intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường THPT

Chia sẻ: Ganuongmuoiot | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

81
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm này đề cập đến những giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường THPT nên chủ yếu hướng đến hai đối tượng là tổ trưởng chuyên môn, giáo viên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường THPT

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH TRƢỜNG THPT TRẦN HƢNG ĐẠO --------------------------------- BÁO CÁO SÁNG KIẾN MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM TRONG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở NHÀ TRƢỜNG THPT Tác giả: Vũ Thị Quỳnh Anh Trình độ chuyên môn: Thạc sỹ Chức vụ: Tổ trƣởng tổ Ngữ văn Nơi công tác: Trƣờng THPT Trần Hƣng Đạo Nam Định, tháng 6 năm 2018
  2. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn ở nhà trƣờng THPT 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lý luận và phương pháp, hình thức dạy học – Bộ môn Ngữ văn 3.Thời gian áp dụng sáng kiến: Bắt đầu từ năm học 2015 - 2016 4. Tác giả Họ và tên: Vũ Thị Quỳnh Anh Năm sinh: 1977 Nơi thường trú: 17/88 Vỵ Xuyên, TP Nam Định – Tỉnh Nam Định Trình độ chuyên môn: Thạc sỹ Chức vụ công tác: Tổ trƣởng chuyên môn – Tổ Ngữ văn Địa chỉ liên hệ: 17/88 Vỵ Xuyên, TP Nam Định – Tỉnh Nam Định Điện thoại: 0902.227.037 Nơi làm việc: Trƣờng THPT Trần Hƣng Đạo – TP Nam Định Tỉ lệ đóng góp sáng kiến: 100% 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trƣờng THPT Trần Hƣng Đạo – TP Nam Định Địa chỉ: Số 75/203 đƣờng Trần Thái Tông – Phƣờng Lộc Vƣợng – TP Nam Định Điện thoại: 0228.3.847.042 5
  3. MỤC LỤC I Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến………………………………………..………5 II Mô tả giải pháp……………………………………………………………..………..7 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sang kiến…………………...……….….7 2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến …………...….………..……….8 2.1 Giải pháp đối với hiệu trưởng trường THPT………….…………………..…………….8 2.1.1 Cần xác định được sứ mạng, giá trị của nhà trường và có tầm nhìn chiến lược thấy được vai trò của hoạt động trải nghiệm với sự phát triển của nhà trường…… …………….8 2.1.2 Trong lập kế hoạch chiến lược tổng thể phải chú ý đến hoạt động trải nghiệm các môn học nói chung và môn Ngữ văn nói riêng……………………………….…………….9 2.2 Giải pháp đối với tổ trưởng chuyên môn……………..…………………..……………..9 2.2.1 Có tầm nhìn để lập kế hoạch, tổ chức bồi dưỡng đội ngũ trong lĩnh vực hoạt động trải nghiệm vừa có tính tổng thể vừa cụ thể……………………………………………….…….9 2.2.1.1 Lập kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ trong lĩnh vực hoạt động trải nghiệm…….......….9 2.2.1.2 Tổ chức bồi dưỡng đội ngũ trong lĩnh vực hoạt động trải nghiệm.…...…………...10 2.2.2 Nâng cao chất lượng trong việc lập kế hoạch của tổ chuyên môn về hoạt động trải nghiệm, tránh tình trạng hình thức………………………..…………………..…………...11 2.2.2.1 Lập kế hoạch trung hạn và kế hoạch năm học……………………………….…….11 2.2.2.2 Lập kế hoạch cho từng hoạt động trải nghiệm cụ thể của tổ chuyên môn …….….12 2.2.3 Chuẩn bị cơ sở vật chất, điều kiện thực hiện một cách chu đáo nhất trong điều kiện cho phép…………………………….………………………………………..…………….1 2 6
  4. 2.2.4 Chú ý đến tính chuyên nghiệp trong quá trình tổ chức thực hiện………………...….13 2.2.5 Chú trọng khâu kiểm tra, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm…………………...….13 2.3 Giải pháp đối với giáo viên………………………………………..……………….….14 2.3.1 Cần nâng cao nhận thức về hoạt động trải nghiệm trong quá trình dạy học môn Ngữ văn ………………………………………..……………………………………………….14 2.3.1.1 Nhận thức về trách nhiệm của người giáo viên trong việc tổ chức hoạt động trải nghiệm gắn với quá trình dạy học môn Ngữ văn ………………………………………....14 2.3.1.2 Nhận thức về khái niệm, các dạng thức, hình thức tổ chức của một hoạt động trải nghiệm gắn với môn học Ngữ văn………………………………………..………….…….14 2.3.1.2.1 Nhận thức về khái niệm hoạt động trải nghiệm……………………..…………...14 2.3.1.2.2 Nhận thức về các dạng, các hình thức tổ chức của hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn………………………………………..…………………………….15 2.3.2.1 Cần nâng cao khả năng lập kế hoạch về tổ chức hoạt động trải nghiệm gắn với môn Ngữ văn………………………………………..………………………..………………....21 2.3.2.1.1 Lập kế hoạch cho cả năm học ……………………………………..…………….21 2.3.2. 1.2 Lập kế hoạch hoạt động ………………………………………..…...………….21 2.3.2.2. Cần chú trọng công tác chuẩn bị khi tổ chức hoạt động trải nghiệm trong quá trình dạy học môn Ngữ văn……………………………………………..……………………….22 2.3.2.3. Cần quan sát và giải quyết kịp thời các tình huống phát sinh trong quá trình tổ chức hoạt động trải nghiệm ..……………………………………………………………..…….23 2.4. Giải pháp đối với học sinh……………………………………………..………….….25 7
  5. III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại…………………………………………..…………….25 1. Hiệu quả kinh tế (giá trị làm lợi tính thành tiền-nếu có)……………………...……..….25 2. Hiệu quả về mặt xã hội (giá trị làm lợi không tính thành tiền)………...…………….….25 2.1. Về mặt xã hội……………………………………………………………...……….….25 2.2. Về phía người dạy và nhà trường………………………………………...………..….25 2.3. Về phía người học………………………………………………………...……….….26 IV. Đề xuất, kiến nghị…………………………………….…………………...……….….26 1. Về phía Sở GD- ĐT………………………………………………………………………. 2. Về phía nhà trường……………………………………..…………………...……….….26 3. Đối với giáo viên…………………………………….……………………...…...…..….27 8
