên lạc ở Việt Nam. Trong khi đó, Viettel được Chính phủ giao trách nhiệm hiện đại hoá mạng viễn thông 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia bằng công nghệ 4G, hỗ trợ xây dựng Chính phủ điện tử cho ba nước và triển khai mức cước gọi giữa thuê bao của Viettel tại 3 nước tương đương với mức cước trong nước, qua đó góp phần kết nối hoạt động đầu tư, phục vụ khách du lịch và người dân của ba nước. Đây là lần đầu tiên trên thế giới 1 khu vực kinh tế xóa bỏ cước roaming. Hiện tại, Việt Nam đã có tên trên bản đồ 4G của thế giới với việc có 4 nhà mạng là VNPT, Viettel, MobiFone và Gtel đã có giấy phép kinh doanh 4G từ tháng 10/2016 [1]. Với dịch vụ mới 4G, nhà mạng có thể tăng được doanh thu trong khi người dân sẽ có cơ hội trải nghiệm các dịch vụ viễn thông chất lượng cao ở Việt Nam. Trong năm 2017, dịch vụ 4G đã từng bước được triển khai và phủ sóng trên toàn quốc. Đây chính là tiền để để các nhà mạng chuyển hoá thành nhà cung cấp dịch vụ thực thụ, cạnh tranh một cách bình đẳng với các nhà cung cấp đa dịch vụ xuyên biên giới. Tuy nhiên, qua thực tế sử dụng, dịch vụ 4G vẫn chưa thực sự đáp ứng được kì vọng của khách hàng. Nhiều người dùng cho biết họ sẵn sàng mua thiết bị để trải nghiệm dịch vụ 4G, song việc phải thay sim và dấu hỏi về chất lượng cũng là vấn đề băn khoăn. Khi ra mắt mạng 4G, các nhà mạng tại Việt Nam đều công bố tốc độ truyền tải có thể đạt đến 200-300 Mbps. Thế nhưng, trên thực tế, tốc độ 4G mà nhiều người dùng đo được hiện nay chỉ phổ biến trong khoảng 20-40 Mbps. Tại một số vị trí gần trạm phát sóng 4G mạnh, tốc độ người dùng đo được cũng chỉ đạt 30-60 Mbps. Mặt khác, người dùng 4G tại Việt Nam hiện chỉ dùng được mỗi dịch vụ truyền dữ liệu để truy cập Internet, trong khi các dịch vụ nội dung đi kèm như tải nhạc, phim, video, xem TV trực tuyến… chưa phong phú. Trên thực tế, người dùng thử 4G cũng không đánh giá cao chất lượng và dịch vụ nội dung mạng này. Tốc độ 4G tuy có cao hơn so với 3G nhưng sóng rất kém, ở nội thành TP HCM nơi có nơi không, ra ngoại thành thì hầu như không có… Bên cạnh đó, việc thiếu tính rõ ràng trong vấn đề thu phí đối với các dịch vụ nội dung cũng ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ. Tháng 9/2016, Thanh tra Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội đã phát hiện từ tháng 1/2013 đến tháng 3/2016, nhiều khách hàng của Viettel, MobiFone, VinaPhone, Vietnamobile do không biết mình đang dùng dịch vụ của Sam Media hợp tác với 3 công ty Việt Nam cung cấp nên đã bị mất số tiền gần 230,5 tỷ đồng. Số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ tại thời điểm ngày 19/7/2016 là 93.735 khách hàng, trong đó có nhiều khách hàng khi được hỏi đều không biết mình đang sử dụng dịch vụ bị trừ tiền. Mặc dù các nhà mạng đã tuyên bố cắt hợp đồng với các đối tác của Sam Media nhưng đây là sự cố làm mất niềm tin nghiêm trọng của khách hàng đối với cả nhà mạng và nhà cung cấp dịch vụ nội dung. 3.3. Dịch vụ thƣơng mại bán lẻ Thị trường bán lẻ tại Việt Nam ngày càng trở nên sôi động với sự tham gia của nhiều dịch vụ chất lượng cao, dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại. Ngày càng xuất hiện nhiều loại hình phân phối mới hiện đại và thuận tiện hơn, tiêu biểu là chuỗi các siêu thị, trung tâm thương mại như Vin Mart, Co.op Mart, Intimex, Maximark, Citimart…. Từ chỗ người tiêu dùng thoả mãn nhu cầu về hàng hoá 100% qua chợ và mạng lưới bán lẻ truyền thống, thì nay, 293
