intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Đề xuất một số biện pháp tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ Đọc hiểu văn bản

Chia sẻ: Thanhbinh225p Thanhbinh225p | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:30

267
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Đề xuất một số biện pháp tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ Đọc hiểu văn bản được nghiên cứu với với mong muốn góp một phần vào việc hình thành cho HS sự hứng thú, tìm tòi tích cực, khao khát khám phá kiến thức mới trong mỗi giờ học Đọc văn nói riêng giờ Ngữ văn nói chung để sau này trở thành những công dân đủ tài, đủ đức phục vụ cho đất nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Đề xuất một số biện pháp tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ Đọc hiểu văn bản

  1. SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT KIỆM TÂN Mã số: .......................... SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO SỰ HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Hồng Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý giáo dục Phương pháp dạy học bộ môn: x Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác Có đính kèm: Mô hình Phần mềm Phim ảnh Hiện vật khác 1
  2. Năm học: 2014-2015 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên : Nguyễn Thị Ngọc Hồng 2. Ngày tháng năm sinh : 10- 01-1987 3. Nam,Nữ : Nữ 4. Địa chỉ : Gia Tân 2 - Thống Nhất – Đồng Nai 5. Điện thoại : (ĐTDĐ): 01664855796 6. Fax Emai: ngochongkt124@yahoo.com 7. Chức vụ : Giáo viên. 8. Đơn vị công tác : Trường THPT Kiệm Tân – Huyện Thống Nhất Tỉnh Đồng Nai. II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO 1. Học vị : Cử nhân Ngữ Văn 2. Năm nhận bằng : 2009. 3. Chuyên ngành đào tạo : Ngữ văn. III. KINH NGHIỆM GIÁO C: 1. Lĩnh vực chuyên môn giảng dạy môn Ngữ văn 2. Số năm giảng dạy kinh nghiệm : 5 năm. 2
  3. Mục lục Trang PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài 5 II. Mục đích nghiên cứu 5 III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5 IV.Phương pháp nghiên cứu 6 PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận 7 II. Cơ sở thực tiễn 7 III. Các biên pháp góp phần tạo hứng thú cho học sinh trong giờ Đọc hiểu 9 1. Đọc diễn cảm văn bản 9 2. Sử dụng lời bình hay hợp lí 12 3. Lồng ghép trò chơi trong giờ học Ngữ văn: 13 4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ học Đọc hiểu 15 5. Vận dụng linh hoạt trong vận dụng những phương pháp dạy học tích cực 17 IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 25 PHẦN KẾT LUẬN I. Bài học kinh nghiệm 26 II.Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm 26 III. Khả năng ứng dụng và triển khai 27 IV. Những kiến nghị đề xuất 27 Tài liệu tham khảo 28 3
  4. Phần Mở đầu: I. Lí do chọn đề tài Luận ngữ viết: “ Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng say mà học”. Vậy niềm yêu thích say mê chính là động lực thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi người. Vì thế với vai trò tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của HS, hơn ai hết việc phải tìm ra nhiều biện pháp để phát huy cao nhất tính tích cực sáng tạo của người học, gây niềm hứng thú say mê học tập ở các em chính là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi người GV. Nhưng phải thừa nhận một thực tế rằng trong thời kì đất nước đang chuyển mình hội nhập quốc tế, bên cạnh rất nhiều mặt tích cực thì cũng nảy sinh không ít những khó khăn thách thức. Theo đó, chất lượng môn Văn và vai trò môn văn trong nhà trường hiện nay đang có quá nhiều bất ổn. Đa số học sinh coi nhẹ vai trò của môn Văn trong chương trình học và cả trong định hướng trong tương lai của các em. