intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua giờ kể chuyện và các trò chơi dân gian

Chia sẻ: Bobietbo | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

45
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là đề xuất một số biện pháp nhằm “phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ kể chuyện, các trò chơi dân gian” và góp phần làm phong phú vốn từ, vốn ngôn ngữ của trẻ nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua giờ kể chuyện và các trò chơi dân gian

  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN ĐÔNG TRIỀU TRƯỜNG MẦM NON KIM SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  CHIẾN SĨ THI ĐUA CẤP CƠ SỞ Đề tài  BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 24­36 THÁNG  THÔNG QUA GIỜ KỂ CHUYỆN VÀ CÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN                 Họ và tên: Phạm Thị Thắm          Chức vụ:  Giáo viên          Đơn vị công tác: Trường Mầm non Kim Sơn                                                                                 1
  2.                                          Đông Triều,tháng 3 năm 2014 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:  MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 24 – 36  THÁNG TUỔI THÔNG QUA GIỜ KỂ CHUYỆN VÀ CÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN   I .Phần mở đầu   1.Lý do chọn đề tài:        Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ  mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng đặc biệt không thể  thiếu   được.      Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ  có vai trò là một  phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh.   Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về  môi trường xung quanh,  thông qua cử  chỉ  và lời nói của người lớn trẻ  làm quen với các sự  vật, hiện   tượng có trong môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công   dụng của các sự  vật cùng với từ  tương  ứng với nó. Nhờ  có ngôn ngữ  trẻ  nhận   biết ngày càng nhiều các sự  vật, hiện tượng mà trẻ  được tiếp xúc trong cuộc  sống   hàng   ngày.   Ngoài ra ngôn ngữ  còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ.  Ngôn ngữ  là phương tiện để  giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ  nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ  giao lưu cảm xúc với những người xung quanh   hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ  giúp trẻ hoà nhập với  cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn  của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng  mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ  cũng có thể  dùng ngôn ngữ  để  bày tỏ  những nhu cầu, mong muốn của mình với các thành  viên trong cộng đồng. Điều đó giúp trẻ hòa nhập với mọi người và sử  dụng nó  còn rất hạn chế. Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ từ 24 tháng tuổi đến 36  tháng tuổi nói riêng, chúng ta cần phải giúp trẻ  phát triển mở  rộng các từ  loại   trong các từ, biết sử  dụng nhiều loại câu, bằng cách thường xuyên trò chuyện   2
  3. với trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hàng ngày, nói cho  trẻ  biết các từ  biểu thị về các đặc điểm, tính chất, công dụng Đặc biệt nhờ  có  ngôn ngữ, thông qua các câu chuyện trẻ  dể  dàng tiếp nhận những chuẩn mực   đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Trẻ từ  2 đến 3 tuổi có số  lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ 22 tháng tuổi và 30 tháng tuổi vốn từ của   trẻ  phần lớn là những danh từ  và động từ, các loại khác như  tính từ, đại từ,  trạng từ  xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ  tuổi của trẻ. Trẻ   ở  lứa tuổi  này không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể mà có thể  hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và các mối quan hệ. Tuy  nhiên mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ từ 2 đến 3 tuổi còn rất hạn chế và   có nét đặc trưng riêng, trẻ  sử  dụng các từ  biểu thị  thời gian chưa chính xác trẻ  nhận thức về  công cụ  ngữ  pháp  của chúng. Cho trẻ  xem tranh, kể cho trẻ nghe   các câu chuyện đơn giản qua tranh. Đặt các câu hỏi cho trẻ  giúp trẻ  biết kể  chuyện theo tranh bằng ngôn ngữ của trẻ   Giai đoạn lứa tuổi mầm non trẻ phát triển mạnh về thể chất, trí tuệ, tinh thần,  trẻ ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá xung quanh. Dưới sự hướng dẫn của  cô giáo trẻ sẽ  lĩnh hội kiến thức được chính xác, đầy đủ  hơn. Chính vì vậy mà  hình thức tổ chức các hoạt động cho trẻ càng phong phú hấp dẫn, càng gây hứng   thú đối với trẻ, trẻ càng dễ tiếp thu, trẻ dễ nhớ lâu quên, lĩnh hội kiến thức một  cách nhẹ nhàng.    