  6. V. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền………………………...………..….27 VI. Các phụ lục kèm theo sáng kiến…………………………………………...…...…..….28 1. Danh mục các tài liệu tham khảo…………………….……………………...……….….28 2. Bản mô tả chi tiết giải pháp kỹ thuật của sáng kiến:………………………...………….29 3. Ảnh minh hoạ sáng kiến được áp dụng trong thực tế…………………...…………...….29 4. Sản phẩm khác kèm theo…………………………………………………...………..….59 4.1. Các bản kế hoạch…………………………………….…………………...………..….59 4.2 Một số biểu mẫu dành cho học sinh trong quá trình tham gia hoạt động trải nghiệm…………………...…………………………………………………………..... …..70 4.3 Bộ phiếu đánh giá dành cho học sinh tham gia hoạt động trải nghiệm……...……..….75 I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: 1. Lĩnh hội tinh thần và thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu 9
  7. cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế từ năm học 2014 – 2015, với quan điểm chỉ đạo “Phát triển giáo dục đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, gắn lý luận với thực tiễn” và mục tiêu tổng quát là “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc có hiệu quả” Để thực hiện theo quan điểm chỉ đạo và mục tiêu trên, giáo viên phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực: cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống; kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học; vận dụng dạy học giải quyết vấn đề; vận dụng dạy học theo tình huống; sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo; chú trọng các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn; bồi dưỡng phương pháp học tập tích cực cho học sinh, tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ dạy học, đặc biệt là tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm gắn với môn học cho học sinh. Như vậy, tổ chức hoạt động trải nghiệm trong quá trình dạy học là một trong những hoạt động hữu ích hỗ trợ cho giáo viên trong việc thực hiện mục tiêu của Nghị quyết 29/NQ-TW. 2. Hoạt động trải nghiệm đang là một vấn đề quan tâm của ngành giáo dục nói riêng và toàn xã hội nói chung. Theo GS.TS Nguyễn Minh Thuyết- Tổng chủ biên chương trình sách giáo khoa THPT, chương trình mới có hai loại hoạt động trải nghiệm sáng tạo: Loại 1 là hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong từng môn học nhằm trải nghiệm kiến thức môn học trong thực tiễn. Loại 2 là hoạt động trải nghiệm sáng tạo mang tính tích hợp, trong đó học sinh dựa trên sự tổng hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực giáo dục và nhóm kỹ năng khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống và tham gia hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được phân bổ thời lượng giáo dục riêng trong Dự thảo Chương trình tổng thể thuộc loại 2 chiếm 105 tiết/ năm (riêng lớp 10 là 70 tiết). Theo PGS. TS Đỗ Ngọc Thống, Tổng chủ biên chương trình môn Ngữ văn mới khẳng định: Chương trình sẽ có đổi mới cả về mục tiêu, quy trình xây dựng, cũng như nội dung chương trình cho tới phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá. Mục tiêu của việc đánh giá được điều chỉnh trước hết là giúp giáo viên và nhà trường nắm được năng lực của từng học sinh, biết được học sinh của mình đang ở đâu và tiến bộ như thế nào qua từng giai đoạn. Hình thức và nội dung đánh giá là tất cả những cách thức có thể phục vụ cho việc đánh giá năng lực đọc, viết, nói, nghe, năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy của học sinh. Thậm chí, cách viết nhật ký, sổ tay văn học, facebook của học 10
  8. sinh cũng có thể xem là “sản phẩm” đánh giá. (Bài viết: Môn Ngữ văn mới ảnh hưởng đến giáo viên và học sinh như thế nào?) Như vậy, các “sản phẩm” trong hoạt động trải nghiệm của học sinh cũng có thể trở thành căn cứ để giáo viên đánh giá năng lực của người học. 3. Đối với người học, được tham gia hoạt động trải nghiệm là nhu cầu thiết tha và nguyện vọng chính đáng. Theo khảo sát với 200 học sinh khối 11 (năm học 2017 – 2018) trường THPT Trần Hưng Đạo, Nam Định, có 190/200 (95%) số học sinh mong muốn được tham gia các hoạt động trải nghiệm gắn với môn học Ngữ văn, ở các hình thức khác nhau, có 10/200 học sinh (5%) không bày tỏ ý kiến. 4. Việc giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường THPT đã có những chuyển biến tích cực. Giáo viên đã có nhiều nỗ lực trong đổi mới phương pháp giảng dạy, tuy nhiên việc đổi mới này chủ yếu dừng ở những giờ Hội giảng, Thi giáo viên giỏi hoặc kiểm tra nội bộ. Trong những giờ giảng dạy hàng ngày, giáo viên vẫn nặng về mục tiêu dạy kiến thức để chuẩn bị cho thi cử, chủ yếu vẫn dạy theo lối truyền thống, truyền thụ kiến thức một chiều. Điều này khiến học sinh chán nản, mệt mỏi khi học Văn, thấy môn Văn chỉ là những lý thuyết giáo điều, không có ý nghĩa với cuộc sống. Đặc biệt, trong hoàn cảnh hiện tại, có khoảng 70% học sinh không lấy môn Ngữ văn để xét tuyển thi Đại học nên càng “nói không” với môn học này. Do đó, đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức hoạt động trải nghiệm gắn với môn học này trở thành một vấn đề được quan tâm, để đưa văn học trở về với cuộc sống (nơi nó ra đời), khơi dậy tình yêu, sự