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến tâm lí học sinh, làm giảm niềm yêu thích hứng thú của các em với môn Ngữ văn. Càng học lên lớp trên, các em càng ít hứng thú học môn Ngữ văn. Hay nói cách khác, môn Văn trở thành gánh nặng, áp lực nặng nề, thậm chí trở nên nhàm chán và nỗi ám ảnh trong học sinh. Đứng trước bối cảnh đó, bên cạnh việc trau dồi nâng cao năng lực chuyên môn vững vàng, người dạy Ngữ văn cần thiết phải có nghệ thuật đứng lớp cao hơn, linh hoạt hơn, sáng tạo hơn mới có thể tạo được niềm hứng thú cho học sinh. Làm thế nào để thổi vào tâm hồn các em sự yêu thích, niềm hứng thú môn Văn, đưa môn Văn trở về đúng quỹ đạo thực sự của việc học văn là học làm người, bởi “Văn học là nhân học” là trách nhiệm của người giáo viên đứng lớp và lương tâm của nhà giáo? Trong ba phân môn của bộ môn Ngữ văn được giảng dạy trong nhà trường Phổ thông - Đọc văn, Tiếng Việt, Làm văn thì Đọc văn chiếm một vị trí khá quan trọng, có vai trò to lớn để học sinh được bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, năng lực thẩm mĩ đồng thời cũng có thêm kiến thức để thực hành Làm văn và học Tiếng Việt. Xuất phát từ những vấn đề trên, với mong muốn góp một phần vào việc hình thành cho HS sự hứng thú, tìm tòi tích cực, khao khát khám phá kiến thức mới 4
  5. trong mỗi giờ học Đọc văn nói riêng giờ Ngữ văn nói chung để sau này trở thành những công dân đủ tài, đủ đức phục vụ cho đất nước, tôi đã quyết định chọn đề tài " Đề xuất một số biện pháp góp phần tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Đọc hiểu văn bản” II. Mục đích nghiên cứu Qua việc nghiên cứu để viết sáng kiến kinh nghiệm " Đề xuất một số biện pháp góp phần tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Đọc hiểu văn bản ", tôi cũng đã tự nâng cao năng lực chuyên môn của bản thân, đồng thời qua đây cũng muốn trao đổi với đồng nghiệp để làm sao tạo hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ Đọc hiểu, không thể để tiếp diễn tình trạng học sinh coi giờ học Đọc hiểu là giờ "ru ngủ", học sinh chỉ việc ngồi nghe thầy cô "thôi miên", tay ghi chép, về nhà học thuộc, đi thi chép y nguyên lại lời thầy, nhiều khi có không đồng ý với một số nhận định của thầy đã "áp đặt" cũng không dám nói. Hi vọng đề tài này sẽ được đồng nghiệp đón nhận để góp phần cải thiện tình trạng dạy học Ngữ văn hiện nay. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Có nhiều biện pháp góp phần tạo hứng thú cho học sinh THPT trong giờ học Đọc hiểu, nhưng trong phạm vi đề tài này tôi chỉ tập trung vào các biện pháp thông dụng nhất: đọc diễn cảm văn bản, sử dụng lời bình hay hợp lí, lồng ghép trò chơi, ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực, gắn bài giảng với thực tế đời sống. Dù vấn đề này cũng đã có người nghiên cứu, song đây là kinh nghiệm riêng mà tôi đã thực hiện và đạt được kết quả tốt, chất lượng bộ môn tăng lên rõ rệt. IV.Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, tôi đã thu thập thông tin, đúc kết kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy Ngữ văn trên nhiều đối tượng HS trong các năm học trước và thực nghiệm đối chứng trong năm học 2014-2015 với các lớp 10C2, 10 S6, 11C5, 11C9 5