Trẻ mẫu giáo có nhu cầu lớn về mặt nhận thức, trẻ khao khát khám phá, tìm   tòi, tìm hiểu thế  giới xung quanh mình trong đó ngôn ngữ  là công cụ  giao tiếp  quan trọng nhất của con người. Trong giao tiếp trẻ sử d ụng ngôn ngữ của mình  để trình bày ý nghĩ biểu cảm của mình với mọi người.   Đặc biệt hiện nay phát triển ngôn ngữ cho trẻ em là một trong những nhiệm vụ  quan trọng trong công tác chăm sóc giáo dục và nuôi dạy trẻ  của các trường  mầm non. Chính vì vậy vai trò của người giáo viên hướng dẫn trẻ  như  thế nào   để ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt ?     Ta thấy trẻ nhỏ thường phát âm không chính xác ( chẳng hạn như : lá – ná , cá   rô – cá gô , …. ) . Việc trẻ phát âm không đúng của trẻ  chủ  yếu là do cơ  quan   phát âm của trẻ chưa linh hoạt, chưa nhạy cảm và chưa chính xác, trẻ chưa biết  cách điều chỉnh  hơi thở ngôn ngữ và giọng nói cho phù hợp với nội dung nói  3
  4.    Vì vậy, để trẻ phát âm đúng cần phải được luyện tập thường xuyên, mọi lúc  mọi nơi, và thời gian lâu dài. Trong quá trình công tác chăm sóc nuôi dạy trẻ, sau   một thời gian cho trẻ làm quen với các bài đồng dao, em thấy việc cho trẻ  đọc  các bài đồng dao kết hợp với các trò chơi đơn giản có tác dụng rất tốt cho việc   phát triển ngôn ngữ ở trẻ . Bởi vì nó có tính chất thi đua, bắt chước để kích thích   trẻ luyện tập tốt .   2. Mục đích nghiên cứu:   Đề xuất một số biện pháp nhằm   “phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ   kể chuyện, các trò chơi dân gian” và góp phần làm phong phú vốn từ, vốn ngôn  ngữ của trẻ nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.   3. Thời gian, địa điểm      Do thời gian không cho phép tôi chỉ  nghiên cứu về   “Một số  biện pháp phát   triển ngôn ngữ  cho trẻ  thông qua giờ  kể  chuyện, các trò  chơi dân gian tại   trường mầm non Kim Sơn”    Thời gian: Xây dựng đề cương ngày 20 tháng 10 năm 2013.    Viết đề tài 1/ 1 / 2014 – 01 /4 – 2014    Hoàn thành đề tài 10 / 4 / 2014    Địa điểm: Trường mầm non Kim Sơn – Đông Triều – Quảng Ninh.    Đối tượng nghiên cứu: Trẻ 24 – 36 tháng tuổi.   4. Đóng góp mới về mặt thực tiễn      Đề  tài này thể  hiện sự  quan tâm thiết thực đến với trẻ  em, tôn trọng quyền   của trẻ được sống và phát triển, quyền được học tập tiếp thu nền giáo dục tiến   bộ, được hưởng nền văn hóa của dân tộc mình. Trên cơ sở tiếp thu và vận dụng   những thành tựu liên ngành, thì đề  tài này góp phần làm sáng tỏ, đúng đắn các   vấn đề lý luận và học tập, vui chơi của trẻ em với phương châm “ Trẻ học mà   chơi, chơi mà học” trong trường mầm non làm phong phú hơn về  cách hiểu và  cách nhìn trẻ em hiện nay trong giáo dục mầm non.    Điều tra được thực trạng phát triển ngôn ngữ  của trẻ 24 – 36  ở trường mầm  non Kim Sơn.      Thiết kế  một số  biện pháp phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  24 – 36 tháng tuổi  thông qua các câu truyện, các trò chơi dân gian. 4
  5.   II/ Phần nội dung:   1. Chương 1: Tổng quan     Đối với việc phát triển ngôn ngữ  cho trẻ   ở  độ  tuổi 24 – 36 tháng là vô cùng   quan trọng. Công tác chăm sóc, giáo dục trẻ là cả  quá trình bền bỉ, lâu dài từ đó   tạo cơ  hội cho trẻ  được tham gia vào các hoạt động một cách nhẹ  nhàng mà  hiệu quả, để từ đó trẻ vừa được học, vừa được chơi. Trẻ em ở độ  tuổi này các  cháu đang học ăn, học nói, học người lớn. Chính vì vậy người lớn chính là tấm   gương để trẻ học tập nhằm nâng cao và làm giàu thêm vốn ngôn ngữ của trẻ. 1.1 Cơ sở lý luận của đề tài    Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là  bộ  phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ  trẻ thành những con người  có ích, thành những con người mới. Một trong ba mục tiêu của cải cách giáo dục của  nước ta là: Làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ  ấu nhằm  tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao động làm chủ  tập thể, phát triển toàn diện nhân cách. Giáo dục mầm non đã góp phần thực  hiện mục tiêu trên. Ngày nay chúng ta không chỉ đào tạo những con người có trí  thức có khoa học có tình yêu thiên nhiên, yêu Tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo  nên những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giầu mơ ước và sáng tạo.   Những phẩm chất ấy con người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non, lứa  tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp trong tương lai. 5