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG theo thống kê của Bộ Công Thương, thị phần bán lẻ hiện đại ở Việt Nam năm 2016 chiếm khoảng 25% tổng mức bán lẻ dự báo con số này sẽ là 45% đến năm 2020. Tại Việt Nam, với dân số 94 triệu người có đến 55% người sử dụng smartphone và truy cập mạng bình quân 2 giờ mỗi ngày, tỉ lệ sử dụng dịch vụ mua sắm trực tuyến chiếm 58% [6] Có thể thấy, các dịch vụ chất lượng cao trong thương mại thường được liên kết với ngành tài chính- ngân hàng để phát huy được hiệu quả tối đa. Tại các trung tâm mua sắm hiện đại hiện nay để thu hút khách hàng thanh toán qua thẻ, doanh nghiệp thường liên kết với ngân hàng để lắp đạt các máy chấp nhận thẻ (POS) tại các điểm giao dịch. Tất cả ngân hàng đều không thu phí người dùng đối với dịch vụ này mà chỉ thu đối với đơn vị kinh doanh (thông thường 1,5-2% trên mỗi giao dịch). Tuy nhiên, các đơn vị kinh doanh thường “lách” bằng cách ghi thẳng giá tiền sản phẩm vào hóa đơn (đã bao gồm tiền sản phẩm và phí) nên thực chất, người tiêu dùng vẫn phải chịu khoản phí này, điều đó làm một số khách hàng không hài lòng với dịch vụ. Đó là chưa kể nhiều trung tâm mua sắm, vui chơi... hiện vẫn chưa có máy POS. để khách hàng thanh toán, hoặc máy POS thường xuyên bị hỏng, lỗi kĩ thuật, dẫn đến việc thanh toán cho khách hàng bị chậm trễ, gây tâm lí chán nản khi sử dụng dịch vụ. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tính đến đầu năm 2016 toàn thị trường đã có 217.470 máy POS, tăng trưởng 181% so với năm 2011. Tuy nhiên, các điểm chấp nhận thẻ hiện chỉ tập trung chủ yếu tại Hà Nội và TP HCM, còn ở các tỉnh nông thôn, vùng xa... số lượng máy rất ít. Mặt khác, sức mua qua các kênh bán lẻ hiện đại của người tiêu dùng Việt Nam còn thấp. Theo khảo sát của Kantar trong năm 2015, bán lẻ truyền thống vẫn đang chiếm số lượng áp đảo với 82% thị phần theo giá trị ở khu vực thành thị và 98% thị phần theo giá trị ở khu vực nông thôn [6]. Điều này cho thấy, người tiêu dùng Việt vẫn chưa hứng thú nhiều với những dịch vụ mua sắm hiện đại. 3.4. Dịch vụ vận tải h nh khách Trong những năm gần đây, dịch vụ vận chuyển hành khách có những thay đổi lớn về phương thức, chất lượng và văn hóa vận tải. Sự ra đời của hoạt động ứng dụng công nghệ để quản lý và kết nối vận tải hành khách theo hợp đồng mà tiêu biểu là taxi Uber và Grab đã cho thấy sự đa dạng trong cung cấp dịch vụ vận tải bắt nhịp xu hướng công nghệ hiện đại với nhiều tiện ích, giá hấp dẫn. Dịch vụ vận tải chất lượng cao này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hành khách trong việc đi lại như: lựa chọn phương tiện, biết được thông tin của lái xe, biết trước được giá cước, tăng khả năng tìm lại hành lý, tài sản,... Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể giám sát đánh giá thái độ phục vụ khách hàng của lái xe. Trên thực tế, việc tận dụng nền tảng công nghệ đã giúp tiết kiệm chi phí cho cả lái xe lẫn người tiêu dùng, tránh mọi tranh cãi liên quan tới giá cước. Ngoài ra, sự đa dạng về dịch vụ như dịch vụ chuyển hàng (Grab Bike hay Grabshare) mang tới nhiều lựa chọn và ghi điểm trong mắt khách hàng. Việc đăng kí sử dụng các dịch vụ chất lượng cao này cũng hết sức đơn giản, khách hàng có thể thực hiện thông qua điện thoại di động. Tuy nhiên, sự xuất hiện của các dịch vụ vận tải hiện đại đang làm bùng nổ một cuộc cạnh tranh không lành mạnh giữa các hãng taxi truyền thống và các hãng vận tải hành khách theo hợp đồng mà vấn đề chủ yếu là do cơ chế quản lý của Nhà nước chưa thật sự thỏa đáng. Ngoài ra, trong các ngành dịch vụ y tế, giáo dục, du lịch…, các dịch vụ chất lượng cao cũng đã có những bước phát triển, làm thay đổi cơ bản hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn ngành. Có thể thấy, sự ra đời và phát triển của những dịch vụ chất lượng cao đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng cũng như đem lại giá trị gia tăng lớn cho các doanh nghiệp. 294
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 4. TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHẤT LƢỢNG CAO TẠI VIỆT NAM- PHÂN TÍCH SWOT Đặc điểm Tác động tích cực Tác động tiêu cực Ngành Điểm mạnh (S): Điểm yếu (W): dịch vụ - Có ưu điểm vượt trội so với các - Sự phát triển các chủng loại dịch vụ dịch vụ truyền thống, từng bước chất lượng cao tại Việt Nam hiện chưa khẳng định thế mạnh ở các thành phong phú, đa dạng. phố lớn tại Việt Nam. Dịch vụ chất - Chất lượng còn ở mức trung bình và lượng cao đang phát huy vai trò còn khoảng cách so với nhiều nước động lực cho sự