say mê với văn chương trong học sinh. 5. Đối với môn Ngữ văn, việc tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh chính là phương pháp lấy hoạt động tự lực học tập của học sinh làm trung tâm. Sử dụng hình thức dạy học này sẽ đi theo được đúng tinh thần đổi mới phương pháp dạy học chuyển từ hệ hình dạy (tập trung vào việc dạy của người thầy) sang hệ hình học (tập trung vào việc học của HS) và phát huy được năng lực, phẩm chất của người học. 6. Sáng kiến được tạo ra từ kết quả khả quan thu được sau khi chúng tôi tiến hành tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho học sinh toàn trường (đặc biệt là các lớp học sinh học tự chọn là các môn KHXH) trong các năm học 2015 – 2016, 2016 – 2017, 2017 - 2018. Chúng tôi đề xuất thành sáng kiến kinh nghiệm mong nhận được sự chia sẻ, trao đổi, thảo luận, góp ý của đồng nghiệp và các chuyên viên, lãnh đạo cấp trên để có thêm động lực và niềm tin thực hiện nhiệm vụ cũng như đam mê nghề nghiệp của mình. 11
  9. II. Mô tả giải pháp: 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến: 1.1. Trước năm học 2015 - 2016, việc tổ chức hoạt động trải nghiệm gắn với môn học của giáo viên tổ Ngữ văn trường THPT Trần Hưng Đạo – TP Nam Định có những hình thức khá phong phú và đạt được những hiệu quả nhất định. Nhưng có thể thấy thực trạng như sau: 1.1.1. Hoạt động trải nghiệm đã được chú ý nhưng còn mang tính hình thức. Giáo viên còn đang loay hoay chưa hiểu rõ thế nào là trải nghiệm gắn với môn học, do đó lúng túng trong cách triển khai. Học sinh chỉ coi hoạt động trải nghiệm là hoạt động vui chơi, tham quan dã ngoại, có tham gia cũng được, không cũng chẳng sao, không có nhiều tác dụng với môn học và cuộc sống. 1.1.2. Hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn chưa có những chiến lược, chưa có kế hoạch trung hạn với hoạt động này. Giáo viên chưa xác định được cụ thể mục tiêu, chưa biết lập kế hoạch hoạt động trải nghiệm trong một năm học, mà chỉ tổ chức theo kiểu tự phát, theo những hứng thú nhất thời, hoặc theo những kế hoạch tác nghiệp (còn gọi là kế hoạch hành động) ngắn hạn. Học sinh chưa được định hướng rõ ràng, không biết mình cần đạt được mục tiêu gì, cần học được những kiến thức nào, nâng cao được năng lực gì, bồi dưỡng được những phẩm chất nào thông qua hoạt động trải nghiệm. Do đó, hoạt động trải nghiệm được tổ chức đôi khi còn sơ khoáng, làm cho có để báo cáo, đôi khi còn phản cảm làm mất đi vẻ đẹp vốn có của các tác phẩm văn học, đặc trưng của môn học, dẫn đến những sai lầm trong tư tưởng của học sinh. 1.1.3. Hoạt động trải nghiệm chủ yếu dừng ở các hình thức đơn giản: đóng kịch, tổ chức câu lạc bộ, tham quan dã ngoại…Các hình thức này cũng mới chỉ được tổ chức mang tính hình thức, chưa chuyên nghiệp. Tuy nhiên, các hoạt động này đã tạo được hứng thú, hấp dẫn nhất định với học sinh nhưng chưa thực sự phát huy hết được năng lực, phẩm chất của người học. 1.1.4. Nguồn kinh phí tổ chức các hoạt động này chủ yếu dựa vào sự đóng góp của học sinh và phụ huynh học sinh nên còn hạn chế, gây khó khăn cho quá trình thực hiện tổ chức. Do đó, hoạt động trải nghiệm chỉ dừng ở phạm vi lớp, lẻ tẻ ở một vài giáo viên, với quy mô, tính chất nhỏ lẻ, chưa thực sự tạo được hiệu quả đổi mới mạnh mẽ. 1.1.5. Sau quá trình tổ chức hoạt động trải nghiệm, tổ trưởng chuyên môn, giáo viên chưa có sự kiểm tra, đánh giá kết quả đạt được, tổng kết, rút kinh nghiệm. Do đó, người tổ chức chưa kiểm định được chất lượng của hoạt động, học sinh chỉ coi đây là một hoạt động vui chơi, các hoạt động lần sau hầu như chưa có sự thay đổi về chất lượng so với lần hoạt động trước. 12
  10. Tuy nhiên, không phải 100% giáo viên tham gia tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho học sinh, hoạt động này chỉ dừng ở con số khoảng 50% giáo viên tích cực, tâm huyết với nghề, khao khát được đổi mới. 1.2. Học sinh ngày nay rất thông minh, nhạy bén với cái mới, đặc biệt là năng lực tiềm ẩn chưa thể bộc lộ hết qua những tiết học chính thức đóng khung trong không gian lớp học. Các em có khả năng độc lập, tự chủ trong suy nghĩ và luôn muốn khẳng định cái tôi của mình. Như vậy, việc tổ chức hoạt động trải nghiệm cần được giáo viên lựa chọn phù hợp với nội dung, mục tiêu bài học và phát huy được nhiều nhất năng lực của học sinh. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến (trọng tâm) Sáng kiến chúng tôi đề xuất là giải pháp để nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường THPT nên phần giải pháp là trọng tâm. Hoạt động trải nghiệm trong môn học Ngữ văn gắn với các tiết dạy chính thức trong không gian lớp học (Trong 5 bước của Kế hoạch bài học thì hoạt động trải nghiệm xuất hiện ở Hoạt động 1: Hoạt động khởi động/ Xuất phát/ Trải nghiệm; Hoạt động 4: Vận dụng) và các hoạt động ngoài không gian lớp học với thời gian linh hoạt, nhưng trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm này chúng tôi chỉ tập trung vào những giải pháp nâng cao việc tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh ngoài giờ học lên lớp chính khóa. Trong dạy học môn Ngữ văn, hoạt động trải nghiệm gắn với các đối tượng là Hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn, giáo viên, học sinh nhưng chủ yếu là tổ trưởng chuyên môn, giáo viên và học sinh. Sáng kiến kinh nghiệm