  6.   Giai đoạn lứa tuổi mầm non trẻ phát triển mạnh về thể chất, trí tuệ, tinh thần,  trẻ ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá xung quanh. Dưới sự hướng dẫn của  cô giáo trẻ sẽ  lĩnh hội kiến thức được chính xác, đầy đủ  hơn. Chính vì vậy mà  hình thức tổ chức các hoạt động cho trẻ càng phong phú hấp dẫn, càng gây hứng   thú đối với trẻ, trẻ càng dễ tiếp thu, trẻ dễ nhớ lâu quên, lĩnh hội kiến thức một  cách nhẹ nhàng.    Trẻ mẫu giáo có nhu cầu lớn về mặt nhận thức, trẻ khao khát khám phá, tìm   tòi, tìm hiểu thế  giới xung quanh mình trong đó ngôn ngữ  là công cụ  giao tiếp  quan trọng nhất của con người. Trong giao tiếp trẻ sử d ụng ngôn ngữ của mình  để trình bày ý nghĩ biểu cảm của mình với mọi người.    Truyện và các trò chơi dân gian là một loại hình văn học, thông qua cơ sở ngôn   ngữ có nhịp điệu, nghĩa là ngôn ngữ thơ được xây dựng trên cơ sở hòa hợp thanh   điệu của các từ, bố trí tiết tấu trong mỗi câu, sự tổ chức cân đối các ý, lời bằng   cách láy tiếng, láy câu, gieo vần, tạo thành  những hệ thống lôgic.   Tác phẩm văn học bằng những ngôn ngữ riêng tác động trực tiếp vào tâm hồn   của mỗi con người, khơi dậy tình cảm cao đẹp, sự bao dung, nhân ái, nó đưa con  người xích lại gần nhau hơn, cảm thông, chia sẻ  cùng nhau niềm vui cũng như  nỗi buồn.     Truyện và các trò chơi dân gian là một loại hình văn học bắt nguồn từ  cuộc  sống lao động và nó gắn bó mật thiết với đời sống của con người.   Truyện và các trò chơi dân gian có vai trò quan trọng. Nó góp phần hình thành  và phát triển nhân cách của trẻ. Thơ, truyện là phương tiện hữu hiệu giáo dục  thẩm mĩ, giáo dục đạo đức, thúc đẩy sự phát triển của trí tuệ và giúp phát triển  ngôn ngữ cho trẻ.    Các câu truyện dành cho trẻ, đặc biệt là các câu truyện dân gian góp phần to   lớn trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.   Tiếp xúc với tác phẩm trẻ được học bao nhiêu từ ngữ mới mà trong cuộc sống   bình thường trẻ ít hoặc không hề biết sử dụng ( chẳng hạn như từ tượng hình,   tượng thanh, từ láy)   Trong quá trình truyền thụ tác phẩm, cô giáo còn giúp trẻ được luyện phát âm  đúng như  không nói ê a, không nói lắp, không nói ngọng, trẻ  nói rõ ràng, thong   thả.... Các cháu được luyện tập kỹ năng diễn đạt mạch lạc. 6
  7.    Với trẻ  mẫu giáo, bước đầu chúng ta cho các cháu đến với các tác phẩm văn  học, vì vậy cô giáo cần biết cách truyền đạt như  thế nào để cho có kết quả tốt  và giúp trẻ biểu đạt tốt điều mà trẻ nghĩ.    1.2 Cơ sở thực tiễn     Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới, chương   trình giáo dục trẻ  mầm non trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ  chức các hoạt   động phù hợp sự  phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ  hoạt động  một cách chủ  động tích cực, hồn nhiên vui tươi, đồng thời tạo điều kiện cho   giáo viên phát huy khả  năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ  chức các hoạt   động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm  “Học   mà chơi ­ Chơi mà học” Đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách toàn diện về  mọi mặt    Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ mầm  non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng đặc biệt không thể thiếu được.      Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ  có vai trò là một  phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn  ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh, thông  qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự  vật, hiện tượng có  trong môi trường xung quanh, trẻ  hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng  của các sự  vật cùng với từ  tương  ứng với nó. Nhờ  có ngôn ngữ  trẻ  nhận biết   ngày càng nhiều các sự  vật, hiện tượng mà trẻ  được tiếp xúc trong cuộc sống  hàng ngày.     Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ.   Ngôn ngữ  là phương tiện để  giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ  nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh   hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với   cộng đồng và trở  thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ  có những lời chỉ  dẫn của người lớn mà trẻ  dần dần hiểu được những quy định chung của cộng  đồng mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ  cũng có  thể  dùng ngôn ngữ  để  bày tỏ  những nhu cầu mong muốn của mình với các  thành viên trong cộng đồng điều đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người.     Đặc biệt nhờ  có ngôn ngữ, thông qua các câu chuyện trẻ  dể  dàng tiếp nhận   những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Trẻ từ 2   7
