QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG<br />
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VIỆT NAM<br />
<br />
<br />
TS. Nguyễn Thị Kim Thanh<br />
<br />
Phó tổng thư ký Hiệp hội QTDND Việt Nam<br />
<br />
<br />
Tóm tắt:<br />
<br />
Hệ thống tài chính là tổng thể bao gồm các định chế tài chính và thị trường tài<br />
chính thực hiện chức năng gắn kết cung cầu về vốn. Để thấy được bức tranh đầy đủ về<br />
quá trình phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam, bài viết đưa ra những nhận định<br />
vừa là cơ sở lý luận vừa là thực tiễn để khẳng định vai trò của hệ thống tài chính dối<br />
với phát triển kinh tế, và khái quát quá trình phát triển hệ thống tài chính Việt Nam từ<br />
thời kỳ đổi mới đến nay trải qua những thăng, trầm của nền kinh tế. Đồng thời bài viết<br />
cũng làm rõ hơn thực trạng phát triển hệ thống tài chính Việt Nam hiện nay, mức độ<br />
phát triển hiện tại và những hạn chế bất cập cần được khắc phục. Thay cho lời kết bài<br />
viết đưa ra một số vấn đề đặt ra cho sự phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam sao<br />
cho ngang tầm khu vực và thế giới.<br />
<br />
Từ khóa: vốn, tài chính, ngân hàng, thị trƣờng.<br />
<br />
1. Khái quát quá trình phát triển hệ thống tài chính tiền tệ Việt Nam<br />
Hệ thống tài chính là nơi dẫn dắt các dòng vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu<br />
thông qua sự vận hành của các thị trƣờng tài chính và hoạt động của các định chế<br />
tài chính. Hoạt động của hệ thống tài chính đóng vai trò nhƣ một “bộ lọc tự<br />
nhiên” hỗ trợ lựa chọn và phát triển các khu vực kinh tế hiệu quả, đồng thời triệt<br />
tiêu các khu vực kinh tế kém hiệu quả. Thông qua đó, góp phần nâng cao năng<br />
lực và chất lƣợng hoạt động của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trƣởng. Từ phía các<br />
khách hàng cá nhân và hộ gia đình, sản phẩm, dịch vụ tài chính đáp ứng trực tiếp<br />
nhu cầu tiết kiệm, đầu tƣ và tiêu dùng, đóng góp vào quá trình tạo ra của cải và<br />
cải thiện chất lƣợng cuộc sống.<br />
<br />
Lịch sử phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều khẳng định<br />
vai trò và tầm quan trọng của hệ thống tài chính, bất chấp những rủi ro và tổn<br />
thất mà các cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực này có thể mang lại. Theo quan<br />
điểm của trường phái kinh tế mới - lý thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh, đã<br />
<br />
<br />
165<br />
nhấn mạnh rằng một hệ thống tài chính vững mạnh có thể thúc đẩy tăng trưởng<br />
kinh tế trong dài hạn, hỗ trợ đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ<br />
thuật vào sản xuất kinh doanh và phát triển thị trường. Thậm chí, một hệ thống<br />
tài chính ổn định và vững mạnh không chỉ huy động được các nguồn vốn trong<br />
nước, mà còn giúp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn bên<br />
ngoài cho nền kinh tế. Ngược lại, “một hệ thống tài chính kém phát triển với<br />
những chức năng nghèo nàn có thể cản trở các quá trình kinh tế, làm trầm trọng<br />
thêm sự nghèo đói, và làm mất ổn định kinh tế.<br />
<br />
Hệ thống tài chính Việt Nam với lịch sử phát triển ngắn ngủi, nếu so với lịch<br />
sử phát triển hàng trăm năm của hệ thống tài chính thế giới thì mới nhƣ đang ở buổi<br />
đầu sơ khai “chập chững” thành hình. Các thị trƣờng tài chính nhƣ thị trƣờng tín<br />
dụng ngân hàng, thị trƣờng tiền tệ, thị trƣờng ngoại hối, thị trƣờng cổ phiếu và trái<br />
phiếu đều mới chỉ đi vào hoạt động trong khoảng hơn 20 năm trở lại đây, cho đến<br />
nay vẫn đang từng bƣớc hoàn thiện các yếu tố nền tảng nhƣ hành lang pháp lý,<br />
khuôn khổ hoạt động, cơ chế giám sát… Quy mô của hệ thống tài chính còn nhỏ thể<br />