này đề cập đến những giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường THPT nên chủ yếu hướng đến hai đối tượng là tổ trưởng chuyên môn, giáo viên. 2.1. Giải pháp đối với Hiệu trưởng trường THPT 2.1.1. Cần xác định được sứ mạng, giá trị của nhà trường và có tầm nhìn chiến lược thấy được vai trò của hoạt động trải nghiệm với sự phát triển của nhà trường. - Mỗi nhà trường dựa trên việc phân tích đặc điểm tình hình, những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức, có thể xác định được sứ mệnh, tầm nhìn, hệ thống giá trị cơ bản khác nhau. Cũng theo đó, tùy thuộc vào hướng đi của mỗi nhà trường mà việc xác định vị trí, tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm gắn với môn học cũng khác nhau. - Tại trường THPT Trần Hưng Đạo, Ban giám hiệu nhà trường đã xác định chiến lược và tầm nhìn của nhà trường đến năm 2020 như sau: 13
  11. + Sứ mệnh: tạo dựng được môi trường học tập nền nếp, kỷ cương, có chất lượng giáo dục cao để mỗi học sinh đều có cơ hội phát triển tài năng và tư duy sáng tạo. + Tầm nhìn: Là một trong những trường có chất lượng giáo dục cao mà học sinh sẽ lựa chọn để học tập và rèn luyện, nơi giáo viên và học sinh cảm thấy tự hào và vững tin. + Hệ thống giá trị cơ bản của nhà trường: Sự tôn trọng; Tính sáng tạo; Tinh thần trách nhiệm; Khát vọng vươn lên. Trên cơ sở xác định sứ mệnh, tầm nhìn và hệ thống giá trị cốt lõi như vậy, nhà trường rất coi trọng hoạt trải nghiệm gắn với môn học cho học sinh. Vì đây là cơ hội để học sinh được phát triển tài năng và tư duy sáng tạo, để từ ngôi trường này các em bước những bước vững chắc vào cuộc sống rộng lớn trong tương lai. - Đối với môn Ngữ văn, nhà trường cũng xác định đây là một trong những bộ môn mũi nhọn, cần đổi mới và đi tiên phong trong hoạt trải nghiệm gắn với môn học. Nhà trường đã động viên, khuyến khích tổ chuyên môn Ngữ văn tổ chức hoạt trải nghiệm gắn với môn học cho học sinh toàn trường. Đó là hoạt động “Sân khấu hóa tác phẩm văn học” lần thứ nhất với hai vòng thi Sơ khảo (tổ chức tại trường) và vòng Chung kết (tổ chức tại nhà văn hóa 3/2) vào năm 2016. 2.1.2. Trong lập kế hoạch chiến lược tổng thể phải chú ý đến hoạt trải nghiệm các môn học nói chung và môn Ngữ văn nói riêng - Trong việc lập kế hoạch chiến lược tổng thể, Hiệu trưởng cần có sự quan tâm đích đáng đối với hoạt động trải nghiệm nói chung và hoạt động trải nghiệm gắn với môn Ngữ văn nói riêng. Vì đây là môn học có ý nghĩa quan trọng đến việc hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực của người học và quá trình ấy đặc biệt trở nên sâu sắc khi được gắn với hoạt động trải nghiệm. 2.2. Giải pháp đối với tổ trưởng chuyên môn 2.2.1. Có tầm nhìn để lập kế hoạch, tổ chức bồi dưỡng đội ngũ trong lĩnh vực hoạt động trải nghiệm vừa có tính tổng thể vừa cụ thể 2.2.1.1. Lập kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ trong lĩnh vực hoạt động trải nghiệm - Tổ trưởng chuyên môn phải là người hiểu được vấn đề, bản chất, vai trò, hình thức tổ chức của hoạt động trải nghiệm để có những chỉ đạo sát sao, động viên, khuyến khích, giúp đỡ tổ viên trong các hoạt động trải nghiệm gắn với môn học. Người tổ trưởng phải giúp cho tổ viên của mình nhận thấy tổ chức trải nghiệm cho học sinh là một yêu cầu bắt buộc đối với người giáo viên trong thời đại này. - Tổ trưởng chuyên môn phải phân tích tình hình, xác định năng lực, sở trường, nhận thức, tâm huyết, nhu cầu của mỗi thành viên trong tổ về hoạt động trải nghiệm để từ đó lập kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ về hoạt động trải nghiệm. Cách thức làm 14
  12. + Lập phiếu lấy thông tin trực tiếp từ giáo viên + Lập phiếu lấy thông tin giáo viên từ học sinh + Dựa trên sự quan sát đánh giá từ những hoạt động giảng dạy, tổ chức hoạt động trải nghiệm của giáo viên + Trên cơ sở có được các thông tin đầy đủ, chính xác, tổ trưởng phân tích tình hình theo biểu đồ SWOT (thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) rồi lập kế hoạch chiến lược, lập kế hoạch năm học và hoạt động. -Tổ trưởng chuyên môn lập kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ để tổ chức hoạt động trải nghiệm Trong kế hoạch phải trả lời được các câu hỏi sau: + Mục tiêu là gì? + Tên hoạt động cụ thể? + Thời gian thực hiện (bắt đầu, kết thúc) khi nào? + Địa điểm ở đâu? + Người thực hiện là ai? + Người/ đơn vị phối hợp? + Người giám sát là ai? + Nguồn lực cần thiết là bao nhiêu? + Dự kiến kết quả đạt được? 2.2.1.2. Tổ chức bồi dưỡng đội ngũ trong lĩnh vực hoạt động trải nghiệm - Tổ chức lớp tập huấn: Có 2 hình thức tổ chức: + Mời chuyên gia, giảng viên, giáo viên các trường bạn về tập huấn:  Có thể mời chuyên gia, giảng viên trong từng hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm về tập huấn. Nguồn kinh phí có thể xin từ quỹ cho hoạt động chuyên môn của nhà trường và có thể liên kết với các trường khác để giảm bớt nguồn chi phí hoặc tự giáo viên đóng góp.  Trường THPT Trần Hưng Đạo, ngày 18/12/2015 đã mời TS. Nguyễn Quang Trung, nguyên là Tổ trưởng tổ Khoa học xã hội trường Chuyên ngữ Hà Nội về tập huấn cho giáo viên môn Ngữ văn về tổ chức hoạt động “Sân khấu hóa các tác phẩm văn học”. Chúng tôi đã liên kết với trường THCS Lý Tự Trọng cùng tập huấn để giao lưu, học hỏi lẫn nhau, để hiểu thêm về đối tượng học sinh THCS và giảm bớt nguồn kinh phí cho hoạt động này. + Chính giáo viên trong tổ tập huấn cho nhau:  Giáo viên qua quá trình tự tìm hiểu, hoặc được tập huấn ở các lớp tập huấn của Sở GD-ĐT Nam Định, Bộ GD- ĐT, hoặc các chương trình dự án và qua quá 15