  8. đến 3 tuổi có số  lượng từ  tăng nhanh, đặc biệt là  ở  trẻ  từ  22 tháng tuổi và 30   tháng tuổi vốn từ  của trẻ phần lớn là những danh từ  và động từ, các loại khác  như tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ  tuổi của   trẻ. Trẻ   ở  lứa tuổi này không chỉ  hiểu nghĩa các từ  biểu thị  các sự  vật, hành  động cụ thể mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và  các mối quan hệ. Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ từ 2 đến 3   tuổi còn rất hạn chế và có nét đặc trưng riêng, trẻ sử  dụng các từ biểu thị thời   gian chưa chính xác trẻ  nhận thức về công cụ  ngữ  pháp và sử  dụng nó còn rất   hạn chế. Đối với trẻ  mầm non nói chung và trẻ  từ  24 tháng tuổi đến 36 tháng   tuổi nói riêng, chúng ta cần phải giúp trẻ  phát triển mở  rộng các từ  loại trong   các từ, biết sử dụng nhiều loại câu, bằng cách thường xuyên trò chuyện với trẻ  về  những sự  vật, sự  việc trẻ  nhìn thấy trong sinh hoạt hàng ngày, nói cho trẻ  biết các từ  biểu thị  về  các đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng. Cho trẻ  xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu chuyện đơn giản qua tranh. Đặt các câu hỏi   cho trẻ giúp trẻ biết kể chuyện theo tranh bằng ngôn ngữ của trẻ. Chính vì vậy  nên tôi xin trình bày một số kinh nghiệm “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 ­ 36   tháng tuổi thông qua giờ kể truyện, các trò chơi dân gian ở trường mầm non   Kim Sơn”.  1.2.1 Đặc điểm tâm – sinh lý của trẻ 24 ­ 36 tháng tuổi liên quan đến sự phát   triển ngôn ngữ  của trẻ.   * Đặc điểm sinh lý:    Lứa tuổi mầm non là thời kì phát triển và hoàn thiện về  tất cả  các cơ  quan  trong cơ trẻ. Đây chính là tiền đề cho việc phát triển ngôn ngữ của trẻ.   Cơ quan thính giác của trẻ cũng được củng cố và hoàn thiện, kinh nghiệm nghe   đọc thơ của trẻ tích lũy được nhiều hơn, tạo tiền đề  giúp trẻ  cảm thụ  thơ  một   cách sâu sắc hơn.   * Đặc điểm tâm lý: Ngôn ngữ của trẻ 24 ­ 36 tháng tuổi này được xác định rõ ràng, nó giúp trẻ điều   khiển hành vi của mình được tốt hơn, thực hiện các hành động một cách chủ  tâm hơn, nhờ đó mà các quá trình tâm lý mang tính chủ động rõ rệt. 8
  9.   Tính chủ  động của trẻ  phát triển, ghi nhớ của trẻ  ngày càng có tính chủ  định,   sự chú ý đã tập trung hơn, bền vững hơn, trẻ biết điều khiển chú ý của mình, tự  giác hướng chú ý của mình vào đố tượng nhất định.   Tư duy trực quan sơ đồ và những yếu tố của tư duy lôgic dần thay thế tư duy  trực quan hành động. Đây là điều kiện thuận lợi nhất giúp trẻ  cảm thụ  tốt   những hình tượng nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật trong thơ.   1.2.2 Các phương pháp cơ bản sử dụng cho trẻ trong giờ kể truyện, các trò   chơi dân gian    Để  tiến hành cho trẻ  làm quen với tác phẩm văn học ta sử  dụng các phương  pháp sau:   1.2.2.1 Phương pháp đàm thoại:      + Đàm thoại giới thiệu tác phẩm      + Đàm thoại để hiểu tác phẩm      + Đàm thoại để củng cố tác phẩm   1.2.2.2 Phương pháp đọc, kể diễn cảm các tác phẩm văn học   1.2.2.3 Phương pháp trực quan   1.2.2.4 Phương pháp đóng kịch.    2. Chương 2: Nội dung vấn đề nghiên cứu   2.1 Thực trạng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 ­ 36 tuổi ở trường   mầm non Kim Sơn.   * Thực trạng chung: Phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  thông qua các môn học, các hoạt động trong  trường mầm non là một vệc làm vô cùng quan trọng. Trong những năm qua đội  ngũ giáo viên mầm non đã từng bước khẳng định về chuyên môn nghiệp vụ của   mình, đã đầu tư vào bài dạy, các hoạt động một cách tích cực. Song đối với việc  thực hiện chương trình nhà trẻ  vẫn còn nhiều lúng túng nhất là độ  tuổi 24 đến   36 tháng giáo viên vẫn còn xem nhẹ  việc tạo cơ  hội cho trẻ  được hoạt động,  giao tiếp để phát triển ngôn ngữ. Có đầu tư vào bài dạy, nhưng phương pháp và  biện pháp để cho trẻ được tham gia vào các hoạt động ngôn ngữ là rất ít. Khi tổ  chức giờ  kể  chuyện cho trẻ  môn học mà cô có thể  khai thác nhiều biện pháp   giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, giáo viên chưa biết linh hoạt tạo cơ hội cho trẻ hệ  thống câu hỏi đàm thoại, giáo viên đưa ra hầu như toàn câu hỏi đóng, trẻ  không  9