hiện qua tổng giá trị tài sản của các định chế tài chính mới chỉ đạt mức xấp xỉ<br />
khoảng 200% GDP. Tuy nhiên, hệ thống tài chính cũng đã đóng vai trò đặc biệt<br />
quan trọng trong việc huy động và phân bổ các nguồn vốn cho phát triển kinh tế từ<br />
đất nƣớc, cung ứng các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế, đặc biệt là các dịch vụ tài<br />
chính hiện đại, đóng góp quan trọng cho tăng trƣởng kinh tế, hỗ trợ cải thiện đời<br />
sống xã hội, nâng cao chất lƣợng cuộc sống của ngƣời dân.<br />
<br />
Cùng với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức<br />
thƣơng mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 1 năm 2007, hệ thống tài chính<br />
Việt Nam đã từng bƣớc chủ động mở cửa và hội nhập sâu hơn vào hệ thống tài<br />
chính quốc tế. Các cam kết mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng và chứng khoán<br />
nhanh chóng đƣợc thực thi thông qua hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật,<br />
mở rộng cơ hội cho các định chế tài chính nƣớc ngoài tham gia vào thị trƣờng tài<br />
chính trong nƣớc với nhiều hình thức hiện diện, tham gia vào nhiều hoạt động<br />
kinh doanh và cung cấp dịch vụ khác nhau. Lấy cột mốc từ năm 2007 có thể thấy<br />
thị trƣờng tài chính Việt Nam đã một giai đoạn tăng trƣởng mạnh ngay sau thời<br />
điểm Việt Nam gia nhập WTO. Cùng với đó là sự “bùng nổ” của hệ thống các<br />
định chế tài chính cả về số lƣợng cũng nhƣ quy mô vốn và tài sản. Số lƣợng các<br />
công ty chứng khoán tăng trƣởng đột biến từ 15 công ty năm 2005 lên tới 78<br />
<br />
<br />
166<br />
công ty vào năm 2007 và tiếp tục tăng lên tới 105 công ty vào năm 2009, đồng<br />
thời quy mô vốn và tài sản tăng gấp khoảng hơn 3 lần. Xu hƣớng tƣơng tự cũng<br />
diễn ra trong hệ thống NHTM với tốc độ tăng trƣởng tài sản và nguồn vốn trung<br />
bình lên tới gần 30%/năm. Vai trò của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đã không<br />
ngừng đƣợc nâng lên phản ánh qua mức độ tham gia sở hữu vốn tại các NHTM,<br />
các công ty tài chính, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu<br />
tƣ và quy mô nguồn vốn gián tiếp trên thị trƣờng chứng khoán. Hơn thế nữa, sự<br />
dịch chuyển của khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đƣợc ứng dụng rộng rãi<br />
góp phần nâng cao chất lƣợng hạ tầng tài chính, đã tạo nên những bƣớc đột phá,<br />
cải thiện cơ bản hoạt động của các định chế tài chính cũng nhƣ phƣơng thức hoạt<br />
động trên các thị trƣờng tài chính.<br />
<br />
Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế thế giới có<br />
thể đƣợc xem nhƣ một cột mốc đáng nhớ ngay trong giai đoạn đầu Việt Nam hội<br />
nhập kinh tế quốc tế. Trƣớc tác động của suy thoái kinh tế thế giới, kinh tế trong<br />
nƣớc rơi vào khó khăn, tăng trƣởng chậm, trong khi hệ thống doanh nghiệp kinh<br />
doanh thua lỗ và phá sản hàng loạt. Thị trƣờng tài chính nhanh chóng chạy sang<br />
phía bên kia của chu kỳ tăng trƣởng, chỉ số chứng khoán mất điểm trầm trọng, tín<br />
dụng ngân hàng “mắc kẹt” đầu ra, cùng với đó là những thời điểm biến động bất<br />
thƣờng trên thị trƣờng cho vay liên ngân hàng và thị trƣờng ngoại hối.<br />
<br />
Có thể thấy nguyên nhân sâu xa nằm ở sự thiếu đồng bộ của hệ thống tài<br />
chính Việt Nam nhƣ một kết quả của lịch sử hình thành và phát triển ngắn ngủi<br />
nhƣng đầy biến cố, đƣợc gia tăng trƣớc những thách thức của hội nhập. Các thị<br />
trƣờng tài chính mới phát triển trong một giai đoạn ngắn, chƣa đạt đƣợc sự cân<br />
xứng và thiếu các cơ chế để có thể cho phép các tổ chức tài chính phòng ngừa rủi<br />
ro một cách hợp lý khiến cho hệ thống tài chính thiếu ổn định và dễ bị tổn<br />
thƣơng. Kết quả của một giai đoạn phát triển trong thời kỳ chiến tranh và kinh tế<br />