  6. Phần nội dung I. Cơ sở lí luận Luật Giáo dục, Điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lí và giáo viên về biên soạn đề kiểm tra, xây dựng thư viện câu hỏi và bài tập cũng đã viết: "Hoạt động giáo dục chỉ đạt hiệu quả cao khi tạo lập được môi trường sư phạm lành mạnh, bầu không khí thân thiện, phát huy ngày càng cao vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của HS". Theo Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2000, “ hứng thú là sự ham thích”. Rõ ràng khi có được sự say mê hứng thú, con người sẽ làm việc tự nguyện có hiệu quả hơn, thành công hơn. Hứng thú còn có tác dụng chống lại sự mệt mỏi. Học sinh cũng vậy. Khi có hứng thú, các em sẽ kiên trì làm bài tập, không nản chí trước câu hỏi khó, không những thế còn hăng hái trả lời, nhận xét bổ sung câu trả lời của bạn, chủ động nêu câu hỏi, đưa ra những thắc mắc để các bạn cùng trả lời, thầy cô giải thích thấu đáo, thậm chí còn có cả sự sáng tạo. Vì vậy, mỗi thầy cô khi lên lớp, không phải "chăm chăm ôm bảng giảng", quan trọng hơn người thầy cô phải không ngừng tìm tòi nhiều biện pháp hơn nữa để gây hứng thú cho học sinh, có như vậy mới phát huy được tính tích cực chủ động, độc lập sáng tạo của người HS đúng như định hướng giáo dục hiện nay. II. Cơ sở thực tiễn Chúng ta phải thừa nhận rằng hiện nay học sinh ít còn hứng thú với những giờ học môn Ngữ văn nói chung và giờ học Đọc hiểu nói riêng, chủ yếu là học đối phó. Những giờ học Đọc hiểu có khi chỉ là giờ thông tin kiến thức một chiều, khô cứng và nhạt nhẽo. Học xong một giờ đọc văn, học sinh thu được cái mà họ cần quá ít ỏi, thậm chí cá biệt có em không thu hoạch được gì. Chính điều đó dẫn đến kiến thức thực tế về văn học của các em còn nghèo nàn, dùng từ ngữ trong giao tiếp một cách thiếu chính xác, đặc biệt trong các bài Tập làm văn thường mắc lỗi chính tả, câu văn 6
  7. viết chưa đúng ngữ pháp, cách diễn đạt vụng về, sáo mòn, lệ thuộc vào sách tham khảo. Số lượng hồ sơ khối C thi tuyển sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp trong cả nước cũng ngày một giảm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh THPT không hứng thú trong giờ học Đọc văn, theo tôi có những nguyên nhân cơ bản sau: * Về chương trình phân môn Đọc văn có một số điều bất cập. Thiết kế chương trình chưa hợp lý lặp đi lặp lại những gì đã học ở cấp dưới, nặng về lý thuyết thiếu thực hành đã gây nhàm chán và lãng phí thời gian mà lại không phát huy sự tìm tòi khám phá những điều mới mẻ của học sinh. Có nhiều tác phẩm lượng kiến thức cần khai thác rất lớn (như “Hạnh phúc một tang gia” - Vũ Trọng Phụng, “Chí Phèo” - Nam Cao, hay các tác phẩm văn xuôi trong chương trình Ngữ văn lớp 12) nhưng thời lượng phân phối lại lại rất ít (2 tiết/bài), giáo viên chỉ lo dạy không kịp bài thì làm sao tạo được hứng thú cho HS. * Về phía GV: Trong những năm gần đây, ngành luôn đề cao việc đổi mới phương pháp dạy học, nhưng thật sự việc đổi mới ở các giáo viên dạy Ngữ văn còn gặp khá nhiều khó khăn, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy cũng chưa đạt được kết quả mong muốn, do vậy ngoài các tiết dự thi, thao giảng, dạy tốt, thanh tra, đa phần tiết dạy Ngữ văn là tiết "dạy chay", thầy vẫn giữ phương pháp cũ là thuyết giảng, thầy đọc trò chép. Chính điều đó đã làm giảm rất nhiều sự hào hứng, sáng tạo của HS. Một nguyên nhân nữa xuất phát từ trình độ chuyên môn của giáo viên, nhất là đa số những giáo viên mới ra trường, mỗi khi lên lớp chưa thật làm chủ kiến