  10. thể tư duy và ít sử dụng hệ thống câu đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ, từ đó dẫn đến   việc trẻ hay nói cộc lốc, thiếu lễ phép nếu giáo viên không kịp thời uốn nắn cho   trẻ. Trong quá trình dạy trẻ, bản thân tôi thấy rất lo lắng đến vấn đề  này, nếu như  không kịp thời nghiêm túc thực hiện đúng chương trình quy định   sẽ  dẫn đến  hậu quả rất lớn đối với trẻ, bởi trẻ từ 2 đến 3 tuổi ở gia đình đang ở thời kì cần   cung cấp nhiều vốn từ giúp cho ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt hơn.    Từ  thực tế trên nên tôi mạnh dạn đưa ra  “Một số  biện pháp phát triển ngôn   ngữ cho trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi thông qua các câu chuyện, các trò chơi dân   gian”  * Đánh giá thực trạng   ­ Vì chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ  cho nên trong quá trình chăm sóc giáo dục hầu như  giáo viên chưa chú ý đến  việc thay đổi nội dung và cách thức trò chuyện, tạo các tình huống cho trẻ thể  hiện những tình cảm và yêu cầu của mình bằng các âm các từ. Khi nói chuyện  với trẻ cô hay nói nhanh và không chú ý tới việc sửa sai lỗi về từ, âm, câu cho  trẻ.    ­ Giáo viên chưa chú ý luyện câu, từ  cho trẻ, nhiều trẻ  nói thiếu, nói lặp cô  không kịp thời điều chỉnh và sửa sai.    ­ Quá trình tổ  chức giờ  học cô chưa chú ý đến hệ  thống câu hỏi để  giúp trẻ  được tư duy và phát triển ngôn ngữ.   ­ Đối với trẻ thì hệ thống ngôn ngữ không được mở rộng do cô đưa hệ thống   câu hỏi đóng, trẻ hay nói câu thiếu các thành phần. ­ Khả năng lĩnh hội thông tin của trẻ rất hạn chế nếu cô truyền đạt một câu dài  hoặc một sự việc có nội dung truyền tải nhiều.   Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2013 ­ 2014 tại trường mầm non  Kim Sơn như sau:     10
  11. Khá Trung bình Yếu               Xếp loại Số  Số  Số  Tổng số trẻ % % % lượng lượng lượng 19 8 53,3 3 20 8 53,3    Qua kết quả đó tôi miệt mài nghiên cứu tài liệu, các phương tiện thông tin đại   chúng đồng nghiệp và đưa một số  biện pháp phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  từ  24   đến 36 tháng tuổi thông qua giờ kể chuyện, chơi trò chơi dân gian.  2.2 Các giải pháp thực hiện    ­ Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 24   đến 36 tháng tuổi.    ­ Quan tâm đến tâm lý nhận thức đối với trẻ lứa tuổi từ 24 đến 36 tháng  tuổi  để tìm ra phương pháp kể chuyện phù hợp đồng thời phát triển ngôn ngữ của trẻ.    ­ Nâng cao nhận thức và trình độ của bản thân thông qua việc học tập BDTX  và học hỏi đồng nghiệp.    ­ Đầu tư tốt bài soạn, đồ dùng phục vụ giờ dạy.    ­ Chú ý đến trẻ cá biệt, chậm phát triển.    ­ Đầu tư khai thác những nội dung tích hợp phù hợp.    ­ Sưu tầm các trò chơi, các hoạt động, thông qua đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ  24 đến 36 tháng tuổi.    ­  Cho trẻ tham gia xem tranh ảnh, đồ dùng trực quan có liên quan đến nội dung   câu chuyện ở mọi lúc mọi nơi.    ­ Thường xuyên trò chuyện, đàm thoại, kể chuyện, đọc chuyện và yêu cầu trẻ  kể lại chuyện.   2.2.1 Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi thông qua giờ  kể truyện, các trò chơi dân gian   2.2.1.1 Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ kể truyện   Với trẻ 24 đến 36 tháng tuổi rất thích nghe kể truyện, chơi trò chơi và rất hứng  thú với hoạt động này. Chính vì vậy mà tôi muốn thông qua giờ kể truyện, chơi  trò chơi  để  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ. Cụ  thể  các biện pháp thực hiện như  sau:   * Biện pháp 1:  11
  12. Nghiên cứu kĩ yêu cầu của giờ  kể  truyện, chơi trò chơi kể  cả  về  kiến   thức, kĩ năng và giáo dục đạo đức. Từ đó đưa ra phương pháp, hệ thống câu hỏi,  đồ dùng trực quan phục vụ giờ dạy đạt hiệu quả tốt nhất. Ví dụ: Mục đích yêu cầu của giờ kể truyện “Cây táo”  * Về kiến thức: ­ Trẻ biết tên câu chuyện, biết tên nhân vật và hành động của các nhân vật  trong chuyện. ­ Đọc được các từ: “ông”, “bé”, “gà trống”, “mặt trời”, “bươm bướm”,  “sưởi nắng”, “bật ra”. ­ Biết lắng nghe và trả lời các câu hỏi của cô. * Về kĩ năng: ­ Trẻ nhận biết và phân biệt được quả to, quả nhỏ. ­ Nhận biết và phân được ba màu: đỏ, vàng, xanh và đọc chính xác các từ:  “màu đỏ”, “màu vàng”, “màu xanh”. * Về giáo dục. ­ Trẻ biết “Ăn quả nhớ phải nhớ ơn người trồng cây” ­ Biết lợi ích của việc ăn quả: Cung cấp vitamin và khoáng chất. ­ Biết giữ  gìn vệ  sinh rửa quả, rửa tay trước khi ăn, Biết bỏ  vỏ, hạt vào  thùng rác,  ­ Biết chăm sóc bảo vệ cây (Tưới nước, bắt sâu không vin lá, bẻ cành).   * Biện pháp 2: Chuẩn bị giáo án ­ Giáo án cho giờ kể truyện phải soạn một cách chu đáo, đầy đủ các bước,  đảm bảo nội dung với hệ thống câu hỏi mở, phù hợp với nhận thức của trẻ và  nội dung tích hợp phù hợp, các bước chuyển tiếp linh hoạt, xuyên xuốt từ  đầu   đến cuối giáo án. ­ Giáo án phải trình bày sạch sẽ, khoa học. Ví dụ: I. Mục đích yêu cầu. * Kiến thức. * Kĩ năng. * Giáo dục. II. Chuẩn bị. III. Trình tự tiến hành. 12