tập trung bao cấp thời kỳ đầu sau giải phóng vẫn để lại những dấu ấn nhất định<br />
trong tƣ duy kinh tế cũng nhƣ sự vận hành của các hoạt động kinh tế nói chung<br />
và các hoạt động tài chính nói riêng. Hệ thống các định chế tài chính “non trẻ”<br />
với trình độ phát triển còn thấp cả về năng lực kinh doanh cũng nhƣ năng lực tài<br />
chính. Trong bối cảnh đó, các cam kết gia nhập WTO đã buộc Việt Nam phải<br />
hình thành các “luật chơi” theo các quy tắc quốc tế. Những thiếu sót của hệ thống<br />
tài chính tất yếu bộc lộ, và sự không ổn định của thị trƣờng là kết quả của một hệ<br />
<br />
<br />
167<br />
thống tài chính còn nhiều khoảng lệch giữa “ngƣời chơi” - “sân chơi” - và “luật<br />
chơi”. Sau khủng hoảng với quyết tâm chính trị cao, việc thực hiện tái cơ cấu<br />
đồng bộ trong các khu vực của nền kinh tế, tái cơ cấu hệ thống tài chính nhƣ là<br />
một trụ cột quan trọng để tài cơ cấu nền chính tế, chính vì vậy từ đó đến nay đã<br />
có những bƣớc phát triển đáng ghi nhận. Để tiếp tục có những bƣớc phát triển đột<br />
phá trong tƣơng lai, cần chú trọng để tạo ra những động lực thúc đẩy hệ thống<br />
các định chế tài chính phát triển lành mạnh và hiệu quả hơn nữa.<br />
<br />
2. Hệ thống tài chính Việt Nam hiện nay<br />
Sau gần 30 năm đổi mới hệ thống tài chính Việt Nam đến nay đã có bƣớc<br />
phát triển nhất định cả về chiều rộng lẫn chiều sâu:<br />
<br />
- Các định chế tài chính phát triển mạnh cả về số lượng và qui mô tài sản:<br />
Các định chế tài chính là tổ chức tín dụng Việt Nam, hiện đang có tổng cộng<br />
129 tổ chức tín dụng (không bao gồm các QTDND, hiện là 1.186 quỹ), chia làm 4<br />
nhóm (xem đồ thị 1): Ngân hàng thƣơng mại Nhà nƣớc và Nhà nƣớc có cổ phần chi<br />
phối, Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh và Ngân hàng nƣớc<br />
ngoài; Công ty tài chính; Ngân hàng hợp tác xã (trƣớc năm 2013 là QTDNDTW).<br />
<br />
Chiếm số lƣợng lớn nhất trong số đó là nhóm Ngân hàng liên doanh và<br />
Ngân hàng nƣớc ngoài với 57 tổ chức; tiếp đên nhóm các Công ty tài chính với<br />
27 tổ chức; nhóm các NHTM Cổ phần có 28 tổ chức; nhóm các Ngân hàng<br />
thƣơng mại Nhà nƣớc và Nhà nƣớc có cổ phần chi phối là 7 tổ chức; và có duy<br />
nhất 1 Ngân hàng Hợp tác xã.<br />
<br />
Trong số này, nhóm các ngân hàng thƣơng mại cổ phần biến động mạnh<br />
nhất, giảm từ con số 37 tổ chức vào năm 2011 về còn 34 tổ chức vào năm 2012,<br />
xuống 33 tổ chức trong năm 2013 và 2014; đến tháng 6/2018, giảm mạnh về mức<br />
28 tổ chức; nhóm NHTM Nhà nƣớc là nhóm duy nhất tăng lên về số lƣợng, từ<br />
mức 5 tổ chức trong các năm trƣớc đó lên thành 7 từ năm 2015 đến nay. Đây là<br />
kêt quả của quá trình tài cơ cấu, xử lý các TCTD yếu kém, theo đó, NHTM CP<br />
Phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu Long sáp nhập vào NHTM CP Đầu tƣ và<br />
Phát triển Việt Nam; Ngân hàng NHTM CP Xăng dầu sáp nhập vào NHTM CP<br />
Công thƣơng Việt Nam và 3 NHTM CP yếu kém (VNCB, Ocean Bank, GP<br />
Bank) đƣợc NHNN mua lại với giá 0 đồng để trở thành Ngân hàng TNHH Nhà<br />
nƣớc Một thành viên. Nhóm NHTM CP, thì NHTM CP Mekong sáp nhập vào<br />
<br />
<br />
168<br />
NHTM CP Hàng Hải, NHTM CP Phƣơng Nam sáp nhập vào NHTM CP Sài Gòn<br />
Thƣơng Tín.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Cơ cấu sở hữu, cơ cấu loại hình hoạt động của hệ thống cácTCTD đã có<br />
sự thay đổi phù hợp với cơ chế thị trƣờng và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.<br />
Một số NHTM NN đã có những bƣớc tiến nhất định trong trong kế hoạch cổ<br />
phần hóa. Ngân hàng đi đầu là Vietcombank1 đã hoàn tất đợt IPO đầu tiên vào<br />
cuối năm 2007, tiếp đến là Vietinbank2 (2008), sau đó là MHB ( tháng 7/2011)<br />
và cuối cùng là BIDV ( tháng 12/1011). Đến nay đã có 14 NHTMCP niêm yết<br />