thức, chỉ lo làm sao truyền thụ hết những gì được soạn từ giáo án thấy đã khó, nói chi đến việc mở rộng, nâng cao, kích thích sự hứng thú của học sinh. * Về phía HS: Môn Ngữ văn là một môn học khó, mang tính đặc thù. Khác với các môn học khác, kết quả của tiết học được đánh giá rõ ràng, rành mạch, còn kết quả thu được của môn văn dường như khó định nghĩa thật sự, và tất nhiên những cảm xúc, rung động khi tiếp cận một văn bản không phải ai cũng dễ dàng hiểu và đạt được. Trong mỗi giờ học Đọc hiểu, học sinh phải phát huy trí tưởng tượng sáng tạo, năng lực cảm thụ thì mới có thể hiểu được những tầng nghĩa sâu xa của tác phẩm - Yêu cầu này, không phải học sinh nào cũng có đủ khả năng. Hơn nữa, đa phần HS hiện nay đã 7
  8. quen với lối học thụ động, đi thi thì cũng chỉ chép lại lời thầy, bởi các em có tâm lí nếu làm khác đi chưa chắc gì thầy đã chấm điểm cao, do vậy cũng chẳng muốn bộc lộ suy nghĩ cảm thụ riêng của bản thân làm gì. Mặt khác, mặt trái của nền kinh tế thị trường làm cho học sinh trở nên thực dụng hơn khi chọn ngành nghề cho tương lai, trong lúc môn Văn là môn rất khó làm kinh tế và có thu nhập cao như các ngành nghề khối Tự nhiên. Các em vẫn chưa thực sự thấm nhuần được vai trò của môn Văn trong cuộc sống. Đó cũng là lí do đẽ hiểu vì sao môn Văn trở thành “ môn phụ từ môn chính?” Vào đầu năm học 2014-2015, tôi được phân công giảng dạy dạy môn Ngữ văn tại 4 lớp 10C2, ,10S6, 11C5, 11C9. Qua khảo sát ở các lớp giảng dạy tôi nhận thấy điểm chung là học sinh ít có hứng thú với giờ Ngữ văn nói chung và giờ Đọc hiểu văn bản nói riêng. Từ đó, tôi luôn băn khoăn trăn trở làm sao để học sinh yêu thích môn Ngữ văn hơn, làm sao để kết quả học tập của học sinh được cải thiện hơn. Và hơn hết là làm sao tạo cho học sinh niềm hứng thú, đam mê môn Văn? Một câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản nhưng là nỗi niềm của tất cả các giáo viên dạy văn hiện nay. III. Các biện pháp góp phần tạo hứng thú cho học sinh trong giờ Đọc hiểu văn bản 1. Đọc diễn cảm văn bản Mỗi văn bản văn học cần có một giọng điệu đọc riêng. Tác phẩm trữ tình đọc khác với tác phẩm tự sự, đọc một đoạn đối thoại khác với đoạn độc thoại nội tâm, đọc văn tả khác với văn kể, văn tường thuật, đọc văn chính luận khác với tùy bút ... Giáo viên dạy Ngữ văn phải nắm bắt đúng giọng điệu đó. Bên cạnh đọc đúng quy tắc ngữ pháp, đúng với đặc trưng thể loại, điều quan trọng là giáo viên phải thể hiện được cảm xúc của tâm hồn, sự xúc động chân thành của bản thân. Có như vậy việc đọc diễn cảm văn bản mới có hiệu quả thực sự, tạo ra những bất ngờ hứng thú, giúp các em có những cảm nhận mới mẻ, kích thích khả năng liên tưởng tưởng tượng để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học. Trong những năm học vừa qua, khi dạy tiết đọc văn, tôi luôn chú trọng việc đọc diễn cảm văn bản. Nhất là với những tiết học đầu năm, giáo viên cần đọc mẫu và hướng dẫn HS đọc đúng, diễn cảm văn bản. Việc đọc mẫu trước của GV rất quan 8