  13. Hoạt động 1. Hoạt động 2. Hoạt động 3 .................. Hệ  thống câu hỏi phải phù hợp với độ  tuổi, với nhận thức của từng trẻ,   kích thích trẻ  nhận biết, phân biệt sự  vật hiện tượng tình huống mà trẻ  đang   trực tiếp tri giác.   * Biện pháp 3: Chuẩn bị đồ dùng. Để  giờ  kể  chuyện đạt hiệu quả  cao thì đồ  dùng phục vụ  giờ  dạy phải  đảm bảo: - Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn (Không có cạnh  sắc nhọn) và vệ sinh cho trẻ (Không có bụi bẩn). - Nếu là tranh vẽ  phải đẹp, phù hợp với câu chuyện, phía dưới có chữ  to   giúp cho việc phát triển từ của trẻ được thuận lợi. - Đồ vật thật có liên quan đến câu truyện - Có thể có các hình  ảnh trên máy trình chiếu, các hình  ảnh trên mạng, các  hình ảnh động.                              Cô và trẻ trong giờ kể chuyện Ví dụ: trong câu chuyện “Cây táo”. Chuẩn bị:  13
  14. Quả  táo xanh, quả  táo vàng, phải to, tròn, đẹp, màu sắc rõ nét, với nhiều  kích thước khác nhau.   Cành táo phải nhiều lá, nhiều quả, được cắm vào một chậu đẹp.  Tranh vẽ  phải đẹp và sinh động, kích thước phù hợp không được to hoặc nhỏ  quá. Sa bàn: Thấp có cây táo, ông, bé, gà trống, bươm bướm, mặt trời. Các   nhân vật này có gắn que để điều khiển được. ­ Cho trẻ xem trên máy trình chiếu, hình ảnh đẹp, có thể cử động được và  có tiếng cho trẻ nghe                             Tranh chuẩn bị cho giờ kể truyện    *  Biện pháp 4: Nội dung tích hợp. Sau khi xác định được mục đích yêu cầu của giờ kể chuyện. Tôi suy nghĩ  để tích hợp các môn học khác vào giờ kể chuyện sao cho hợp lý, logíc phù hợp với giờ  học. Ví dụ: Trong câu chuyện cây táo tôi có thể tích hợp thêm các môn: - Nhận biết tập nói: cô hỏi trẻ: câu chuyện cô kể cho các con nghe nhắc đến  quả gì? + Qủa táo có màu gì?  + Ăn táo có vị ngọt hay chua nhỉ? 14
  15. - Hát và vận động: cô cho trẻ hát và vận động cùng cô bài hát nói về các loại  quả đẻ dẫn dắt trẻ vào nội dung câu chuyện. ­ Dinh dưỡng và vệ sinh chăm sóc: cô giáo dục trẻ trước khi ăn táo phải rửa   táo thật sạch, vỏ và hạt bỏ vào thùng rác. Ăn táo rất là ngon và có nhiều vi ta  min giúp da dẻ các con hồng hào.    * Biện pháp 5. Mọi lúc, mọi nơi. Cô cho trẻ xem tranh liên quan đến câu chuyện, bài thơ Ví dụ: Tranh cây táo trong chuyện cây táo: Tôi có thể cho trẻ tiếp xúc với vật thật trong sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ: Cho trẻ quan sát và tiếp xúc với cây táo, quả táo. Nói chuyện âu yếm, trò chuyện đàm thoại nhẹ nhàng cùng với trẻ.   + Cô hỏi trẻ: ở vườn nhà các con có trồng táo không?   + Qủa táo trong như thế nào?   + Vỏ nó có màu gì?   + Ai là người trồng cây táo đó?   + Khi ăn táo các con phải làm gì?   *  Biện pháp 6: Tiến trình hoạt động.  Để có một giờ dạy tốt trước hết phải rèn luyện cho trẻ nề nếp trong học   tập đó là cơ  sở  ban đầu hỗ  trợ  cho giờ  dạy đạt kết quả   cao. Trong lớp học tôi  chia ra từng tổ, trong mỗi tổ đều có các cháu có khả năng tiếp thu bài khác nhau:   Giỏi có, khá có, trung bình và yếu cũng có. Đối với những cháu khuyết tật như  khiếm thị, khiếm thính tôi sắp xếp cho trẻ  ngồi  ở  gần cô, thuận lợi cho việc  nghe, nhìn của trẻ Để  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  24 đến 36 tháng tuổi trong giờ kể  truyện   đạt kết quả cao tôi đã tiến hành như sau: * Hoạt động 1. Gây hứng thú cho trẻ.   Bằng các thủ thuật: Câu đố, thơ, bài hát, bài vận động có nội dung thích hợp tôi   nhẹ nhàng gây hứng thú cho trẻ tập trung vào giờ kể chuyện. Ví dụ: Trong giờ kể chuyện “Cây táo” tôi cho trẻ vận động bài “Cây cao – cây   thấp”  Động tác 1. Cây cao ( Trẻ kiễng chân, hai tay giơ cao) Động tác 2. Hái hoa (Trẻ guộn tay đưa xuống dưới) 15
