intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Chuyên đề - Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học

Chia sẻ: Hà Dím | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:65

304
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Chuyên đề - Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học nhằm đưa ra phương pháp giúp cho học sinh Tiểu học có thể đọc đúng, đọc nhanh, lưu loát, trôi chảy, đọc diễn cảm và thông hiểu được những điều mình vừa đọc, biết cách tóm tắt nội dung của đoạn đọc. Mời các bạn tham khảo tài liệu để hiểu rõ hơn về phương pháp này.

 

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Chuyên đề - Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học

  1. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net PHẦN I : MỞ ĐẦU I.Nhiệm vụ của dạy học tập đọc ở tiểu học 1. Đọc là gì?  Để  xác định được nhiệm vụ  của dạy đọc cần làm rõ “Đọc là gì?”. Trong   thực tế  dạy đọc, người ta thường hay phiến diện và cực đoan, không hiểu khái   niệm “đọc” một cách đấy đủ. Nhiều khi người ta thường nói đến đọc như nói đến  việc sử dụng bộ mã chữ  ­ âm, cho rằng đọc là nhìn chữ  phát ra thành lời, nghĩa là   đã đọc thì phải thành tiếng. Vì vậy họ  đánh giá một giờ  dạy chỉ dựa vào một căn   cứ duy nhất : đếm xem có bao nhiêu em được đứng dậy đọc. Ngược lại, có người  lại quan niệm đọc chỉ là để hiểu những nghĩa lý những gì được đọc, tức là tìm hiểu  bài. Vì vậy, thầy ­ trò sa vào hỏi đáp về văn bản, sa vào bình giá mà không chịu đọc  chính văn bản đó. Có nhiều định nghĩa về  đọc và mỗi định nghĩa thường nhấn mạnh những   khía cạnh khác nhau của đọc. Trong cuốn “Sổ tay thuật ngữ phương pháp dạy học   tiếng Nga” (1988), Viện sỹ  M.R.Lơvôp đã định nghĩa : “Đọc là một dạng hoạt  động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và   thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ  hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm)”.   Đây là một định nghĩa rất phù hợp với dạy học Tập đọc ở tiểu học. Định nghĩa này   thể hiện một quan điểm đầy đủ về  đọc, xem đó là một quá trình giải mã bậc hai :  chữ  viết → âm thanh và chữ  viết (âm thanh) →  nghĩa. Như  vậy, đọc không chỉ  là  “đánh vần”, phát âm thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ  viết, cũng không chỉ  là   quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Đó chính là một  sự tổng hợp của cả hai quá trình này. 2. Ý nghĩa của dạy học Tập đọc ở tiểu học Dạy đọc có ý nghĩa rất to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản   đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên, trẻ  em phải học đọc, sau đó các em  1 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  2. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net phải đọc để  học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ  để  dung trong   giao tiếp và học tập. Đọc là một công cụ để học tập các môn học. Đọc tạo ra hứng   thú và động cơ học tập. Đọc tạo điều kiện để học sinh có khă năng tự học và tinh   thần học tập cả đời. Nó là khả năng không thể thiếu được của con người thời đại  văn minh. Chính vì vậy, trường tiểu học có nhiệm vụ  dạy đọc cho học sinh một  cách có kế  hoạch và có hệ  thống. Tập đọc với tư  cách là một phân môn của môn  Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu này – đó là hình thành và phát  triển năng lực đọc cho học sinh. 3. Nhiệm vụ của dạy học Tập đọc ở tiểu học Phân môn Học vần (thực hiện nhiệm vụ dạy học chữ) cũng thực hiện nhiệm   vụ  dạy đọc nhưng mới dạy đọc ở  mức sơ bộ nhằm giúp học sinh sử  dụng bộ  mã  chữ ­ âm. Hết lớp 1, học sinh có nhiệm vụ phải đọc trơn tiếng (âm tiết). Việc đọc   trơn các từ, ngữ  đoạn, câu chưa trở  thành yêu cầu bắt buộc. Việc thông hiểu văn  bản chỉ đặt ra ở mức độ thấp và chưa có hình thức chuyển thẳng từ chữ sang nghĩa  (đọc thầm). Như  vậy, Tập đọc với tư  cách là một phân môn Tiếng Việt tiếp tục   những thành tựu dạy học mà Học vần đạt được, năng lên đầy đủ, hoàn chỉnh hơn. Tính đa nghĩa của đọc kéo theo tính đa nghĩa của “biết đọc”. “Biết đọc” được  hiểu theo nhiều mức độ. Một em bé mới đi học, biết đánh vần “cờ ­ o ­ co”, ngập   ngừng đọc từng tiếng một, thế  cũng gọi là đã biết đọc. Đọc, thâu tóm được tư  tưởng của một cuốn sách trong vài ba trang cũng là biết đọc. Chọn trong biển sách  báo của nhân loại những gì mình cần, trong một ngày nắm được tinh thần của hàng  chục cuốn sách cũng gọi là biết đọc. Những năng lực này không phải tự  nhiên mà  có. Không thể  chờ  đợi gặt hái những gì mà ta không gieo trồng. Nhà trường phải  từng bước hình thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. 3.1. Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình  thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ  bốn kỹ  năng bộ  phận cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của  đọc : đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu  2 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  3. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay  còn gọi là đọc hiểu) và đọc hay (mà ở mức độ cao hơn là đọc diễn cảm). Cần phải  hiểu kỹ năng đọc có nhiều mức độ, nhiều tầng bậc khác nhau. Đầu tiên đọc là giải   mã chữ  ­ âm một cách sơ  bộ. Tiếp theo, đọc là phải hiểu nghĩa của từ, tìm được   các từ  chìa khóa, câu “chìa khóa” (câu trọng yếu, câu chốt) trong bài, biết tóm tắt  nội dung của đoạn ; với những bài văn, biết phát hiện ra những yếu tố  “văn” và   đánh giá được giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung. Như vậy, lúc này biết   đọc đồng nghĩa với việc có kỹ  năng làm việc với văn bản, chiếm lĩnh được văn  bản (bài khóa) ở các tầng bậc khác nhau : nội dung các sự  kiện, cấu trúc, chủ  đề,   các phương tiện biểu đạt. Bốn kỹ  năng của đọc được hình thành trong hai hình thức đọc :  đọc thành  tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn   thiện một trong những kỹ  năng này sẽ  có tác động tích cực đến những kỹ  năng  khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền đề  của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội   dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể  đọc  nhanh và đọc diễn cảm được. Cũng như khó mà nói ra được con gà đẻ ra quả trứng  hay quả  trứng nở ra con gà, nhiều khi, khó mà nói được rạch ròi kỹ  năng nào làm  cơ  sở  cho kỹ  năng nào, nhờ  đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ  hiểu đúng mà   đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc, không thể  xem nhẹ  kỹ năng nào cũng như  không thể tách rời chúng. 3.2. Nhiệm vụ  thứ  hai  của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành  phương pháp và thói quen làm việc với sách cho học sinh. Làm cho sách vở là một  sự  tôn sùng ngự  trị  trong nhà trường, đó là một trong những điều kiện để  trường   học thực sự  trở  thành trung tâm văn hóa. Nói cách khác, thông qua việc dạy học  phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có ích lợi cho   các em trong cả  cuộc đời. phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con  đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. 3 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  4. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net 3.3. Vì việc học không thể  tách rời khỏi những nội dung được đọc nên bên cạnh   những nhiệm vụ  rèn kỹ  năng đọc, giáo dục lòng yêu sách, phân môn Tập đọc còn  có nhiệm vụ  làm giàu kiến thức về  ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho  học sinh. Đọc một cách có ý thức sẽ tác động tích cực tới ngôn ngữ và tư duy của   người đọc. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng  yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic cũng như biết  tư  duy có hình ảnh… Dạy đọc không chỉ  giáo dục tư  tưởng, đạo đức mà còn giáo  dục tính cách , thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh. Như  vậy, dạy đọc có một ý nghĩa to lớn vì nó có cả  các nhiệm vụ  giáo  dưỡng, giáo dục và phát triển. II.Các cơ sở khoa học để tổ chức dạy học tập đọc ở tiểu học Phương pháp dạy học Tập đọc phải dựa trên những cơ sở khoa học. Nó phải  dựa vào những kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học, văn học, sư phạm học, tâm  lý ngữ  học để  xây dựng, xác lập nội dung và phương pháp dạy học. Bốn phẩm   chất của đọc và cách thức tạo ra chúng không tách rời các cơ  sở  khoa học này.  Thuộc ngôn ngữ  học là vấn đề  về  chính âm, chữ  viết, ngữ  điệu (thuộc ngữ  âm   học) ; vấn đề nghĩa của từ, câu, đoạn, bài (thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa học) ; vấn   đề  dấu câu, các kiểu câu… (thuộc ngữ  pháp học) ; vấn đề  lý thuyết giao tiếp và   tiếp nhận văn bản (thuộc dụng học). Các cơ sở văn học sẽ giúp cho việc đọc hiểu  văn bản văn chương. Những hiểu biết về lý thuyết dạy học hiện đại và cơ chế của  đọc sẽ giúp chúng ta tổ chức dạy học Tập đọc một cách có hiệu quả. Vai trò quyết định chất lượng dạy học chính là  ở  giáo viên. Nguyên nhân  quan trọng nhất làm cho chất lượng dạy Tập đọc chưa tốt cũng chính là ở  những   hạn chế của giáo viên. Nhìn chung, hiện nay giáo viên của chúng ta vẫn còn thiếu  hụt các kỹ  năng đọc, vì vậy không làm chủ  được các nội dung dạy học Tập đọc.  Nhiều giáo viên đọc không đúng chính âm, đọc không hay, hiểu không đúng những   điều được đọc từ cấp độ từ đến câu, đoạn và cả nội dung, đích thông báo của toàn  4 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  5. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net văn bản. Nhiều giáo viên cảm thụ văn học còn yếu. Giáo viên cũng bị thiếu hụt các  kỹ  năng dạy học Tập đọc, không làm chủ  được các phương pháp, thủ  pháp dạy  học Tập đọc ở tiểu học. Nhiều giáo viên không biết chữa các lỗi phát âm cho học   sinh, không có biện pháp luyện cho học sinh đọc to, đọc nhanh, đọc diễn cảm, cũng  như không biết một cách nào khác để tổ chức hoạt động “chiếm lĩnh” nội dung văn   bản  được  đọc ngoài cách nói ra những  điều mình hiểu biết, cảm nhận về  tác   phẩm. Sau đây, chúng ta đi vào nghiên cứu các cơ  sở  cũng như  những căn cứ  của  dạy học đọc, xác định những kiến thức và kỹ  năng người giáo viên cần có để  tổ  chức dạy học đọc ở tiểu học. 1.Cơ chế của đọc Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ quá trình đọc đã diễn  ra như  thế  nào và bản chất của kỹ  năng đọc là gì. Cơ  chế  của đọc là cơ  sở  của   việc dạy đọc vì nó sẽ giúp chúng ta xác định mục đích, nội dung của quá trình đọc,   cũng như xác định mục đích, nội dung của quá trình dạy học đọc. Đọc là biến hình thức chữ  viết của văn bản thành hình thức âm thanh để  người đọc, người nghe hiểu được những điều mà tác giả nói qua chữ viết. Đọc là hoạt động trí tuệ  phức tạp mà cơ  sở  là việc tiếp nhận thông tin bằng chữ  viết dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác. Chúng ta đi vào xem xét đặc điểm của  quá trình này. Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau,   là việc sử  dụng bộ  mã gồm hai phương diện. Thứ  nhất, đó là quá trình vận động  của mắt, sử dụng bộ mã chữ ­ âm để phát ra một cách trung thành những dòng văn  tự ghi lại lời nói âm thanh. Quá trình này gọi là quá trình  đọc thành tiếng. Thứ hai,  đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm, sử dụng  bộ mã chữ ­ nghĩa, tức là mối  lien hệ giứa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và   hiểu được nội dung những gì được đọc. Quá trình này gọi là quá trình đọc hiểu. 5 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  6. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net Mục đích của đọc thành tiếng là chuyển đổi chính xác và ngày càng nhanh   các ký hiệu văn tự  thành các ký hiệu âm thanh. Vì vậy, chất lượng của đọc thành  tiếng trước hết được đo bằng hai phẩm chất :  đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi  chảy). Đó cũng chính là hai kỹ năng đầu tiên của đọc. Khi đọc hiểu, mục đích của   người đọc là làm rõ nghĩa các ký tự, làm rõ nội dung và đích thông báo của văn bản.   Lúc này quá trình đọc không chỉ là sự vân động của cơ quan thị giác và cơ quan phát  âm mà còn là sự vận động của trí tuệ. Vì vậy, đọc có ý thức là một yêu cầu quan   trọng của đọc, trở thành một kỹ năng của đọc. Ở đây ta gọi là kỹ năng đọc hiểu. Giao tiếp có hai bình diện : tiếp nhận và sản sinh. Đọc hiểu là tiếp nhận, đọc  cho mình. Đọc thành tiếng khác đọc hiểu  ở  chỗ  nó không chỉ  là hoạt động tiếp  nhận nhằm cho mình mà còn là hoạt động nhằm làm cho người khác cũng tiếp  nhận được văn bản giống mình. Vì vậy, khi đọc thành tiếng, người đọc đã tham gia  vào quá trình tái sinh văn bản. Lúc này anh ta còn có nhiệm vụ truyền cảm xúc của  văn bản mà mình đã tiếp nhận được đến người nghe. Chính vì vậy, diễn cảm (có  người gọi là truyền cảm) là một phẩm chất cần có của đọc thành tiếng và trở  thành một yêu cầu của kỹ năng đọc. Như  vậy, đọc bao gồm những yếu tố  như  tiếp nhận bằng mắt, hoạt động   của các cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc.   Càng ngày những yếu tố này càng gần với nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn.  Nhiệm vụ  cuối cùng của sự  phát triển kỹ  năng đọc là đạt đến sự  tổng hợp giữa   những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân biệt người mới biết đọc  với người đọc thành thạo. Càng có khả  năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu thì  việc đọc càng hoàn thiện, chính xác và biểu cảm bấy nhiêu. Dễ  dàng nhận thấy rằng thuật ngữ “đọc” được sử  dụng trong nhiều nghĩa :  theo nghĩa hẹp, việc hình thành kỹ  năng đọc trùng với nắm kỹ  thuật đọc (tức là   việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh) ; theo nghĩa rộng, đọc được  hiểu là kỹ thuật đọc cộng với sự thông hiểu điều được đọc (không chỉ  hiểu nghĩa  6 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  7. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net của những từ  riêng lẻ  mà cả  câu, cả  bài). Ý nghĩa hai mặt của thuật ngữ  “đọc”  được ghi nhận trong các tài liệu tâm lý học và phương pháp dạy học. Từ  đây,  chúng ta sẽ  hiểu đọc với nghĩa thứ  hai – đọc được xem như  là một hoạt động lời   nói trong đó có các thành tố :  ●Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ. ●Chuyển dạng thức chữ  viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ  theo   từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc trơn từng tiếng tùy thuộc vào trình độ  nắm kỹ  thuật đọc. ●Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài). b. Kỹ  năng đọc là một kỹ  năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện tập lâu dài.  T.G.Egôrôp (dần theo TLTK 35 ; tr. 101) chia vi ệc hình thành kỹ năng này ra làm 3  giai đoạn :  ●Phân tích. ●Tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh thể  của hành động). ●Giai đoạn tự động hóa. Giai đoạn dạy học vần (lớp 1) là sự phân tích các chữ  cái và đọc từng tiếng  theo phát âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc thành cả  từ  trọn vẹn, trong đó sự  tiếp  nhận “từ” bằng thị giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo,   sự  thông hiểu ý nghĩa của “từ” trong cụm từ hoặc câu đi trước sự  phát âm, tức là   đọc được thực hiện trong sự  đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lóp 3, học sinh bắt  đầu đọc tổng hợp. Trong những năm cuối cấp, đọc ngày càng tự động hóa, nghĩa là  người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý nhiều đến việc  chiếm lĩnh văn bản (bài khóa) : nội dung các sự kiện, cấu trúc, chủ đề, các phương   tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ta đã chú trọng hơn đến những mối quan hệ  quy   định lẫn nhau của việc hình thành kỹ năng đọc và hình thành kỹ năng làm việc với   7 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  8. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net văn bản, nghĩa là đòi hỏi tổ chức giờ Tập đọc sao cho việc phân tích nội dung của   bài đọc đồng thời hướng đến việc hoàn thiện kỹ  năng đọc, hướng đến đọc có ý   thức bài đọc. Việc đọc như  thế  nhằm vào sự  nhận thức. Chỉ  có thể  xem là đứa trẻ  biết  đọc khi nó đọc mà hiểu được những điều mình đọc. Đọc là hiểu nghĩa cảu chữ  viết. Nếu trẻ không hiểu những từ ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ  không có hứng   thú học tập và không có khả  năng thành công. Do đó, hiểu những gì được đọc sẽ  tạo ra động cơ, hứng thú cho việc đọc. Việc đọc không thể tách rời khỏi việc chiếm lĩnh một công cụ  ngôn ngữ  (ở  đây là tiếng Việt). Mục đích này chỉ  có thể  đạt được thông qua con đường luyện  giao tiếp có ý thức. Một phương tiện luyện tập quan trọng, cũng đồng thời là một  mục tiêu phải đạt tới trong sự chiếm lĩnh ngôn ngữ chính là việc đọc, cả đọc thành   tiếng và đọc thầm. Quy trình hiểu văn bản bao gồm các bước sau :  Hiểu nghĩa các từ, các ngữ. Hiểu các câu. Hiểu các khối đoạn, những là những tập hợp câu dung để  phát biểu một ý  trọn vẹn mà phức hợp. Hiểu được cả bài. Học sinh tiểu học không phải bao giờ  cũng dễ  dàng hiểu được những điều  mình đọc. Hầu như  toàn bộ  sức chú ý của các em đều tập trung vào việc nhận ra   mặt chữ, đánh vần để phát thành âm. Còn nghĩa thì chưa có đủ thì giờ và sức lực để  nhận biết. Mặt khác, do vốn từ còn ít, năng lực liên kết thành câu, thành ý còn hạn  chế, nên việc hiểu và nhớ  nội dung còn khó khăn. Đây là cơ  sở  để  xuất hiện các   biện pháp hình thành năng lực đọc hiểu cho học sinh tiểu học. 2. Bình diện ngữ nghĩa của văn bản và luyện đọc hiểu ở tiểu học 2.1. Ý nghĩa của dạy đọc hiểu 8 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  9. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net Như ta đã biết, đọc không chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng các   ký hiệu chữ viết mà quan trọng hơn, đọc còn là một quá trình nhận thức để có khả  năng thông hiểu những gì được đọc. Đọc thành tiếng không tách tời với việc đọc   hiểu những gì được đoc. Chỉ  khi biết cách hiểu, hiểu thấu đáo các văn bản được   đọc thì học sinh mới có công cụ để lĩnh hội tri thức, tư tưởng, tình cảm của người   khác chứa đựng trong văn bản, có công cụ để lĩnh hội tri thức khi học các môn khác  của nhà trường. Chính nhờ biết cách đọc hiểu văn bản mà học sinh dần dần có khả năng đọc  rộng để tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về cuộc sống, từ  đó hình thành thói quen,   hứng thú với việc đọc sách, với việc tự  học thường xuyên. Các tài liệu dạy học   của nước ngoài cũng nhấn mạnh sự  thông hiểu trong khi đọc. “Đọc là để  hiểu   nghĩa chữ in” và đề lên thành nguyên tắc phải cho trẻ hiểu những từ đang học đọc,   xem việc hiểu những được đọc là động cơ, cái tạo nên hứng thú, tạo nên thành  công học đọc của trẻ (xem TLTK 35). Ngay cả  giai đoạn đầu lớp 1, khi mục đích chính của dạy học là dạy kỹ  thuật đọc, chú trọng mặt phân giải âm thanh của tiếng, cũng vẫn phải chú ý đến  việc chọn ngôn liệu để học âm, vần, thanh sao cho việc dạy chữ gắn với việc dạy   nghĩa. Đích cuối cùng của dạy đọc là dạy cho học sinh kỹ  năng làm việc với văn   bản, chiếm lĩnh được văn bản. biết đọc cũng là biết tiếp nhận, xử  lý thông tin.   Chính vì vậy dạy đọc hiểu có vai trò đặc biệt trong dạy đọc nói riêng, trong dạy  học ở tiểu học nói chung. Trong khi đó, việc quan sát thực trạng dạy học Tập đọc trên cả hai đối tượng  giáo viên và học sinh cho thấy rằng kỹ năng đọc hiểu của cả  thầy và trò tiểu học   đều yếu. Ngay cả giáo viên cũng có những cách hiểu và giải thích rất sai về các bài  đọc ở tiểu học. 9 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  10. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net Học sinh đọc mà không nắm được điều gì là cốt yếu trong văn bản. Kết quả  học đọc của học sinh chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành một kỹ năng  giao tiếp quan trọng. Nguyên nhân chính của hạn chế này là do giáo viên chưa nắm  chắc nội dung và phương pháp dạy đọc hiểu. Sau đây chúng ta đi vào xem xét các cơ sở để xác định nội dung dạy đọc hiểu   một bài. 2.2. Văn bản với vấn đề đọc hiểu Để  làm rõ dạy đọc hiểu nghĩa là làm gì, chũng ta cần hiểu rõ đối tượng mà  đọc hiểu tác động : văn bản. + Văn bản là một sản phẩm của lời nói, một chỉnh thể ngôn ngữ, thường bao   gồm một tập hợp các câu và có thể  có một đầu đề, nhất quán về  chủ  đề  và trọn  vẹn về  nội dung, được tổ  chức theo một kết cấu chặt chẽ  nhằm một mục đích   giao tiếp nhất định. Văn bản có tính chỉnh thể. Tính chỉnh thể này thể hiện ở hai phương diện :  +Về  mặt nội dung : nó biểu hiện tính nhất quán về  chủ  đề, ở  sự  phát triển  mạch lạc, chặt chẽ  của nội dung và bộc lộ   ở  tính nhất quán và rõ rệt ở  mục tiêu  văn bản. + Về  mặt hình thức : tính chỉnh thể  thể  hiện  ở  kết cấu mạch lạc và chặt  chẽ, giữa các bộ  phận trong văn bản có các hình thức liên kết và toàn văn bản có  một tên gọi. Tính nhất quán chủ  đề  thể  hiện  ở  chỗ  toàn văn bản tập trung vào một chủ  đề  thống nhất, chủ  đề  này được triển khai qua các chủ  đề  bộ  phận (các tiểu chủ  đề) của từng phần, từng chương, từng mục, từng đoạn. Văn bản (bài) được dạy đọc ở tiểu học có dung lượng không lớn nên cấp độ  dưới văn bản thường chỉ  là đoạn văn, khổ  thơ. Để  xác định nội dung của bài lại   phải tìm nội dung của đoạn. 10 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  11. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net Tính nhất quán của văn bản thể  hiện  ở  mục tiêu văn bản. Văn bản là sản  phẩm của quá trình giao tiếp. Mục đích của giao tiếp cũng chính là mục đích của  văn bản. Hoạt động giao tiếp nhằm vào các mục đích : thông tin (thông báo tin tức),  tự biểu hiện, giải trí, tạo lập quan hệ và đích hành động. Những mục tiêu này được   thực hiện đồng thời trong từng văn bản nhưng trong từng phong cách, kiểu loại văn  bản, các mục tiêu không được thể hiện đồng đều. Tất cả các văn bản xét cho cùng đều hướng đến mục đích hành động vì dù là   đích thông tin hay tự biểu hiện, tạo lập quan hệ hay giải trí, thực chất vẫn là nhằm  tác động vào lý trí để  thuyết phục hoặc là tác động vào tình cảm để  truyền cảm,  hướng người đọc, người nghe đến một hành động nào đó. Chính mục đích giao tiếp làm cho văn bản luôn chứa đựng nội dung thông tin  và nội dung này tạo ra các bình diện ngữ nghĩa của văn bản. Trước hết, đó là nội dung miêu tả, hay còn gọi là nội dung sự vật, là những   hiểu biết, những nhận thức về thế giới xung quanh, về xã hội và về chính bản thân   con người. Nội dung này tạo thành nghĩa sự vật của văn bản. Tiếp theo là nội dung thông tin về  những cảm xúc, tình cảm, thái độ  của  người viết đối với đối tượng, sự  việc được đề  cập đến, đối với người tham gia   hoạt động giao tiếp. Nội dung này tạo ra nghĩa liên cá nhân của văn bản. Xét cách thức biểu hiện các thông tin ngữ nghĩa thì cần phân biệt : thông tin  ngữ  nghĩa tường minh (còn gọi là hiển ngôn) và thông tin ngữ  nghĩa hàm  ẩn (còn   gọi là hàm ngôn). Nghĩa tường minh là các thông tin được biểu hiện bằng các từ  ngữ  có mặt  trong văn bản, và bằng các cấu trúc ngữ  pháp của cum từ, của câu, của đoạn văn,   của văn bản. Các thông tin này được biểu hiện trên bề  mặt của câu chữ  và người  đọc tiếp nhận nó thông qua nguyên văn từ ngữ và cấu trúc ngữ pháp. Nghĩa hàm ẩn là các thông tin được suy ra từ thông tin tường minh và từ hoàn  cảnh giao tiếp cụ  thể của văn bản. Để  hiểu được thông tin hàm ẩn của văn bản,  11 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  12. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net người đọc phải tiến hành phân tích và suy ý dựa vào yếu tố  ngôn ngữ  hiện diện  trong văn bản và hoàn cảnh giao tiếp để  rút ra thông tin hàm  ẩn. Có thể  nói đó là   phương pháp đọc những gì ẩn dưới các hàng chữ. Các văn bản nghệ thuật thường chứa đựng thông tin này. 2.3. Tác phẩm văn học đối với vấn đề đọc hiểu văn bản nghệ thuật Trong số các văn bản dung để dạy đọc hiểu ở trường tiểu học, loại văn bản  nghệ thuật có một vị trí đặc biệt không những bởi tấm quan trọng của loại văn bản  này mà còn do tỷ  lệ  văn bản nghệ  thuật được đưa vào chương trình rất cao và   nhiệm vụ dạy hiểu loại văn bản này phức tạp hơn. Đọc văn bản nghệ  thuật, học sinh không chỉ  hiểu nội dung văn bản mà còn  phải cảm thụ được một loại hình nghệ  thuật lấy ngôn ngữ  làm chất liệu. Vì vậy,   đọc văn bản nghệ  thuât thực hiện nhiệm vụ kép : dạy một kỹ  năng tiếng Việt và   dạy văn. Từ đây có thể suy ra dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật gồm công việc làm  cho học sinh nắm được nội dung của văn bản, mục tiêu của văn bản đồng thời dạy   cho học sinh cảm nhận được  vẻ  đẹp của ngôn từ, hình tượng văn chương làm  nên nội dung văn bản. với nghĩa đó, dạy đọc hiểu văn bản nghệ  thuật là dạy tiếp  nhận văn học hay còn gọi là dạy cảm thụ văn học. Để dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật, người giáo viên tiểu học phải hiểu rõ  đặc trưng văn chương và đặc trưng tiếp nhận văn chương. Lý thuyết tiếp nhận văn  học đã chỉ ra ba cấp độ trong tiếp nhận văn học : + Người đọc tri giác, hiểu ngôn từ, tình tiết, cốt truyện, thể  loại để  cảm  nhận hình tượng trong sự toàn vẹn của các chi tiết, các lien hệ. + Người đọc tiếp xúc với ý đồ  sáng tạo của người nghệ  sỹ, thâm nhập vào  hệ thống hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc tư tưởng và tình cảm của tác giả. + Người đọc đưa hình tượng vào đời sống và kinh nghiệm riêng của mình để  thể nghiệm, đồng cảm. Cuối cùng nâng cấp lí giải tác phẩm lên cấp quan niệm và  12 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  13. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net tính hệ thống, hiểu được vị  trí tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư  tưởng, đời sống   và truyền thống nghệ thuật. Ngôn ngữ  trong văn bản nghệ  thuật mang tính đa nghĩa, tính biểu tượng,   tượng trưng, gợi cảm. ●  Tính nhân văn của văn bản nghệ thuật  “Văn học là nhân học”.  