  9. trọng, không chỉ đơn thuần là hướng dẫn học sinh cách đọc đúng, đọc hay mà còn phải bước đầu gieo vào tâm hồn học sinh những cảm xúc, rung động trước cái đẹp, cái hay của tác phẩm, trước mảnh đời của nhân vật. Qua đó, học sinh hiểu bài học hơn và khuyến khích lòng say mê ngôn ngữ, hình ảnh và câu chuyện đối với các em. Cách đọc phù hợp nhằm tái hiện hình tượng, khắc họa nhân vật, nắm bắt tình tiết, hình dung bức tranh được vẽ bằng nghệ thuật ngôn từ khiến văn bản trở thành một thế giới sinh động, có hồn nhất trong cảm nhận bước đầu của học sinh. Tôi còn nhớ rõ khi tôi vừa đọc xong bài “Tự tình” - CTNV 11, đã chứng kiến những niềm xúc động thật sự của các HS, chưa cần tìm hiểu văn bản mà HS đọc hiểu và cảm thông được rất nhiều với tâm trạng của nữ sĩ vừa đau buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch. Hoặc khi hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản “Tiễn dặn người yêu” Ngữ văn 10 tập 1, đã có rất nhiều học sinh phải lặng mình trước nỗi đau thân phận của cô gái và chàng trai khi phải đối diện với bất hạnh trong tình yêu. Khi đọc văn bản “Tiễn dặn người yêu” xong có một vài bạn rơm rớm nước mắt vì xúc động trước sự bất hạnh của cô gái và tình yêu cao thượng, chân thành, sâu đậm của chàng trai. Giáo viên chỉ cần đọc đúng giọng điệu của câu thơ thôi cũng đủ ngân lên trong lòng học sinh những cảm xúc, rung động khó tả : Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở Đợi mùa nước đỏ cá về Đợi chim tăng ló hót gọi hè Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi góa bụa về già… Không chỉ với thơ, mà trong những tiết học văn xuôi, việc đọc diễn cảm văn bản cũng rất quan trọng. Với Hai đứa trẻ; đọc giọng chậm rãi, thư thả, với “Hạnh phúc của một tang gia” phải đọc đúng với giọng hài hước châm biếm, đả kích, hay khi đọc đoạn mở đầu truyện ngắn “Chí Phèo” phải làm sao diễn tả được đúng tâm trạng nhân vật lúc đó vừa uất ức, vừa khát khao muốn hòa nhập với đồng loại. 2. Sử dụng lời bình hay hợp lí 9
  10. Một lời bình hay, đúng lúc có khả năng đánh thức liên tưởng cho học sinh, là con đường dẫn dắt học sinh thâm nhập tự nhiên vào thế giới nghệ thuật của văn bản, khơi gợi ở các em niềm yêu thích thơ văn. Dẫn dắt HS tìm hiểu câu thơ: “Chiếc vành với bức tờ mây / Duyên này thì giữ, vật này của chung” trong đoạn trích “Trao duyên” - CTNV lớp 10, sau khi đặt câu hỏi cho HS khai thác, cảm thụ, GV có thể sử dụng một lời bình ngắn: Câu thơ diễn tả việc Thúy Kiều đã trao chiếc vành với bức tờ mây - những kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, nhưng nhịp thơ ngắt đôi như tiếng nấc nghẹn ngào, bao nhiêu đau đớn dồn vào hai tiếng "của chung" đơn sơ ấy. Đau đớn vì duyên thì trao mà tình không trao nổi, như muốn giữ những kỉ vật tình yêu ấy làm của chung cho cả chị nữa, với chị đó là cả một tình yêu đầu tiên, chân thành, say đắm nhất. Hai từ “của chung” sao mà xót xa, cay đắng, ngậm ngùi, của chung ấy lẽ ra chỉ của riêng nàng với Kim Trọng. Hai từ “ của chung” đã diễn tả tinh tế sự mâu thuẫn giằng xé, sự đấu tranh giữa lí trí và tình cảm, một bên muốn trao hết cho Vân nhưng sâu thẳm đáy lòng lại muốn giữ lại chút gì cho riêng mình. Sức nặng của câu thơ như dồn hết vào cả hai từ này. Lời bình là sản phẩm của sự xúc động sâu sắc, sự rung động của tâm hồn trước vẻ đẹp của tác phẩm văn chương, nó cần thiết trong một giờ đọc văn. Tuy nhiên, người giáo viên không được lạm dụng, bởi lẽ, nhiệm vụ chính của GV là phải tổ chức để HS tự cảm thụ và lĩnh hội giá trị của tác phẩm văn học. Giáo viên chỉ nên đưa ra lời bình khi học sinh cảm thụ chưa tới, chưa xác đáng, đầy đủ. Khi bình giảng nên chú ý thay đổi ngữ điệu linh hoạt để gây chú ý, cách giải thích thuyết phục có tính hài hước, thuyết giảng kết hợp với phương tiện dạy học, với trao đổi ngắn với học sinh tạo nên sự cộng hưởng trong tiếp nhận cảm thụ. Có những lời bình của giáo viên sẽ khắc sâu mãi trong tâm trí của mỗi học sinh . Vì thế, giáo viên cũng nên kết hợp nắm bắt phản hồi của học sinh từ ánh mắt, nét mặt, không khí lớp học để có điều chỉnh kịp thời. Có như vậy việc bình giảng của GV mới có tác dụng hỗ trợ, khắc sâu ấn tượng thẩm mĩ cho học sinh. Khi hướng dẫn học sinh tiếp cận bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu, giáo viên đã đưa ra những lời bình độc đáo, đúng thời điểm, làm cho học sinh như được chìm vào 10