trên thị trƣờng chứng khoán. Nhiều NHTM đã có đối tác chiến lƣợc nƣớc ngoài.<br />
Những ngân hàng này có một lợi thế cạnh tranh hơn các NHTM CP khác và các<br />
NHTM NN về kỹ năng quản lý, sản phẩm và dịch vụ, quản trị, vv… Đối tác<br />
nƣớc ngoài dƣờng nhƣ là nhân tố đã tác động tích cực nhất trong việc phát triển<br />
kỹ năng quản lý rủi ro, quản lý hệ thống thông tin, phát triển sản phẩm ngân hàng<br />
bán lẻ và dịch vụ, nguồn vốn của các NHTM.<br />
<br />
Về Quy mô hoạt động các ngân hàng Việt Nam không chỉ hoạt động<br />
trong phạm vi quốc gia mà đã đã mở rộng ra ngoài phạm vi quốc gia, NHCT,<br />
NHDT&PT đã mở chi nhánh ra nƣớc ngoài( Đức, Campuchia, Lào, Myanma.... ).<br />
Bên cạnh đó, năng lực tài chính của toàn hệ thống không ngừng đƣợc củng cố và<br />
tăng cƣờng.<br />
1<br />
Trong kế hoạch cổ phần hóa của mình, Vietcombank đƣợc phép bán cho các nhà đầu tƣ chiến<br />
lƣợc 20% số vốn.<br />
2<br />
Ngày 11/3/2011, Vietinbank đã thông báo hoàn tất việc chào bán cổ phần cho công ty tài chính<br />
quốc (IFC) với sở hữu của đối tác này là 10%. Qua đợt phát hành này, Vietinbank đã thu về<br />
thặng dƣ vốn là 1.854 tỷ đồng, tăng vốn điều lệ lên 16.858 tỷ đồng.<br />
<br />
<br />
169<br />
Tổng tài sản của các TCTD theo thống kê của NHNN, đến cuối năm 2017,<br />
là 10.001.790 tỷ đồng tăng 17,62% so với cuối năm 2016; đến 31/5/2018 tổng tài<br />
sản đạt 10.329.259 tỷ đồng tăng gấp đôi so với cuối năm 2013 (576 triệu tỷ<br />
đồng). Tốc độ tăng mạnh nhất về tổng tài sản trong vài năm gần đây nổi lên là<br />
khối công ty tài chính (năm 2016 tăng 30%, năm 2017 tăng 24%), tiếp đến là<br />
nhóm ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc, NHTMCP).<br />
<br />
Bên cạnh đó, các định chế bảo hiểm phát triển đáng kể, nều nhƣ ngày đầu<br />
đổi mới Việt Nam chỉ có một vài công ty bảo hiểm, đến nay số lƣợng công ty bảo<br />
hiểm lên tới 62 công ty bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ, tuy nhiên<br />
phân khúc thị trƣờng bảo hiểm không đều, theo báo cáo của Cục quản lý giám sát<br />
bảo hiểm, Bộ Tài chính cho thấy, gần 86% thị phần doanh thu phí bảo hiểm nhân<br />
thọ gốc nằm trong tay 5 ông lớn bao gồm: Prudential, Bảo Việt nhân thọ,<br />
Manulife, AIA và Dai-ichi. Ở mảng bảo hiểm phi nhân thọ, gần 60% thị phần<br />
doanh thu phí bảo hiểm gốc thuộc về Bảo hiểm Bảo Việt, Bảo hiểm PVI, Bảo<br />
Minh, PTI và PJICO. Tổng tài sản của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) năm<br />
2017 đạt khoảng 302.935 tỷ đồng, tăng 23,44% so với năm 2016; các DNBH đã<br />
đầu tƣ trở lại nền kinh tế ƣớc đạt 247.801 tỷ đồng, tăng 26,74%; tổng dự phòng<br />
nghiệp vụ bảo hiểm vào khoảng 190.930 tỷ đồng, tăng 24,61%.<br />
<br />
Các công ty chứng khoán, quỹ đầu tƣ, công ty quản lý quỹ cũng có sự<br />
phát triển mạnh trong 10 năm trở lại đây. Tình đến năm 2017 công ty chứng<br />
khoán còn 74, giảm nhiều so với năm 2012 là 105 công ty, do quá trình chấn<br />
chỉnh củng cố, cơ cấu lại hoạt động, một số công ty hợp nhất, một số công ty giải<br />
thể do không đủ điều kiện hoạt động, một số công ty vi phạm phải đình chỉ…<br />
Tuy nhiên, quy mô và chất lƣợng hoạt động của các công ty chứng khoán ngày<br />
càng đƣợc củng cố. Tổng tài sản hệ thống CTCK năm 2017 tăng trƣởng 27% so<br />
với cuối năm 2016 (năm 2016 tăng 9,2%). Quy mô vốn chủ sở hữu tăng 16,9%<br />
so với cuối năm 2016 (năm 2016 tăng 0,8%). Các công ty quản lý quỹ số lƣợng<br />
cũng có nhiều biến động tăng, giảm, song quy mô hoạt động ngày càng tăng.<br />
Theo số liệu của Ủy ban Chứng khoán Nhà nƣớc, tính đến hết năm 2017, tổng tài<br />
sản quản lý của các công ty quản lý quỹ đạt hơn 223.000 tỷ đồng, tăng khoảng<br />