Nội dung văn bản nghệ  thuật chủ  yếu nói về  con  người, tư  tưởng, tình cảm, tâm hồn của con người. Dù nhà văn có quan tâm, có  miêu tả  hiện tượng nào của cuộc sống đi nữa, một cái cây, một cánh rừng, một   ngôi chùa, một ngọn núi, một dòng sông, một đêm trăng, một đàn chim, một bầy   cá… thì điều mà nhà văn tìm hiểu, điều làm học ngạc nhiên, xúc động và muốn nói  lên để  người khác cũng quan tâm, ngạc nhiên, xúc động như  mình không phải là   bản thân các hiện tượng đó mà là mối liên hệ  của chúng với con người, ý nghĩa   cuộc sống của con người mà những hiện tượng đó thể  hiện, cách nhìn, sự  rung  động của con người trước những hiện tượng cụ thể và trước cuộc sống. Vì vậy, đoạn văn, câu chuyện, bài thơ nói về các con vật, về  các loại cây…   thì cũng là nói về con người. Mà con người thì giàu xúc động, giàu tình cảm và tình  yêu. Cũng vì vậy, đích cuối cùng của dạy cảm thụ văn chương không cỉ là cho thấy   bài văn đã ghi chép hiện thực gì mà trước hết phải cho thấy bài văn là kết quả của   một hành động tự nhận thức, nơi bộc lộ những tình cảm, thái độ của nhà văn trước   hiện thực. ● Tính chủ quan của văn bản nghệ thuật Tác phẩm văn chương là nơi người nghệ  sỹ  bày tỏ  thái độ  chủ  quan của  mình, nói lên  ước mơ, khát vọng của mình về  thế  giới, về  cuộc sống. Tác phẩm  nghệ thuật “là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”, là con đẻ tinh thần của  nhà văn, là sự  sáng tạo, là bản thông điệp để  nhà văn gửi tâm tình của mình đến  bạn đọc. 13 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  14. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net Chính tính chủ  quan, đặc điểm tình cảm, cảm xúc này của tác phẩm nghệ  thuật đòi hỏi khi tiếp nhận văn chương, học sinh không chỉ phải hiểu nội dung sự  việc của văn bản mà còn phải nắm nội dung liên cá nhân, giá trị biểu hiện, chất trữ  tình, tức là thái độ, tình cảm, sự đánh giá sự việc của tác giả, cái làm nên chức năng   bộ  lộ  văn bản. Không chú ý đến điều này chúng ta sẽ  không hướng dẫn học sinh  hiểu được nghĩa liên cá nhân của tác phẩm nghê thuật. ● Tính biểu trưng, hình tượng, độc đáo, khác thường của văn bản nghệ   thuật Như  đi trong vũ ba lê bằng đầu ngón chân chứ  không đi bằng bàn chân như  trong đời thường, văn chương phản ánh cuộc sống bằng hình tượng, nó đi tìm cho   mình một ngôn ngữ  riêng, một cách thể  hiện riêng, một cách thức “kí mã” riêng   khác với đời thường và khác với các nghệ  thuật khác. Chính vì vậy khi tiếp nhận  văn chương, học sinh phải tiếp nhận khác với logic thông tục của đời thường. Đó  là năng lực biết nghe được, đọc được những bí ẩn dưới những chuỗi âm thanh, ẩn  dưới các dòng chữ hay chính là năng lực giải mã nghệ thuật. Để giải mã văn chương, phải chú trọng các đặc điểm diễn đạt hàm ẩn, cách   nói biểu trưng, tính đa nghĩa, những cách nói hướng đến “gây  ấn tượng” khác với  ngôn ngữ đời thường. Nếu chỉ biết tư duy “thật thà” theo lối đời thường, ta không  thể hiểu được văn. Khi nói nghệ  thuật nhận thức và tái hiện cuộc sống bằng hình tượng, một   mặt cần nhấn mạnh rằng tác phẩm nghệ thuật phản ánh cuộc sống một cách sinh   động, cụ  thể, cảm tính, có hình khối, đường nét, âm thanh chứ  không phải phản  ánh một cách trừu tượng, bằng khái niệm như trong khoa học. Như vậy, không hiểu được cái nghĩa, cái lý, cái tình của văn chương, không  hiểu được đặc điểm phản ánh bằng hình tượng vừa cụ thể, vừa khái quát, vừa đa   nghĩa, vừa mang tính độc đáo, mới mẻ  của văn chương, chúng ta sẽ  không tìm  14 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  15. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net được chìa khóa mở cửa “văn”, không hướng dẫn học sinh hiểu văn bản văn chương  được. ● Văn bản nghệ thuật – nghệ thuật của ngôn từ Văn chương là nghệ  thuật của ngôn từ. Nhờ  chất liệu ngôn ngữ  mà chất  nhân văn, tính hình tượng, tính cảm xúc và độc đáo của văn chương còn có những   sắc thái riêng mà các nghệ  thuật khác không có. Ngôn ngữ  văn chương phải trau  chuốt, cô đọng, hàm súc, có tính biểu cảm, tính hình ảnh. Nếu không, nghĩa, tình, lí  của văn chương chỉ là nắm xương khô. Một tác phẩm văn học có giá trị phải là sự  hài hòa của nội dung và hình thức, tình ý chứa chan mà lời lẽ phải dạt dào. Vì vậy,   ngoài việc giải mã nghĩa, lí, tình, dạy đọc hiểu văn bản văn chương còn phải cho  học sinh tiếp nhận được vẻ  đẹp của ngôn từ, vẻ  đẹp của cách nói văn chương,   khả năng phát hiện được tín hiệu nghệ thuật và cao hơn nữa là cho các em đánh giá  được giá trị  của các tín hiệu nghệ  thuật trong việc biểu đạt nội dung. Đây cũng  chính là nội dung dạy cảm thụ văn học ở trường tiểu học. Sự  thống nhất giữa nội dung và hình thức không chỉ  hiện ra trong toàn bôn   văn bản mà ngay trong từng yếu tố, từng cấp độ của văn bản ở trên tất cả các bình  diện : từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp. Việc tìm hiểu tác phẩm văn học phải bắt đâu  từ  việc khám phá văn bản ngôn từ  của nó. Không có chì khóa để  mở  cánh cửa đi   vào cấu trúc ngôn từ  của tác phẩm thì chúng ta chỉ có thể đứng ngoài ngôn nhà văn   chương. Từ ngữ trong văn bản văn chương thường mang tính gợi tả, gợi cảm, chúng  “đi lại”, “nhảy nhót” trong tác phẩm. Chính vì thế, trong các bài miêu tả, lớp từ láy  được sử  dụng rất nhiều. Về mặt ngữ nghĩa, từ trong văn bản văn chương có biên   độ  nghĩa được mở  rộng tối đa, tạo ra những nghĩa văn cảnh, nghĩa bóng rất đa   dạng. Các nhà văn đã vận dụng những nét nghĩa khác nhau và đã sử dụng từ rất là  đắc địa. Khi giải mã văn chương, phải nắm được các thế  đối lập về  nghĩa của từ  15 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  16. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net trong hệ thống ngôn ngữ mới hiểu văn bản và chỉ ra được sự tài tình của việc dùng  từ. Trong văn chương, các từ  không chỉ  được dựng đứng lên, có hình, có khối,  gợi tả rợn người mà chúng còn được sử dụng với tất cả nghĩa biểu thái để bộc lộ  hết cái tình của người dùng từ. Vì muốn gây ân tượng, mà các nhà văn nhà thơ  đã đi chệch ra khỏi chuẩn   mực thông thường của từ  toàn dân, sáng tạo ra bao từ  mới chẳng hề  có trong từ  điển. Phải có hiểu biết về ngôn ngữ mới thấy được vẻ đẹp của các từ. Nếu việc nắm các thế  đối lập của từ  trong hệ  thống ngôn ngữ  là rất cần  thiết, nó cho phép chúng ta chỉ  ra cái “đắc địa”, sự  tài tình của việc lựa chọn từ  trong trục dọc của ngôn ngữ, thì những hiểu biết về  những nét nghĩa chung của  một trường từ vựng cũng không kém phần quan trọng. Nó sẽ giúp chúng ta giải mã   được nhiều bài tập đọc ở tiểu học. Giá trị của tác phẩm văn chương không chỉ là ở  cái hay riêng của từng từ đơn lẻ mà còn lá sự hài hòa , lan tỏa, cộng hưởng của cả  một trường từ. Chính nét nghĩa chung, sự  hòa đồng, cộng hưởng này sẽ  tạo ra   những giá trị ngữ nghĩa mới của văn bản. Một đặc điểm của ngôn ngữ  nghệ  thuật là sử  dụng nhiều biện pháp tu từ.  Các biện pháp tu từ  thường được sử  dụng trong các bài tập đọc  ở  tiểu học là so  sánh, ẩn dụ (so sánh ngầm), hoán dụ, nhân hóa, hòa hợp. Những cách dùng từ  đặc  sắc cùng với các biện pháp tu từ  đã làm cho lớp ngôn từ  nghệ  thuật kết lại thành   những hình  ảnh văn chương lung linh sắc màu tạo nên vẻ  đẹp của phần Tập đọc   trong bộ SGK tiểu học suốt từ lớp 1 đến lớp 5. Chính vì vậy, khi xác định những từ  ngữ  quan trọng trong những bài tập đọc thuộc phong cách văn chương, không thể  không đi tim những hình ảnh, chi tiết nghệ thuật tiêu biểu nhất. Văn học là nghệ  thuật của ngôn từ, nên điều quan trọng đối với tác phẩm   văn học không chỉ ở chỗ nó nói về cái gì mà còn ở chỗ nó nói về  cái đó bằng cách  nào, như thế nào. Làm rõ cái hay của việc dùng từ ngữ, hình ảnh chỉ đặt ra khi đọc  16 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  17. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net hiểu văn bản nghệ  thuật. Đó chính là việc chỉ  ra cái hay của việc sử  dụng ngôn  ngữ  nghệ  thuật hay chính là cách đánh giá giá trị  của các yếu tố  ngôn ngữ  nghệ  thuật đối với việc biểu đạt nội dung. Đây chính là một nội dung của dạy cảm thụ  văn học trong trường tiểu học. Dạy cảm thụ  văn học là dạy học sinh cảm nhận   những giá trị nổi bật, những điều tế nhị, sâu sắc, đẹp đẽ  của từ  ngữ, câu văn, câu   thơ, đoạn văn, đoạn thơ, câu chuyện. PHẦN II : NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ TRONG CÁC BÀI THƠ TRỮ  TÌNH TIẾNG VIỆT LỚP 5 I. Thơ và các đặc trưng của thơ 1. Thơ là gì ? Thơ ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại. Thơ là một thể  loại văn học hết  sức quen thuộc và gần gũi với con người ở mọi thời đại, ở phương Đông cũng như  ở phương Tây....Thế nhưng, khi ta đặt ra và trả lời câu hỏi thơ là gì  thì câu hỏi này  hoàn toàn không dễ  trả  lời. Khác với loại tác phẩm truyện, kí, kịch, thơ  trực tiếp   gắn với tâm hồn con người, mà tâm hồn con người là một thế  giới tinh vi, phức   tạp, mờ   ảo nên thơ  có thể  dễ  dàng cảm nhận bằng trực giác nhưng rất khó đúc   kết, khái quát thành một định nghĩa thật sự hoàn chỉnh. Nhà lí luận phê bình văn học Lưu Hiệp quan niệm : "Thơ  là để  nói lên cái  chí, lời ca là để làm cho lời nói được lâu dài. (...) Ở trong lòng thì gọi là chí, nói ra  lời thì gọi là thơ" [25,76] , nhằm nhấn mạnh vào mục đích làm thơ.  Học giả Lê Quý Đôn cho rằng "làm thơ có ba điều  chính: một là tình , hai là  cảnh, ba là sự  .(...) Tình là người, cảnh là tự  nhiên, sự  là hợp nhất cả  trời và đất.  Lấy tình tham cảnh, lấy cảnh hội việc, gặp việc thì nói ra lời, thành tiếng" [27;   99]. Nhà thơ  cách mạng Tố  Hữu nhấn mạnh " Thơ  là tiếng lòng hồn nhiên nhất   của tâm hồn con người trước cuộc đời, trước trời đất. Thơ  là tiếng hát của tình   cảm thiết tha mãnh liệt...Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy.  17 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  18. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net Bài thơ  hay là bài thơ  làm cho người ta không còn cảm thấy câu thơ  mà chỉ  thấy  tình người...Thơ là một điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu". Nhà thơ  Xuân  Diệu cũng chung cảm nghĩ  ấy khi viết "Thơ  là tiếng gọi đàn, là sự  đồng thanh  tương ứng , đồng khí tương cầu".  Chế  Lan Viên chịu  ảnh hưởng của Valêri khi cho rằng "Thơ  là sự  phân vân  giữa nhạc và ý" [20 ;30]. Nhà văn Nguyễn Tuân quan niệm "...thơ  là  ảnh, là nhân  ảnh , thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng   mọc lên từ cái đống tài liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được  những vô hình bao la, từ một điểm nhất định , nó mở  được ra một cái diện không   gian, thời gian trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp...Thơ là mở ra được một  cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó vẫn như là bị phong kín"[25; 172]. Trong bài Tựa tự  viết cho tập thơ  của mình, nhà thơ  Sóng Hồng đã đưa ra   những định nghĩa rất sâu sắc và toàn diện về  thơ  : "Thơ  tức là sự  thể  hiện con   người và thời đại một cách cao đẹp". Thơ là thơ đồng thời là vẽ  là nhạc, là chạm  khắc theo cách riêng   "Thơ  là nghệ  thuật kì diệu bậc nhất của trí tưởng tượng".  