  13. trình làm thực tế đã rút được kinh nghiệm sẽ tập huấn lại cho đồng nghiệp. Cách làm này không tốn kém, lại hiệu quả, có ý nghĩa động viên, khích lệ vì các giáo viên đã thấy kết quả thực tế từ đồng nghiệp.  Tại trường Trần Hưng Đạo, ngày 11/10/2016, trong buổi sinh hoạt chuyên môn định kì, đồng chí tổ trưởng chuyên môn tổ Ngữ văn qua quá trình tổ chức cho học sinh trải nghiệm thực tế nhiều lần tại quê hương của cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến và của nhà văn Nam Cao đã tập huấn lại cho tổ về cách thức, kinh nghiệm tổ chức buổi trải nghiệm thực tế tại quê hương, nơi tưởng niệm của các văn nghệ sĩ. Sau buổi tập huấn, các giáo viên trong tổ hào hứng, rút kinh nghiệm và tổ chức nhiều chuyến đi thực tế cho học sinh. Đồng chí Đào Thị Ngọc Phương tổ chức cho học sinh trải nghiệm tại quê hương Nguyễn Trãi (Chí Linh, Hải Dương), đồng chí Tống Thị Thu Hường cho học sinh đi thành Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội), đồng chí Lê Thị Yến cho học sinh đi đền Trần (Nam Định)… - Tổ chức hội thảo: + Bước 1: Giáo viên tự bồi dưỡng qua quá trình tự nghiên cứu, học hỏi và quá trình thực hiện thực tế. Tổ trưởng chuyên môn có thể cung cấp đường link, trang web hướng dẫn giáo viên tìm hiểu, tổ chức hoạt động trải nghiệm. Trong quá trình tìm hiểu, tổ chức giáo viên có khó khăn gì tổ trưởng là người trực tiếp giúp đỡ hoặc phân công người có kinh nghiệm kịp thời giúp đỡ. + Bước 2: Tổ trưởng chuyên môn tổ chức hội thảo để giáo viên có thể chia sẻ, thảo luận thẳng thắn, tháo gỡ khó khăn, rút kinh nghiệm trong quá trình tìm hiểu và tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh. 2.2.2. Nâng cao chất lượng trong việc lập kế hoạch của tổ chuyên môn về Hoạt động trải nghiệm, tránh tình trạng hình thức 2.2.2.1. Lập kế hoạch trung hạn và kế hoạch năm học - Kế hoạch trung hạn và kế hoạch năm học là sự cụ thể hóa kế hoạch chiến lược, đưa ra các mục tiêu, chương trình hành động quan trọng trong giai đoạn kế hoạch của nhà trường. - Tổ trưởng chuyên môn phải căn cứ vào việc phân tích tình hình thực tế (giáo viên, học sinh, mục tiêu, đặc trưng môn học… có kế hoạch trung hạn (3 -5 năm) và từng năm học về hoạt động này, cụ thể với từng giai đoạn. Trong kế hoạch sẽ bao gồm những nội dung chính như sau: + Phân tích tình hình + Mục tiêu/ Chỉ tiêu + Hoạt động + Nguồn tài chính + Tổ chức thực hiện 16
  14. - Trong bản kế hoạch này có lẽ khó khăn nhất với tổ trưởng chuyên môn là vấn đề nguồn tài chính. Từ thực tế của trường THPT Trần Hưng Đạo, chúng tôi thấy nguồn tài chính sẽ có từ: Ngân sách nhà nước chi cho hoạt động giáo dục; Sự đóng góp từ phụ huynh học sinh trực tiếp tham gia; Các anh/ chị học sinh cũ của nhà trường, Các cơ quan, đoàn thể kết nghĩa; Các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh…Huy động được tài chính, chúng ta có điều kiện để tổ chức các hoạt động mang tính chuyên nghiệp. 2.2.2.2. Lập kế hoạch cho từng hoạt động trải nghiệm cụ thể của tổ chuyên môn - Kế hoạch hoạt động là kế hoạch về các mặt hoạt động cụ thể để triển khai kế hoạch năm học. - Với những hình thức trải nghiệm của học sinh được tổ chức trong phạm vi toàn khối hay toàn trường, tổ trưởng là người có trách nhiệm lập kế hoạch, phân công nhiệm vụ thể. - Kế hoạch sẽ bao gồm những nội dung chính như sau: + Mục tiêu + Các hoạt động + Thời gian + Người phụ trách + Kết quả cần đạt + Nguồn lực/ kinh phí 2.2.3. Chuẩn bị cơ sở vật chất, điều kiện thực hiện một cách chu đáo nhất trong điều kiện cho phép - Cơ sở vật chất: Phân công nhiệm vụ chuẩn bị cơ sở vật chất để thực hiện. Đó là các thiết bị công nghệ hiện đại sẵn có của nhà trường và của các lực lượng xã hội quan tâm đến giáo dục, đến nhà trường. Để đáp ứng yêu cầu của hoạt động, có thể huy động các thiết bị CNTT của giáo viên và học sinh trong quá trình thực hiện hoạt động. - Nguồn kinh phí: + Huy động nguồn kinh phí từ nhiều nguồn lực khác nhau trong nhà trường và xã hội + Trường THPT Trần Hưng Đạo trong quá trình chuẩn bị cơ sở vật chất, điều kiện thực hiện cho Đêm chung kết Hội thi “Sân khấu hóa tác phẩm văn học” lần thứ nhất (ngày 29/10/2016) được tổ chức tại sân khấu nhà văn hóa 3/2 đã huy động nguồn lực kinh phí tài trợ từ nhiều lực lượng khác nhau. Cụ thể: từ học sinh cũ là 20 triệu, từ công ty Du học Việt Phát, công ty Dệt may Sơn Nam là 7 triệu, nhà hát 3/2 là 5 triệu, phụ huynh học sinh đóng là tiền trang phục các lớp tự thuê khi tham gia hội thi, ngân sách chi cho hoạt động giáo dục của nhà trường là 5 triệu, Quỹ Đoàn niên cộng sản nhà trường là 7 triệu. - Nguồn lực: 17