46% so với năm 2016, với 386 hợp đồng quản lý danh mục đầu tƣ cho khách<br />
hàng, tổng giá trị các danh mục ủy thác đầu tƣ là hơn 208.000 tỷ đồng.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
170<br />
Có thể nói các định chế tài chính của Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm<br />
từ khi đổi mới đến nay. Sau hơn 5 năm tài cơ cấu theo chỉ đạo của Chính phủ,<br />
đến nay các định chế tài chính không những phát triển về quy mô, năng lực tài<br />
chính mà còn nâng cao đƣợc năng lực quản trị, điều hành.<br />
<br />
- Trong hệ thống tài chính, bên cạnh sự phát triển của các định chế tài<br />
chính thì thị trƣờng tài chính cũng có sự phát triển nhất định, ngày càng đa dạng<br />
và phức tạp hơn theo hƣớng tự do hóa và hội nhập gắn với các yếu tố thị trƣờng<br />
một cách vừa khách quan vừa có yếu tố chủ quan từ các cơ quan quản lý, mức độ<br />
cạnh tranh trong thị trƣờng ngày càng gia tăng:<br />
<br />
+ Trƣớc hết là độ sâu của thị trƣờng tài chính cũng có mức phát triển khá.<br />
Điều này đƣợc phản ảnh ở các chỉ số sau (xem bảng 1): tỷ lệ huy động vốn từ<br />
tiền gửi các các tổ chức và dân cƣ qua hệ thống các tổ chức tín dụng trên GDP đã<br />
tăng từ mức 15% năm 1992 lên 95,6% năm 2009 và 136% năm 2017, tỷ lệ dƣ nợ<br />
tín dụng /GDP tăng từ 13,7% năm 1992 lên 96,2 % năm 2009 và 145% năm<br />
2017, chỉ số vốn hóa thị trƣờng đã tăng mạnh từ năm 2006 - 2008 (từ mức<br />
0,52%/GDP năm 2004 lên đến 43%/GDP năm 2007 và 19%/GDP năm 2008),<br />
đến nay đạt gần xấp xỉ 80%/GDP.<br />
<br />
Bảng 1: Các chỉ số phản ánh độ sâu thị trƣờng tài chính 2009-6/2018<br />
Đơn vị: %<br />
Chỉ số 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 T6/2018*<br />
<br />
TG3/GDP 95,6 105,4 92,5 97,3 105,6 113,1 130,7 142,5 136,32 138,47<br />
<br />
TD4/GDP 96,2 101,8 94,7 95,2 97,0 100,8 123,3 135,4 145,15 144,43<br />
<br />
Tỷ lệ vốn<br />
37,6 36,5 21,0 30,0 26,5 32,2 34,5 42,0 70,0 77,7<br />
hóa/GDP<br />
<br />
Nguồn số liệu: IMF, tổng cục thống kê và UBCKNN; * Là số dự kiến<br />
<br />
+ Cơ chế hoạt động của thị trƣờng có sự thay đổi đáng ghi nhận, thể hiện<br />
rõ qua các khía cạnh sau:<br />
<br />
(i) Các công cụ và nghiệp vụ giao dịch trên thị trƣờng tài chính ngày càng<br />
đa dạng, ngoài những sản phẩm giao dịch truyền thống trong huy động vốn dƣới<br />
<br />
3<br />
Tiền gửi huy động của các TCTD<br />
4<br />
Dƣ nợ cho vay của các TCTD<br />
<br />
<br />
171<br />
hình thức tiết kiệm, kỳ phiếu…, mua bán các giấy tờ có giá dƣới hình thức giao<br />
ngay nhƣ trƣớc đây, thì nay các NHTM đã mở rộng nhiều hình thức huy động<br />
khác nhƣ chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, tiền gửi bảo đảm bằng USD, bằng vàng,<br />
hình thức tiết kiệm linh hoạt rút gốc…, thực hiện giao dịch kỳ hạn và cam kết<br />
hoàn trả ngày càng tăng, nhiều nghiệp vụ phái sinh khác cũng đã bắt đầu suất<br />
hiện, nhƣ hoán đổi ngoại tệ, hoán đổi lãi suất, thực hiện nghiệp vụ tiền gửi kết<br />
hợp quyền chọn tiền tệ, thực hiện quyền chọn ngoại tệ, hoán đổi lãi suất bắt đầu<br />
thực hiện trong tƣơng lai….; Thị trƣờng chứng khoán phái sinh đã đƣợc hình<br />
thành và đang trên đà phát triển, các sản phẩm bảo hiểm cũng gia tăng;<br />
<br />
(ii) Giá cả hàng hóa trên thị trƣờng tài chính về cơ bản đƣợc hình thành<br />
trên cơ sở quan hệ cung, cầu, đã giảm đáng kể sự phân bổ nguồn vốn méo mó do<br />
giảm dần sự can thiệp sự can thiệp của Chính phủ vào các hoạt động cho vay của<br />
các NHTM, và vai trò điều tiết thị trƣờng tiền tệ của NHNN đã chuyển mạnh từ<br />
các công cụ trực tiếp sang các công cụ tiền tệ gián tiếp đã tạo những nền tảng cơ<br />
bản cho lãi suất trên thị trƣờng đƣợc tự do hóa và hình thành trên qua hệ cung<br />
cầu vốn, và quan trọng nhất là NHNN đã chủ động trong dẫn dắt thị trƣờng.<br />