phát triển của khu trong khu vực, trong khi giá cả lại khá vực dịch vụ tại những đô thị này. cao làm cho tính cạnh tranh bị hạn - Nhận thức ngày càng cao của các chế. doanh nghiệp dịch vụ khi tham gia - Việc phát triển dịch vụ chất lượng cung ứng dịch vụ chất lượng cao cao thiếu tính chiến lược, kế hoạch, theo xu thế hiện đại. chưa đồng bộ. - Sự phát triển của các dịch vụ chất lượng cao được hỗ trợ bởi nhiều - Hạ tầng dịch vụ hiện tại còn khá yếu luật, nghị định của Chính Phủ. kém, tính chuyên nghiệp chưa cao, nguồn nhân lực đào tạo chưa thật bài bản. Môi Cơ h i (O): Thách thức (T): trƣờng - Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra - Thách thức trong việc hoàn thiện “cơ hội vàng” để đi tắt đón đầu hành lang pháp lý phục vụ hoạt động công nghệ tiến tới nâng cao năng của các ngành dịch vụ chất lượng cao suất, hiệu quả trong tất cả các khâu như thanh toán điện tử, tiền điện tử,… của ngành dịch vụ. - Việc đổi mới mô hình kinh doanh, - Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ quản trị, thanh toán trong ngành cần mang lại cơ hội cho việc ứng dụng được xem xét lại để phù hợp với xu công nghệ quản trị thông minh AI hướng quản trị thông minh AI. và tự động hóa trong quy trình - Với sự phát triển ngày càng tinh vi nghiệp vụ, đẩy nhanh tiến trình của công nghệ số trong ngành dịch vụ, hướng tới mô hình chuẩn trong kéo theo sự gia tăng của những lỗ tương lai. hổng bảo mật, tạo điều kiện cho tội - Những tiến bộ từ cuộc Cách mạng phạm công nghệ cao hoạt động ngày công nghiệp 4.0 là thời cơ giúp càng thường xuyên. ngành dịch vụ chất lượng cao trong - Thách thức về trình độ, năng lực, số nước phát triển và cạnh tranh với lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ về các doanh nghiệp khác trong khu công nghệ thông tin. vực và trên thế giới trong điều kiện - Thách thức về vấn đề cạnh tranh nắm bắt, thích nghi và thay đổi kịp không lành mạnh giữa một số nhà thời đối với xu thế công nghệ mới. cung ứng dịch vụ chất lượng cao và dịch vụ thông thường. 5. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHẤT LƢỢNG CAO TẠI VIỆT NAM Để phát triển các dịch vụ chất lượng cao tại Việt Nam, trước hết các doanh nghiệp dịch vụ cần phải chuẩn bị sẵn sàng một nguồn nhân lực chất lượng cao. Muốn như vậy, hệ thống giáo dục đào tạo phải đổi mới theo tinh thần coi khoa học công nghệ là trụ cột chính của sự phát triển. Trong quá trình đào tạo, người dạy không chỉ truyền tải tri thức mà còn phải 295
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG dạy sáng tạo, dạy trí tuệ. Thời gian đầu khi tiếp cận với Cách mạng công nghiệp 4.0, nhiệm vụ chính của giáo dục chính là cần phải học hỏi một cách hiệu quả. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần phải chủ động chuyển sang hệ thống quản trị cao cấp, tiêu chuẩn quốc tế… qua đó có thể sẵn sàng thích ứng cũng như tận dụng các cơ hội mà cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại. Thứ hai, Đầu tư hoàn thiện hệ thống hạ tầng cho phát triển dịch vụ chất lượng cao. Trên thực tế hiện nay, hạ tầng và cơ sở vật chất - công nghệ của các ngành dịch vụ ở Việt Nam còn chưa đồng đều. Trong thời gian tới cần phải nhanh chóng khắc phục hạn chế này bằng cách thu hút vốn đầu tư phát triển hạ tầng dịch vụ, đặc biệt là hạ tầng viễn thông, giao thông vận tải, kho bãi, trung tâm giao dịch, xúc tiến... Mặt khác, do đặc thù của quá trình cung cấp các dịch vụ chất lượng cao là đòi hỏi kỹ năng quản lý chuyên nghiệp, áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ mới, sự gia tăng đầu tư vào các ngành này phần lớn đến từ bên ngoài. Vì vậy, để tận dụng những cơ hội từ Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại, ngành dịch vụ cần phải biết "mượn sức" của thế giới bằng việc liên kết, hợp tác với những doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu trên thế giới, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ và giảm chi phí sản xuất, cung ứng dịch vụ. Vấn đề tiếp theo là Nhà nước cần