  15. + Liên kết với các tổ chức, cơ quan, đoàn thể để huy động nguồn lực thực hiện hoạt động + Để tổ chức thành công Đêm chung kết Hội thi “Sân khấu hóa tác phẩm văn học” lần thứ nhất, chúng tôi đã phối kết hợp với Đoàn kịch nói Nam Định. Các anh chị em nghệ sĩ trong Đoàn kịch nói Nam Định đã giúp chúng tôi trau chuốt, gia công thêm để các tác phẩm đạt đến trình độ nghệ thuật nhất định, để học sinh hiểu thêm về quá trình lao động nghệ thuật, phát hiện những nhiều học sinh có năng khiếu nghệ thuật. Chúng tôi đã mời NSƯT Nguyễn Thùy Linh, trưởng đoàn kịch nói tham gia vào ban giám khảo để hỗ trợ thêm về mặt nghệ thuật ngay từ vòng sơ khảo, rồi đến đêm chung khảo. 2.2.4. Chú ý đến tính chuyên nghiệp trong quá trình tổ chức thực hiện - Quá trình tổ chức thực hiện theo đúng kế hoạch, mang tính chuyên nghiệp đến từng chi tiết nhỏ nhất (Điều này sẽ có tác động mạnh đến ý thức học tập nghiêm túc của học sinh trước mắt và cách làm việc chuyên nghiệp của các em sau này). Tuy nhiên, tùy vào tình hình thực tế có thể điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp. Người tổ trưởng chuyên môn phải có kĩ năng đưa ra những quyết định trong những thời điểm quan trọng, bất thường. - Trong quá trình tổ chức thực hiện, người tổ trưởng phải quan sát, kiểm tra kịp thời để đạt được kết quả dự kiến. - Phối kết hợp với các lực lượng xã hội có quan tâm đến giáo dục như: Đoàn thanh niên công sản nhà trường, Hội cha mẹ học sinh, phụ huynh học sinh các lớp, các tổ chức, cơ quan, đoàn thể…để thực hiện tốt hoạt động. Ví dụ: Trong quá trình tổ chức vòng sơ khảo và đêm chung kết Hội thi “Sân khấu hóa tác phẩm văn học” lần thứ nhất, chúng tôi đã phối hợp các lực lượng sau: Hội cha mẹ học sinh của nhà trường và các lớp tham gia thi; Đoàn kịch nói Nam Định; Lực lượng bảo vệ; Các cơ quan đoàn thể, để cuộc thi có thành công tốt đẹp. 2.2.5. Chú trọng khâu kiểm tra, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm - Kiểm tra, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm là khâu chúng ta hay bỏ qua trong quá trình thực hiện hoạt động trải nghiệm. Tổ trưởng, người thực hiện tổ chức hoạt động trải nghiệm cần phải có khâu kiểm tra đối với học sinh, đối với giáo viên của mình để đánh giá về kết quả thu được và rút kinh nghiệm để lần sau tổ chức các hoạt động tốt hơn. - Trong quá trình kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm phải được các câu hỏi: + Sản phẩm thu được sau hoạt động là gì? + Chất lượng sản phẩm đó như thế nào? + Năng lực của học sinh như thế nào? Có tiến bộ hơn so với trước đó? + Hoạt động đó có phù hợp môn học, bài học hay không? + Hoạt động đã thực hiện được mục tiêu đề ra hay chưa? 18
  16. + Những thành công và tồn tại của hoạt động? + Cần phải có những giải pháp như thế nào khắc phục những hạn chế cho hoạt động lần sau? 2.3. Giải pháp đối với giáo viên 2.3.1. Cần nâng cao nhận thức về hoạt động trải nghiệm trong quá trình dạy học môn Ngữ văn 2.3.1.1. Nhận thức về trách nhiệm của người giáo viên trong việc tổ chức hoạt động trải nghiệm gắn với quá trình dạy học môn Ngữ văn Tư tưởng, nhận thức sẽ chỉ đạo hành động, do đó giải pháp đầu tiên đối với người giáo viên là sự tự nhận thức. Giáo viên cần nhận thức được vấn đề dạy học là để phát triển năng lực người học. Nghị quyết số 29-NQ/TW (4/11/2013) về giáo dục đã nêu rõ: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”. Năng lực toàn diện của người học chỉ được bộc lộ và phát triển mạnh nhất trong các hoạt động trải nghiệm. Để đào tạo được những công dân toàn cầu trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0, người dạy cần phải cho học sinh tự học qua quá trình trải nghiệm. Do đó người giáo viên cần xác định tổ chức hoạt trải nghiệm gắn với môn học cho học sinh là yêu cầu bắt buộc chứ không phải mang tính khuyến khích, làm cũng được không làm cũng không sao. Trong những năm gần đây Bộ GD-ĐT, Sở GD-ĐT Nam Định, đã có những công văn hướng dẫn về cách tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhưng chủ yếu là khuyến khích tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo theo hướng ngoài giờ lên lớp. Thực tế nhiều nhà trường cũng đã khuyến khích môn Ngữ văn tổ chức những hoạt động trải nghiệm sáng tạo gắn với môn học (Cụ thể như trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, trường Trần Hưng Đạo, Nguyễn Khuyến, Mỹ Lộc, Tống Văn Trân…). Đây là một hướng đi đúng đắn đã tiệm cận với Dự thảo về chương trình trải nghiệm sáng tạo của Bộ GD-ĐT. Có lẽ trong Hướng dẫn giảng dạy bộ môn Ngữ văn năm học 2018 – 2019, Sở GD-ĐT Nam Định cần phải có những chỉ đạo cụ thể, quyết liệt hơn về vấn đề này để mỗi giáo viên phải nhận thấy tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh gắn với môn học là trách nhiệm của bản thân mình. 2.3.1.2. Nhận thức về khái niệm, các dạng thức, hình thức tổ chức một hoạt động trải nghiệm gắn với môn học Ngữ văn 2.3.1.2.1. Nhận thức về khái niệm hoạt động trải nghiệm - Theo Từ điển tiếng Việt: +“Trải nghiệm” được hiểu là trải qua, kinh qua. Để học hỏi con người cần có sự trải nghiệm, khám phá. Khám phá giúp ta nhận ra cái đúng, sai trong cuộc sống từ đó rút bài học quý giá hoàn thiện bản thân. 19