<br />
(iii) Đối với thị trƣờng ngoại hối, cơ chế hoạt động cho thị trƣờng này đã<br />
đƣợc nời lỏng từng bƣớc, các qui định giao dịch vãng lai và giao dịch vốn tạo<br />
điều kiện thuận lợi để tự do hóa thị trƣờng tài chính theo các cam kết WTO, cơ<br />
chế điều hành tỷ giá đã có sự thay đổi mạnh mẽ, theo hƣớng tự do hóa từng bƣớc<br />
tỷ giá, tháng 12/2006 các giao dịch vãng lai đã đƣợc tự do hóa hoàn toàn, các<br />
giao dịch vốn cũng đã đƣợc lới lỏng, các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc phép<br />
chuyển lợi nhuận về nƣớc, các khoản đầu tƣ gián tiếp đƣợc phép rút ngay không<br />
phải chờ 1 năm nhƣ trƣớc…);<br />
<br />
(iv) Mức độ cạnh tranh của thị trƣờng tài chính ngày càng gia tăng: Bên<br />
cạnh một số chỉ số tài chính thể hiện tốc độ phát triển, tính cạnh tranh và độ sâu<br />
tài chính của hệ thống ngân hàng nhƣ nêu trên, thì sự cạnh tranh để chiếm lĩnh thị<br />
trƣờng của các NHTM, các công ty chứng khoán đƣợc thể hiện ở việc các<br />
NHTM đã mở thêm nhiều các chi nhánh, phòng giao dich, điểm giao dịch, số<br />
lƣợng các công ty chứng khoán và quĩ đầu tƣ cũng đƣợc thành lập rất nhiều.<br />
Ngoài ra, các NHTM tiếp tục đẩy nhanh việc ứng dụng công nghê ngân hàng<br />
trong hoạt động, nhƣ ứng dụng dịch vụ điện tử : Internet banking, Mobile<br />
Banking, ví điện tử, thanh toán bằng QR code, cá nhân hóa giao diện, ứng dụng<br />
<br />
<br />
172<br />
công nghệ sinh trắc học (vân tay) để nâng cao độ bảo mật…. , việc ứng dụng<br />
công nghệ 4.0 và kết hợp với công ty Fintech đang là xu hƣớng của các NHTM<br />
hiện nay. Các định chế tài chính, không những cạnh canh về sản phẩm dịch vụ,<br />
mạng lƣới và kênh phân phối mà còn mở rộng các kênh truyền thông, mạng xã<br />
hội để giới thiệu các sản phẩm dịch vụ của mình, đồng thời tiếp nhận những ý<br />
kiến đóng góp của khách hàng để hoàn thiện việc phục vụ hơn;<br />
<br />
+ Điểm đáng lƣu ý ở đây là khung khổ pháp lý cho hoạt động của thị<br />
trƣờng ngày các hoàn thiện, Luật Tổ chức tín dụng 2010 đã đã đƣợc chỉnh sửa,<br />
bổ sung; nhiều các qui định mở ra cho hoạt động của các định chế tài chính vào<br />
các phân khúc thị trƣờng còn bỏ ngỏ, nhƣ thông tƣ 43 về cho vay tiêu dùng với<br />
các công ty tài chính, các qui định về hoạt động của các tổ chức tài vi mô. Khung<br />
pháp lý cho hoạt động của thị trƣờng chứng khoán cũng không ngừng đƣợc chỉnh<br />
sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, và tăng cƣờng sự giám sát bảo đảm<br />
sự phát triển ổn định, bền vững của các định chế tài chính; hệ thông tin của thị<br />
trƣờng không ngừng đƣợc củng cố, đảm bảo hạn chế thấp nhất sự mất cân đối<br />
thông tin thị trƣờng, tăng tính minh bạch của thị trƣờng. Đây là một trong những<br />
nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thị trƣờng tài chính.<br />
<br />
Có thể nói, hệ thống tài chính Việt Nam đã có bƣớc phát triển, Báo cáo<br />
mới nhất về tổng quan thị trƣờng tài chính Việt Nam năm 2017 của NFSC cho<br />
thấy mức đủ vốn bình quân của hệ thống tài chính theo báo cáo cao hơn mức quy<br />
định tối thiểu. Khả năng sinh lời của hệ thống tài chính tăng lên đáng kể. Tỷ số<br />
lợi nhuận trên tài sản (ROA) bình quân đạt 0,73%, trong khi năm 2016 chỉ là<br />
0,62%; tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) bình quân đạt 10,1% trong khi<br />
năm 2016 là 7,79%. Một sự thay đổi đáng chú ý trong hệ thống tài chính Việt<br />
Nam, đó là hệ thống tài chính đã cung ứng tốt vốn cho nền kinh tế. Cuối năm<br />
2017, số vốn cung ứng cho nền kinh tế từ hệ thống tài chính ƣớc khoảng 200%<br />
GDP, tăng 28,6% so với cuối năm 2016. Trong đó, vốn từ hệ thống TCTD tăng<br />
18,1% và vốn từ thị trƣờng vốn tăng 66,4% so với cuối năm 2016. Cơ cấu thị<br />