phải giải quyết được những vấn đề nội tại cơ bản của nền kinh tế. Đó là đảm bảo tính cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp, giữa các thành phần, tạo ra một môi trường minh bạch, khuyến khích sự sáng tạo và phát triển. Để làm được điều này, Nhà nước cần tập trung đổi mới cơ chế, tạo lập môi trường chính sách, môi trường đầu tư thuận lợi cho phát triển dịch vụ và các dịch vụ chất lượng cao. Đồng thời xây dựng và hoàn thiện các chiến lược, kế hoạch phát triển dịch vụ chất lượng cao phù hợp với thông lệ quốc tế và tiến trình hội nhập, tham gia các hiệp định kinh tế, thương mại quốc tế. KẾT LUẬN Thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp và đang bắt đầu trong thời đại Công nghiệp 4.0. Cú chuyển mình hay sự tụt hậu của nền kinh tế phụ thuộc vào cách nhìn nhận và nắm bắt cơ hội này. Một trong những xu hướng kinh tế của thời hiện đại chính là chú trọng ngành dịch vụ, một ngành chiếm tỷ trọng lớn trong GDP các nước phát triển. Đối với Việt Nam, việc nâng cao tính đa dạng và nhất là phát triển dịch vụ chất lượng cao sẽ là định hướng để ngành dịch vụ hòa nhập với thế giới có những bước vững chắc trong thời kì thay đổi của nền kinh tế. Bên cạnh những thành tựu đạt được trong thời gian qua, việc phát triển dịch vụ chất lượng cao tại Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Điều này xuất phát từ chính bản thân doanh nghiệp cũng như từ môi trường kinh doanh và cơ chế, chính sách của Nhà nước. Vì vậy, để xây dựng một ngành dịch vụ bền vững rất cần có chiến lược lâu dài và sự liên kết, phối hợp giữa Nhà nước - doanh nghiệp để tận dụng những cơ hội “vàng” của Cách mạng công nghiệp 4.0 296
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ thông tin và truyền thông (2017), Công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam, NXB Thông tin và truyền thông, Hà Nội. [2] Đặng Ngọc Sự- Nguyễn Đình Phan (2012), Giáo trình Quản trị chất lượng, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội [3] GSO (2017), Niên giám thống kê 2016, NXB Thống kê, Hà Nội. [4] KPMG (2016), Báo cáo minh bạch 2015 KPMG Việt Nam, Hà Nội. [5] Mutrap (2009), Báo cáo Chiến lược tổng thể phát triển ngành dịch vụ tới năm 2020 và tầm nhìn tới năm 2025, Hà Nội. [6] Phạm Nguyên Phương Nam (2016), Thị trường bán lẻ Việt Nam- Thách thức để thay đổi, https://www.linkedin.com/pulse/thị-trường-bán-lẻ-việt-nam-thách-thức-để-thay-đổi- phạm-nguyên. [7] Tạp chí Tài chính Kỳ 1 (2017), Xu hướng thanh toán bằng thẻ, tiền điện tử trên thế giới và ở Việt Nam, https://www.baomoi.com/xu-huong-thanh-toan-bang-the-tien-dien-tu-tren- the-gioi-va-o-viet-nam/c/22329296.epi. [8] VN Express (2015), Hơn 3 triệu người dùng dịch vụ Mobile Banking tại VN, https://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/ebank/thanh-toan-dien-tu/hon-3-trieu-nguoi- dung-dich-vu-mobile-banking-tai-vn-3269473.html. DEVELOPMENT OF HIGH QUALITY SERVICES IN VIETNAM IN THE INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 ABSTRACT Along with the strong development of the world economy, services are increasingly playing an important role in national economies. In Vietnam, the service sector is also rapidly developing together with the policy of restructuring the state economy in the renovation period. In the era of Industrial revolution 4.0, the convergence of modern technology in information technology, telecommunications, finance-banking, communication,... is creating a lot of high quality services, bringing convenience to consumers, saving the cost to society. Therefore, the development of high quality services has now become the key to the service sector to stand on and reach out to the world. This paper researches current situation and suggests some solutions for developing high quality services in Vietnam under the influence of the Industrial revolution 4.0. Keywords: Services, quality, technology, economics, electronics, 4.0, Vietnam. 297
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2