  17. + “Sáng tạo” là sự sản xuất, tạo ra, sinh ra một cái gì đó mà trước đây chưa hề có, chưa tồn tại. Sáng tạo là biểu hiện của tài năng trong lĩnh vực đặc biệt nào đó: năng lực tiếp thu tri thức, hình thành ý tưởng mới. Muốn xác định được mức độ sáng tạo cần phải phân tích các sản phẩm sáng tạo. + “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo” (hiện tại gọi là hoạt động trải nghiệm vì trong trải nghiệm đã có sáng tạo) là hoạt động giáo dục, trong đó dưới sự hướng dẫn và tổ chức của các nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất, nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. - Hoạt động trải nghiệm trong môn Ngữ văn phải gắn với đặc trưng và mục tiêu của môn học. Mỗi tác phẩm văn học là một tác phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ phản ánh cuộc sống con người, xã hội thông qua lăng kính tâm hồn, nhận thức của người sáng tạo. Mục tiêu của môn Ngữ văn ngoài việc hình thành năng lực giao tiếp, năng lực đọc viết và năng lực sáng tạo (thuộc nhóm năng lực chung) còn có trách nhiệm hình thành và phát triển ở học sinh năng lực chuyên biệt của môn học là năng lực tiếp nhận và tạo lập văn bản. Đây là những cơ sở để hình thành những dạng thức trải nghiệm ở học sinh trong môn Ngữ văn. 2.3.1.2.2. Nhận thức về các dạng, các hình thức tổ chức của hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn - Các dạng hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn Theo Th.S Lê Khánh Tùng (Trường Đại học Sư phạm Huế) hoạt động trải nghiệm trong môn Ngữ văn có những dạng cơ bản sau: + Trải nghiệm vật chất: Trải nghiệm vật chất là những trải nghiệm “có thể quan sát được”. Hoạt động này phù hợp với môn Ngữ văn vì nó bắt đầu từ sự quan sát của học sinh về các hiện tượng tự nhiên, xã hội khi các em tham gia vào đời sống cộng đồng; những cảm xúc được hình thành từ những điều nhìn thấy; các đồ dùng trực quan hay những âm thanh, hình ảnh được trình chiếu bằng các phương tiện khoa học kĩ thuật; mẫu (bài tập, tình huống…) trong dạy học, cuộc đời và sự nghiệp của các tác giả văn học hay những người nổi tiếng…Dù hoạt động của học sinh có thể trực tiếp hay gián tiếp qua phương tiện cụ thể nhưng hầu hết nó đều là sự tương tác trực tiếp của người học với một hoàn cảnh hay tình huống cụ thể. Dạng trải nghiệm này có thể tạo cảm xúc trực tiếp ngay trong thời điểm đang diễn ra hoạt động trải nghiệm, để lại ấn tượng mạnh làm xuất hiện động lực tích cực để hoàn thành nhiệm vụ học tập. + Trải nghiệm tinh thần: Trải nghiệm tinh thần có thể xem là dạng trải nghiệm phù hợp với những giá trị đặc trưng mà môn Ngữ văn có thể mang lại cho người học. Hoạt động trải nghiệm này “liên quan đến các khía cạnh trí tuệ và ý thức; là sự kết hợp giữa 20
  18. tư duy, nhận thức, trí nhớ, cảm xúc, ý chí và tưởng tượng. Nó bao gồm cả quá trình nhận thức và vô thức”. Để trải nghiệm, trước hết người học cần phải tưởng tượng ra bức tranh hiện thực được mô tả và mã hóa bằng ngôn ngữ hình tượng thông qua năng lực liên tưởng và tưởng tượng. Vì vậy trải nghiệm tinh thần trong trường hợp này tập trung cơ bản vào những hoạt động như “ướm thử số phận”; “nếm trải nghệ thuật” trong quá trình dạy học. Dạng trải nghiệm này ngoài việc huy động kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, trình độ thẩm mỹ cá nhân, quan niệm sống…nó còn đưa lại phẩm chất quý giá trong hành trình sống của con người đó chính là sự sẻ chia. Đây là phẩm chất khởi đầu để xây dựng đời sống tinh thần khoan dung, trí đức, có tác dụng chi phối và điều chỉnh các hành vi khiến con người trở nên thân thiện. + Trải nghiệm tình cảm: Trong lĩnh vực giáo dục, học sinh bằng môn Văn học mà hình thành những cảm xúc, tình cảm thẩm mỹ đã trở thành mục tiêu quan trọng được định dạng cho môn học. Đặc điểm của thời đại, những giá trị chân lý đạo đức được tôn vinh hay hạ thấp đều được các tác giả mã hóa trong hành vi, bản chất của các nhân vật tham gia vào hiện thực đặt ra trong tác phẩm thuật. Thế giới tình cảm của con người bắt đầu từ lòng biết ơn, sự rung động, những cảm xúc hay thậm chí là những ấn tượng được thu nhận qua trực giác cá nhân. Chính vì thế trải nghiệm tình cảm trong môn Ngữ văn được ví như những hạt giống gieo trên mảnh đất màu mỡ, phì nhiêu. Sự trải nghiệm này sẽ hình thành lối sống tích cực, chủ động, sẻ chia giữa con người với con người và với môi trường xung quanh. + Trải nghiệm xã hội: Các hoạt động trải nghiệm xã hội cho “con người kỹ năng và thói quen cần thiết để sống trong xã hội của mình, chia sẻ kinh nghiệm, hình thành những chuẩn mực, phong tục, giá trị, vai trò xã hội, biểu tượng và ngôn ngữ”. Môi trường xã hội có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Vì vậy việc trải nghiệm xã hội trong môn Ngữ văn được kì vọng. Trong thực tế, các hình thức tham quan những danh lam thắng cảnh, đến quê hương của những nhà thơ, nhà văn, sưu tầm văn học địa phương, câu lạc bộ sáng tác văn học, tìm hiểu các loại hình nghệ thuật truyền thống, các hình thức biểu diễn hay sân khấu hóa tác phẩm…đều được xem là cơ hội để người học hóa thân, tham gia trực tiếp vào các hoạt động có chủ điểm gắn liền với hoạt động giáo dục môn học. Trải nghiệm xã hội qua môn học Ngữ văn là cơ hội phát triển tâm lý, nhận thức của học sinh, cải thiện các kỹ năng sống, biến quan tâm chia sẻ thành phẩm chất, biết xác định các tiêu chí phù hợp để phát triển bản thân hài hòa trong mối quan hệ với điều kiện sống cụ thể của từng cá nhân. + Trải nghiệm chủ quan: Đây là trải nghiệm dựa trên sức mạnh của trực giác cá nhân khi tương tác với môi trường. Kết quả của trải nghiệm này đưa lại cho chủ thể những cảm xúc hay trạng thái tâm lý phù hợp với nội dung trải nghiệm. Xuất phát từ kinh 21