trƣờng tài chính có sự chuyển biến tích cực theo hƣớng giảm bớt sự phụ thuộc<br />
vào hệ thống TCTD, việc huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế đƣợc<br />
tăng cƣờng. Tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế từ thị trƣờng vốn tăng từ<br />
21,6% năm 2012 lên 35,4% năm 2017. Trong cùng giai đoạn, tỷ trọng cung ứng<br />
vốn cho nền kinh tế của hệ thống TCTD đã giảm từ 78,4% xuống còn 64,6%.<br />
<br />
<br />
173<br />
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đó, hệ thống tài chính Việt Nam đã<br />
bộc lộ một số điểm yếu nhất định:<br />
<br />
- Tính tới thời điểm hiện tại, quy mô hệ thống tài chính Việt Nam mặc dù<br />
có sự phát triển đáng ghi nhận, song vẫn còn ở mức khiêm tốn so với các nƣớc<br />
trong khu vực, tổng tài sản hệ thống tài chính gần 200% GDP, thấp hơn nhiều so<br />
với số bình quân của nhóm 5 quốc gia hàng đầu ASEAN (318% GDP).<br />
<br />
- Khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế đƣợc đánh giá đã có sự cải<br />
thiện, song còn hạn chế: Nguồn vốn ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng cao so với<br />
nguồn vốn trung và dài hạn nên hạn chế nguồn lực về vốn để đầu tƣ phát triển<br />
kinh tế. Bên cạnh đó, hệ thống luân chuyển dòng vốn cũng chƣa hiệu quả, thể<br />
hiện qua sự bất hợp lý trong việc phân bổ nguồn lực giữa các vùng, ngành kinh<br />
tế, các loại hình doanh nghiệp. Dòng vốn chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp<br />
lớn, các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn độ thị, thành phố lớn. Mặc dù,<br />
trong những năm gần đây, Chính phủ, các bộ ngành, nhất là NHNN đã ban hành<br />
nhiều cơ chế chính sách để thúc đẩy nguồn vốn đầu tƣ cho các doanh nghiệp nhỏ<br />
và vừa, đầu tƣ vào ngành nông nghiệp, vùng sâu, vùng xa, và kết quả là tốc độ<br />
tăng trƣởng tín dụng trong các lĩnh vực này đƣợc cải thiện. Đến 31/12/2017, dƣ<br />
nợ tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đạt 1.310.832 tỷ đồng, tăng<br />
25,5% so với cuối năm 2016 (cao hơn so với mức tăng tín dụng chung 18,17%),<br />
chiếm tỷ trọng khoảng 20% tổng dƣ nợ tín dụng đối với nền kinh tế. Trong đó,<br />
dƣ nợ đối với cá nhân, hộ gia đình và hộ kinh doanh chiếm 62,97%, dƣ nợ đối<br />
với doanh nghiệp chiếm 36,06%; dƣ nợ không có tài sản đảm bảo chiếm gần<br />
17% tổng dƣ nợ nông nghiệp, nông thôn. Tốc độ tăng trƣởng về dƣ nợ tín dụng<br />
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã từng bƣớc đƣợc cải thiện, từ mức<br />
tăng 2,44% năm 2013 đã đạt tốc độ tăng trƣởng là 6,1% năm 2014; 7,56% năm<br />
2015 và 15% năm 2016. Tính đến tháng 12/2017, dƣ nợ tín dụng đối với doanh<br />
nghiệp nhỏ và vừa đạt 1.360.963 tỷ đồng, tăng 13,21% so với cuối năm 2016,<br />
chiếm trên 20,9% tổng dƣ nợ tín dụng toàn nền kinh tế. Song với tỷ lệ đóng góp<br />
40% vào GDP của doanh nghiệp doanh nghiệp tƣ nhân (trong đó 97% là doanh<br />
nghiệp nhỏ và vừa) thì mức dƣ nợ này còn chƣa tƣơng xứng.<br />
<br />
- Tốc độ phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam là tƣơng đối nhanh, tuy<br />
nhiên, sự tăng trƣởng về số lƣợng không gắn liền với một cấu trúc hợp lý và chất<br />
lƣợng tăng trƣởng. Điều này đƣợc thể hiện ở việc: (i) cung ứng vốn từ khu vực<br />
<br />
<br />
174<br />
ngân hàng chiếm tới 85% trong giai đoạn 2012-2016. Năm 2017, tổng tài sản của<br />
các tổ chức tín dụng (TCTD) chiếm 96,2% tổng tài sản toàn hệ thống tài chính.<br />
<br />
Trong đó, các doanh nghiệp bảo hiểm chiếm 2,8%, các công ty chứng<br />
khoán và công ty quản lý quỹ chiếm 1%. Con số này cho thấy sự phụ thuộc lớn<br />
của hệ thống tài chính Việt Nam vào hệ thống các ngân hàng thƣơng mại<br />
(NHTM); (ii) ở mức độ tiếp cận dịch vụ ngân hàng của Việt Nam còn thấp hơn<br />