  16. Động tác 3. Cây thấp (Trẻ ngồi xuống, tay buông xuôi) Trẻ vận động xong, tôi cho trẻ xếp hàng ngồi xuống theo hình chữ U. * Hoạt động 2. Nội dung chính.   Trong giờ kể truyện, tôi luôn luôn chú ý cho trẻ đọc và phát triển từ, chú ý sửa  sai cho trẻ khi trẻ đọc chưa đúng, khi đó theo tôi thì có thể thực hiện như sau: + Cô kể và đọc cho trẻ nghe toàn bộ câu chuyện, lần 1 bằng cử chỉ, điệu   bộ. + Sau đó cô kể, đọc cho trẻ nghe câu chuyện, lần 2 bằng tranh minh hoạ. Ví dụ: Cô vừa kể  cho các con nghe câu chuyện “Cây táo” câu chuyện sẽ  hay hơn khi có tranh minh hoạ. Trong tranh có từ “Cây táo” các con đọc từ “Cây   táo” (Cả lớp đọc hai lần, sau đó hai trẻ đọc lại).  + Cô kể cho trẻ nghe lần hai bằng tranh minh hoạ, vừa kể cô vừa chỉ vào nhân   vật.   Cô sử dụng hệ thống câu hỏi mở để trẻ tư duy và trẻ lời được câu hỏi của cô. Ví dụ: Trong chuyện cây táo   ­ Cô vừa kể cho các con nghe chuyện gì nhỉ? (Trẻ trả lời “Chuyện Cây táo ạ)   ­ Trong truyện có những nhân vật nào?( Ông, bé, gà trống, bươm bướm và Mặt   trời)   ­ Ai trồng cây táo? (ông). Cô cho trẻ đọc từ “ông”.   ­ Ai tưới nước cho cây táo? (Em bé). Cô cho trẻ đọc từ “Em bé”.   ­ Con gì đến động viên cây mà nó gáy “ò ó o”? (Con gà trống). Cô cho trẻ đọc  từ “con gà trống”.    ­ Cả  con gì đến động viên cây nữa?(con bươm bướm).Cô cho trẻ  đọc từ  “bươm  bướm”. + Sau đó tôi giảng nội dung câu chuyện, giải thích các từ  khó và cho trẻ  đọc các từ khó. Ví dụ: Trong truyện cây táo có từ “sưởi nắng”, “bật ra”, cô cho trẻ đọc các từ  này. + Cuối cùng tôi kể cho trẻ cho trẻ nghe câu chuyện lần 3 bằng sa bàn. * Hoạt động 3. Kết thúc giờ học. Bằng nhiều cách khác nhau tôi cho trẻ  kết thúc giờ  học một cách nhẹ  nhàng thoải mái. 16
  17. Ví dụ: Kết thúc giờ  học tôi cho trẻ  tôi cho trẻ  cùng hát bài “Đố  quả” và   cho trẻ thăm vườn cây ăn quả. Trong các giờ kể chuyện tôi cho trẻ tự kể lại câu chuyện mà trẻ đã được   học.   2.2.1.2 Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các trò chơi dân gian   Hiện nay các trò chơi dân gian đang dần quay trở lại  và ngày càng được trẻ em   thích thú vì chúng rất gũi với tâm sinh lý trẻ  nhỏ. Chính vì vậy cho trẻ  làm quen với  các bài đồng dao, em thấy việc cho trẻ đọc các bài đồng dao kết hợp với các trò  chơi đơn giản có tác dụng rất tốt cho việc phát triển ngôn ngữ  ở trẻ. Bởi vì nó  có tính chất thi đua, bắt chước để kích thích trẻ luyện tập tốt.             Sau đây, là một số bài đồng dao được viết lời mới và một số  trò chơi   kèm theo mỗi bài đồng dao .   *Trò chơi 1:                                            CHI CHI CHÀNH CHÀNH                                                     Chi chi chành chành                                                    Chim oanh học nói                                                      Khỉ già múa rối                                                    Chó sói đuổi bò                                                     Rùa nhảy khỏi hồ                                                     Bắt cò ăn thịt                                                     Sáo nằm gốc mít                                                     Khóc mẹ hu hu !   Cách chơi:               Một trẻ xoè tay ra , các bạn giơ một ngón tay trỏ ra đặt vào lòng bàn tay   đó , tất cả cùng đọc bài “chi chi chành chành” . Đến chữ “hu hu”, “ập” trẻ nắm   tay lại thật nhanh , còn các bạn thì rút tay thật nhanh , ai rút không kịp thì phai   xoè tay cho người khác chơi .   *Trò chơi 2:                                                BỊT MẮT BẮT DÊ                                                    Một bầy trẻ nhỏ                                                     Bịt mắt bắt dê                                                     Dê vấp bờ hè  17
  18.                                                    Ngã kềnh bốn vó                                                     Mọi người cười rộ                                                    Cố đuổi vòng quanh                                                     Dê chạy thật nhanh                                                    Túm ngay một chú .    Cách chơi:         Mời 2 trẻ lên chơi “ oẳn tù tì” , người thua sẽ bị bịt mắt đi tìm dê , người   thắng làm dê .               Các bạn đứng bên ngoài cổ vũ , người bị bịt mắt sẽ đi theo tiếng trống  lắc của người làm dê để  bắt bạn . Cả hai không được chạy ra khỏi vòng tròn .  Có thể cùng một lúc cho nhiều trẻ làm dê con và 1 trẻ bị bịt mắt .                                           CẶP KÈ    *Trò chơi 3:                                                          Cặp kè                                                       An muối mè                                                       Ngồi xuống đất                                                       Ăn rau muống                                                        Đứng lên    Cách chơi              Các cháu vừa đi vừa đọc bài đồng dao , và thực hiện theo lời bài đồng  dao . Có thể phân từng nhóm cho trẻ chơi , đây là một trò chơi rất thu hút trẻ  .     *Trò chơi 4:          DUNG  DĂNG DUNG DẺ                                                 Dung dăng dung dẻ                                                 Dắt trẻ đi chơi                                                 Đến hỏi ông trời                                                 Xin vài cái bánh                                                 Gặp xe thì tránh                                                 Đội mũ trên đầu                                                 Đi chậm đi mau                                                 Lâu lâu lại ngồi !                  Cách chơi 18
  19.   Các cháu cùng nắm tay , vừa đi vừa đung đưa theo nhịp bài đồng dao . Đến câu  “ lâu lâu lại ngồi” thì tất cả cùng ngồi xổm một lát , rồi lại đứng dậy vừa đi vừa   đọc tiếp bài đồng dao .                       *Trò chơi 5:                                               NU NA NU NỐNG                                     Nu na nu nống                                     Một hồ nước trong                                    Sao không rửa chân                                     Cho trắng cho xinh                                     Đi thi chân đẹp                                     Chân ai sạch sẽ                                     Gót đỏ hồng hào                                     Được vào đánh trống                                     Tùng tùng tùng tùng !           Cách chơi                 Tất cả trẻ ngồi vòng tròn , đưa 2 chân ra phía trước vừa đọc bài đồng  dao vừa nhịp chân theo lời bài đồng dao . đến chữ ‘ tùng tùng …” thì trẻ giả bộ  lấy 2 tay làm dùi đánh vào chân .     *Trò chơi 6:                                                 RỒNG RẮN                                    Rồng rắn đi chơi                                   Vừa hát vừa cười                                    Đến thăm thầy thuốc                                   Đếm chân mà bước                                   Thong thả mà đi                                   Tay chống chân quỳ                                    Hỏi cho thật lớn :                                  Thầy thuốc có nhà không ?      Cách chơi    Một trẻ làm chủ nhà , tất cả trẻ còn lại nắm lấy đuôi nhau đi thành vòng tròn   đến nhà thầy thuốc . Đến câu : “ thầy thuốc có nhà không ?” thì chủ nhà trả lời  theo ý của mình “có” hoặc “ không” , nếu “không” thì đi tiếp , nếu “có” thì hỏi  19
  20. chủ  nhà muốn lấy khúc nào “đuôi”, “giữa” hay “cuối”, tất cả  trẻ  phải bảo vệ  bạn ở nơi mà thầy thuốc muốn bắt . Trẻ nào bị bắt được thì lên làm thầy thuốc   và chơi tiếp .   *Trò chơi 6:                                             TẬP TẦM VÔNG                            Tập tầm vông                                       Tay đàng đông                                      Tay đàng tây                                      Tay nào mây                                     Tay nào gió                                     Tập tầm vó !                                     Tay nào có                                      Tay nào không                                     Tay nào phồng                                      Tay nào đẹp ?      Cách chơi    Trẻ  vừa đọc bài đồng dao vừa đưa tay theo nhịp bài đồng dao . Trò chơi này   cũng có tác dụng rèn cơ  tay cho trẻ  . GV có thể  sử  dụng nhiều hình thức khác   nhau như : thay đổi bằng chân , làm nhiều kiểu tay , ….                                      *Trò chơi 6:                                                                    THẢ ĐỈA                                                 Thả đải ba ba                                                   Làm ngỗng , làm gà                                                   Làm voi , làm gấu                                                   Làm anh cá sấu                                                   Làm chị ễnh ương                                                   Làm bác linh dương                                                  Cùng chạy bốn phương .      Cách chơi    Một trẻ đi giữa vòng tròn làm đỉa , các bạn khác nắm tay thành vòng tròn . Tất   cả cùng đọc bài đồng dao , tới câu “ cùng chạy bốn phương” trẻ chỉ vao bạn nào   thì bạn đó chạy đuổi bắt bạn . Cứ thế tiếp tục thay đổi trẻ khác được chơi .  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2