  19. nghiệm cá nhân nên kết quả trải nghiệm có khả năng không chính xác. Tuy nhiên nhờ vào những phản hồi người học vẫn có thể tiếp tục điều chỉnh nhận thức, rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá. + Trải nghiệm mô phỏng: Người học sẽ thể hiện năng lực qua việc giải quyết các tình huống giả định. Với đặc điểm như vậy, hoạt động mang tính chất mô phỏng và tái hiện đời sống trong nội dung văn học đều được xem là cơ hội cho học sinh trải nghiệm. Theo cách này hầu hết việc sử dụng các phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại cũng đáp ứng được yêu cầu học tập, trong đó hợp lý và hiệu quả nhất có thể sử dụng máy tính. Sự cụ thể hóa các vấn đề trừu tượng thông qua xử lý của giáo viên khiến học sinh có cái nhìn chính xác và rõ ràng hơn về đối tượng nhận thức. Ngoài ra, việc sắm vai hay tổ chức những trò chơi trí tuệ liên quan đến môn học cũng là cách trải nghiệm mô phỏng hiệu quả. Sự mô phỏng khiến học sinh có khả năng xử lí tốt một tình huống tương tự trong cuộc sống. - Các hình thức tổ chức của hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn Theo các chuyên gia nghiên cứu về giáo dục và qua quá trình thực tiễn tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT Trần Hưng Đạo, chúng tôi đề xuất một số những hình thức cơ bản sau: + Hình thức câu lạc bộ:  Câu lạc bộ sẽ tập hợp những học sinh có năng khiếu, có niềm đam mê với văn chương. Tại đây các em sẽ được giao lưu, học hỏi, chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về môn Ngữ văn mà mình đam mê. Các em sẽ được bộc lộ những ý tưởng sáng tạo, được làm chủ những hoạt động của mình và bạn bè. Qua đó, ngọn lửa đam mê văn học của các em sẽ bùng cháy mãnh liệt hơn. Ngoài việc phát triển cảm xúc thẩm mỹ, kỹ năng cảm thụ văn học, các em còn phát triển các thêm một số kỹ năng khác như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lắng nghe và biểu đạt ý kiến, kỹ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kỹ năng viết bài, kỹ năng chụp ảnh, kỹ năng hợp tác, làm việc nhóm, kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề…  Trong các câu lạc bộ, giáo viên sẽ là người định hướng, hướng dẫn học sinh lập kế hoạch theo chủ đề cho phù hợp với các đối tượng tham gia, theo sát các em trong quá trình hoạt động, hỗ trợ kịp thời những khó khăn nảy sinh trong quá trình hoạt động. Quy trình để tổ chức câu lạc bộ văn học như sau:  Bước 1: GV trong tổ Ngữ văn phụ trách câu lạc bộ sẽ tham khảo ý kiến của cả tổ chuyên môn rồi đưa ra các danh mục, chủ đề hoạt động.  Bước 2: Tổ chức truyền thông quảng bá về câu lạc bộ  Bước 3: Cho học sinh đăng ký theo sở thích và sở trường  Bước 4: Tổ chức phỏng vấn để tuyển chọn học sinh vào câu lạc bộ 22
  20.  Bước 5: Họp các thành viên của câu lạc bộ, bầu các chức danh (Chủ tịch, Phó chủ tịch câu lạc bộ, thư ký…), xây dựng kế hoạch theo chủ đề  Bước 6: Thông qua Hội cha mẹ học sinh, kêu gọi sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của các bậc phụ huynh, các cơ quan đoàn thể  Bước 7: Học sinh lập kế hoạch cụ thể theo các chủ đề, phân công công việc và thực hiện. Các thày cô trong tổ Ngữ văn là người tư vấn tham mưu.  Câu lạc bộ có thể sinh hoạt theo các chủ đề gắn với chương trình Ngữ văn THPT hoặc gắn với đời sống của văn học đương đại. Câu lạc bộ có thể sinh hoạt theo một số chủ đề như: Ca dao em và tôi (chủ yếu dành cho học sinh lớp 10 nghiên cứu, sưu tầm, sáng tác về ca dao, dân ca…); Một thời đại thi ca (chủ yếu dành cho học sinh lớp 11 nghiên cứu, sưu tầm, sáng tác, phổ nhạc… về thơ lãng mạn 1932 – 1945); Hình ảnh người lính trong văn học (chủ yếu dành cho học sinh lớp 12 nghiên cứu, sưu tầm, sáng tác, phổ nhạc, vẽ tranh …gắn với những tác phẩm về người lính); Mãi mãi tuổi 20 (dành cho tất cả đối tượng học sinh tìm hiểu, sưu tầm, sáng tác thơ, truyện, phổ nhạc, vẽ tranh… về 2 cuốn nhật kí của Nguyễn Văn Thạc và Đặng Thùy Trâm, cùng các tác phẩm nói về thế hệ trẻ trong chiến tranh học trong chương trình và nằm ngoài chương trình)… + Hình thức sân khấu hóa tác phẩm văn học:  Các tác phẩm văn học sẽ được học sinh lựa chọn để chuyển thể thành kịch bản sân khấu và biểu diễn tiểu phẩm dựa trên kịch bản đã chuyển thể. Qua hình thức sân khấu, người học phải làm sáng tỏ tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Học sinh có thể lựa chọn nhiều hình thức khác nhau nhưng không làm mất đi đặc trưng, vẻ đẹp của tác phẩm văn học.  Học sinh có thể chuyển thể những tác phẩm văn học vốn là loại hình nghệ thuật bằng ngôn từ thành những loại hình nghệ thuật khác như: kịch, múa, nhạc kịch, hát, chèo…Trong Hội thi “Sân khấu hóa các tác phẩm văn học” lần thứ nhất của trường THPT Trần Hưng Đạo năm 2016, bài kí Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) đã được học sinh lớp 12A5 chuyển thành thể múa đương đại; Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền (trích: tiểu thuyết Những người khốn khổ - V.Huy-gô) được học sinh lớp 11B1 chuyển thành hình thức nhạc kịch, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng được học sinh lớp 12B1 chuyển thành kịch…Sự chuyển thể sang các hình thức phong phú đã đem đến sự bất ngờ, nhiều cảm xúc cho người xem và chuyển tải được nhiều nhất những thông điệp nghệ thuật của tác phẩm.  Học sinh có thể chọn một trích đoạn hoặc cả tác phẩm tùy thuộc vào yêu cầu và tính chất của hoạt động. 23
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2