so với nhóm các nƣớc đứng đầu khu vực và thua xa các nƣớc phát triển trên thế<br />
giới, một số lƣợng lớn dân cƣ chƣa đƣợc phục vụ, cũng nhƣ một lƣợng lớn tiền<br />
gửi tiết kiệm chƣa đƣợc đƣa vào hệ thống ngân hàng do số lƣợng ngân hàng phân<br />
bổ không dều, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn.<br />
<br />
- Số lƣợng ngân hàng là nhiều, nhƣng quy mô của hầu hết các NHTM<br />
Việt Nam là nhỏ hơn so với các ngân hàng có quy mô trung bình của khu vực.<br />
Hiệu quả hoạt động chƣa cao, chỉ số về hiệu quả hoạt động kinh doanh và khả<br />
năng sinh lời của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện là thấp hơn so với mức bình<br />
quân của hệ thống ngân hàng các quốc gia dẫn đầu của khu vực. Một bộ phận<br />
không nhỏ tổ chức tín dụng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro tài chính kém lành mạnh và<br />
dễ bị tổn thƣơng khi môi trƣờng kinh doanh thay đổi. Điều này dẫn tới năng lực<br />
cạnh tranh của các TCTD Việt Nam còn rất hạn chế. Mức độ an toàn của hệ<br />
thống ngân hàng Việt Nam còn thấp so với hệ thống ngân hàng trong khu vực,<br />
xét trên 2 chỉ số: Tỷ lệ an toàn vốn thấp; Tỷ lệ nợ xấu khoảng 3% tổng dƣ nợ vào<br />
cuối năm 2017, mặc dù không chênh lệch nhiều so với các nƣớc trong khu vực<br />
và tƣơng đƣơng Ấn Độ và Trung Quốc, nhƣng đƣợc tính theo chuẩn mực kế toán<br />
Việt Nam (VAS) ít nghiêm ngặt hơn so với các tiêu chuẩn quốc tế (IFRS) nên<br />
khó có thể so sánh.<br />
<br />
- Thị trƣờng vốn, tuy đã phát triển nhƣng chƣa thực sự là kênh cung ứng<br />
vốn trung dài hạn cho nền kinh tế hiện giá trị vốn hóa thị trƣờng chứng khoán đạt<br />
mức hơn 183 tỷ USD, chiếm khoảng 82% GDP, song nguồn vốn đi vào khu vực<br />
kinh tế thực thông qua việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) chƣa<br />
lớn. Thị trƣờng trái phiếu mặc dù đã phát triển khá nhanh so với các nƣớc châu<br />
Á, nhƣng chƣa thực sự cân bằng do trái phiếu chính phủ chi phối, thị trƣờng trái<br />
phiếu doanh nghiệp còn chƣa phát triển, làm hạn chế khả năng huy động vốn<br />
trung - dài hạn cho doanh nghiệp.<br />
<br />
<br />
<br />
175<br />
3. Vấn đề đặt ra thay cho lời kết<br />
Vấn đề đặt ra cho phát triển hệ thống tài chính Việt Nam trong những năm<br />
tiếp theo, đó là phải phát triển đảm bảo sự phát triển hài hòa, cân đối hợp lý,<br />
giảm gánh nặng cung ứng vốn từ các tổ chức tín dụng, theo đó cần phát triển thị<br />
trƣờng tài chính có cơ sở hạ tầng hiện đại, cơ chế vận hành theo thông lệ quốc tế.<br />
Đẩy mạnh sự phát triển thị trƣờng vốn, thị trƣờng trái phiếu doanh nghiệp nghiệp<br />
để tăng nguồn vốn dài hạn cho phát triển kinh tế; tiếp tục đẩy nhanh quá trình tái<br />
cơ cấu các định chế tài chính, xây dựng các định chế tài chính đủ mạnh về năng<br />
lực quản trị điều hành, về quy mô vốn ngang tầm các nƣớc trong khu vực, đặc<br />
biệt là đẩy việc ứng dụng công nghệ 4.0 trong hoạt động của các định chế tài<br />
chính; tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của các định chế tài chính<br />
và thị trƣờng tài chính, nhất là khung pháp lý đối với việc ứng dụng công nghệ<br />
4.0 của các định chế tài chính; bên cạnh đó, cần đẩy nhanh việc thực hiện chƣơng<br />
trình tài chính toàn diện để đảm bảo sự phân bổ nguồn vốn hợp lý cho mọi khu<br />
vực, thành phần, ngành nghề trong nền kinh tế.<br />
<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Sách Hệ thống tài chính Việt Nam Hội nhập và phát triển, Hà Nội-2014, Nhà<br />
xuất bản Đại học quốc gia thành phố HCM<br />
<br />
2. Quy mô hệ thống tài chính Việt Nam vẫn ở mức kiêm tốn, báo mạng công lý<br />
22/8/2018<br />
<br />
3. Website NHNN, Bộ tài chính, tạp chí đầu tƣ chứng khoán<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
176<br />