Thơ  là tình cảm và lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ  thuật. Tình   cảm và lí trí  ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ  qua những lời thơ  trong sáng vang lên một nhạc điệu khác thường" .    "Thơ  là một viên ngọc kim  cương long lanh dưới ánh sáng mặt trời".  “Thơ  cũng như  nhạc có thể  trở  thành   một sức mạnh phi thường khi nó chinh phục được trái tim của quần chúng nhân   dân” [ chuyển dẫn theo 29; 43]. Tuy khác nhau nhưng hầu hết các nhà thơ cũng như  các nhà nghiên cứu   phê  bình đều thống nhất ở thơ có hai đặc điểm quan trọng sau đây: + Thơ  trực tiếp bộc lộ  cảm xúc , nỗi lòng , suy    nghĩ của tác giả  : tức là  khẳng định  thơ thuộc phương thức trữ tình, đồng thời nhấn mạnh vai trò của cảm   xúc và khả năng tạo nên sức đồng cảm mạnh mẽ đối với người đọc của thơ. + Thơ có một hình thức tổ chức ngôn ngữ đặc biệt . 18 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  19. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net Thơ : là một loại hình nghệ  thuật dùng từ, dùng chữ  trong ngôn ngữ làm chất  liệu, và sự  chọn lọc từ  cũng như  tổ  hợp của chúng được sắp xếp dưới một hình   thức lôgíc nhất định tạo nên hình  ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mỹ  cho  người đọc, người nghe.  Thơ là loại sáng tác văn học có vần điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều  ý cô đọng, tuân theo các quy luật nhất định. Thơ  thường dùng như  một hình thức   biểu tả  cảm xúc trữ  tình, hoặc tình cảm xúc động trước một hiện tượng xảy ra   trong cuộc sống, như  khi người ta đứng trước một phong cảnh ngoạn mục, hoặc  đứng trước một thảm cảnh. Có thể  phát biểu một cách ngắn gọn : Thơ  là một loại hình văn học tồn tại   bên cạnh truyện và kịch, là hình thức sáng tác văn học nghiêng về  thể  hiện   cảm xúc thông qua một tổ chức ngôn từ đặc biệt thành những câu văn vần giàu   nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm. 2. Những đặc trưng cơ bản của thơ  2.1. Nhân vật trữ tình (chủ thể trữ tình) ­ Chủ thể phát ngôn trong thơ Lời văn trong truyện ­ kí đều có chung một đặc tính là lấy việc mô tả, kể lại   những câu chuyện, những sự  việc diễn ra trong cuộc sống xã hội làm chính. Cảm   nghĩ thái độ , cách đánh giá của nhà văn thường giấu kín trong bản thân câu chuyện  chứ không được làm nổi bật lên chiếm vị trí chủ đạo thành đối tượng thưởng thức  trực tiếp của người đọc. Lời thơ  là sự  bộc lộ  trực tiếp tâm tư, là tiếng nói tha thiết của tâm hồn,   tiếng gọi nồng nhiệt của trái tim của nhân vật trữ  tình  (chủ  thể  trữ  tình) . Phát  ngôn thơ ­ lời thơ ­ do vậy không lấy chức năng thông báo làm chính mà chủ yếu là  hướng đến chức năng biểu hiện. Đó có thể  là những nỗi niềm riêng tư  về  hạnh  phúc ; niềm vui gặp gỡ ; nỗi buồn chia li. Đó cũng có thể là   những cảm xúc, những  suy tư về  nhân tình thế  thái, về  số  phận con người, thăng trầm của xã hội, những  cảm xúc về Tổ quốc, đất nước, dân tộc, nhân loại.  19 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
  20. Chuyên đề Phát triển năng lực đọc cho HS Tiểu học                                                                                tincanban.com – choque24h.net Tâm hồn nhà thơ như một chiếc cần ăngten thu nhận tất thảy những tín hiệu  buồn vui của con người, là chiếc "bình thu hợp trí muôn phương" (Xuân Diệu) .  Muốn chinh phục được tâm hồn của độc giả  trước hết cảm xúc của nhà thơ  phải  chân thành ; niềm yêu ghét của nhà thơ phải xuất phát từ chính trái tim nhạy cảm,   thành thực của mình.  Cảm xúc của nhà thơ, phải ở mức độ mãnh liệt, dồi dào nồng cháy.  Mỗi khi  có điều gì chất chứa trong lòng  không nói ra không chịu được lúc đó là thi sĩ tìm  đến thơ để giải tỏa nổi chất chứa ám ảnh đó  (theo Tố Hữu)  Vì cảm xúc là yếu tố  hàng đầu của thơ  nên mọi nhà thơ  đều rất coi trọng   cảm hứng sáng tạo. Cảm hứng làm cho nhà thơ có thể lóe sáng được những ý nghĩ  mới lạ, chắp cánh cho trí tưởng tượng của nhà thơ  bay bổng, hình thành một cách  xuất thần những lời đẹp, tứ hay. Ngoài cái lớn lao của cuộc đời thực, thơ cũng tìm  đến thế giới của ước mơ và mộng tưởng. Nó mở rộng thế giới thực để người đọc   có thể  cảm nhận đến nhiều phạm vi rộng rãi hơn, bao la hơn của hôm qua, hôm  nay và ngày mai, của cái có thật và cái có thể có và nên có, của cái ta đang sống và   cái mà mọi người mong ước. Thơ mở rộng biên độ sống của con người! Một đêm tháng 4/1948, tại Việt Bắc, được trực tiếp nghe tin giặc đánh phá  quê hương mình, Hoàng Cầm xúc động và ngay đêm ấy viết bài thơ "Bên kia sông  Đuống", một trong những bài thơ hay nhất của ông, là "chứng minh thư" để ông đi   vào ngôi vị những nhà thơ sống mãi trong lòng bạn đọc.  Cảm xúc của nhà thơ đồng thời lại phải có tính tiêu biểu điển hình. Cảm xúc  trong thơ nhất định là của một con người ­ cá nhân trong hoàn cảnh cụ  thể  nhưng  đồng thời nó  không đóng kín, khép lại cho riêng nhà thơ mà cảm xúc đó còn là sự  đại diện phát ngôn cho tâm tình, suy nghĩ của nhiều người .Vichto  Hugô từng cho  rằng   "Lầm lẫn thay nếu  anh tưởng tôi không phải là anh". Cảm xúc thơ  càng có  tính tiêu biểu, điển hình thì càng tạo nên sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. 20 Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2