  11. dòng cảm xúc của tác giả Xuân Diệu với một tình yêu đời, yêu nguời tha thiết đến cuồng si “ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Có lẽ trước Xuân Diệu chưa có ai dám có cách so sánh táo bạo như ông. Một sự so sánh cực kì táo bạo, mạnh dạn đến bất ngờ, táo bạo đến thú vị. Từ “ ngon “ không chỉ gợi được vẻ đẹp, sự quyến rũ bên ngoài mà còn gợi được sức sống từ bên trong. Với Xuân Diệu thì mùa xuân, tình yêu, tuổi trẻ là phần ngon nhất, đẹp nhất, quyến rũ nhất của cuộc đời 3. Lồng ghép trò chơi trong giờ học Ngữ văn: Nếu làm một việc gì đó liên tục sẽ cảm thấy rất mệt mỏi, nhàm chán, huống chi HS phải ngồi suốt 45 phút, tay ghi chép bài, tai lắng nghe lời giảng, đầu óc tập trung suy nghĩ nếu không có phút nghỉ ngơi sẽ cảm thấy rất mệt, dẫn tới mất tập trung, chỉ mong hết giờ. Như vậy thì làm sao có hứng thú được. Do vậy GV cần điều khiển lớp học thật khoa học, sinh động, tạo ra bầu không khí thi đua tích cực giữa các em. Và việc lồng ghép trò chơi vào giờ học Đọc văn cũng là một cách đáng chú ý. Có nhiều trò chơi có thể lồng ghép vào giờ học . Đọc văn nhằm tạo không khí lớp học sôi nổi, tạo hứng thú học tập cho các em. Tôi sẽ trình bày một số trò chơi dễ áp dụng mà hiệu quả lại cao: - Lồng ghép trò chơi điền bảng, thảo luận nhóm. Việc lồng ghép trò chơi điền bảng, thảo luận nhóm khi dạy các bài Khái quát, Ôn tập khá phù hợp và đạt hiệu quả cao. Thay vì cho HS lập bảng thống kê bình thường, trong giờ Ôn tập, GV chia lớp thành các nhóm khác nhau, cử đại diện bốc thăm, từng thành viên thay nhau giải quyết công việc. Như thế các HS sẽ rất hào hứng, và không khí lớp học cũng sôi nổi lên rất nhiều. Minh họa: bài Ôn tập văn học - CTNV lớp 11, GV chuẩn bị: + Chia lớp thành 4 nhóm. + 4 phiếu bốc thăm - mỗi phiếu có 3 đơn vị kiến thức. + Bảng thảo luận nhóm, 4 bút lông viết bảng xanh, đỏ, tím, đen ứng với 4 nhóm 1, 2, 3, 4 11
  12. Tác phẩm, tác giả Năm Thể loại Nghệ thuật Nội dung chính sáng tác 1 Xuất dương lưu biệt - Phan Bội Châu 2 Hầu trời - Tản Đà 3 Vội vàng - Xuân Diệu 4 Tràng giang - Huy Cận 5 Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử 6 Tương tư - Nguyễn Bính 7 Chiều xuân - Anh Thơ 8 Chiều tối - Hồ Chí Minh 9 Từ ấy - Tố Hữu 10 Về luân lý xã hội ở nước ta - Phan ChâuTrinh 11 Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh 12 Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức - Nguyễn An Ninh + Các nhóm HS nhận phiếu bốc thăm và tiến hành thảo luận để tìm ra kiến thức phù hợp với các ô trống - ghi nội dung vào các bảng thảo luận nhóm, cử đại diện lên dán bảng lớn Trò chơi này giúp HS thống kê được kiến thức đã học mà không gây nhàm chán, lại huy động được sự tham gia của cả lớp, tạo sự gắn bó giữa các thành viên - Lồng ghép trò chơi ô chữ. Do đặc trưng của giờ Đọc văn nên việc vận dụng trò chơi cần ở mức độ vừa phải, thường áp dụng ở mục Tìm hiểu chung. Minh họa: Khi dạy bài “Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn” (Ngô Sĩ Liên) - CTNV lớp 10, thay vì dùng phương pháp phát vấn để HS lần trả lời, GV yêu cầu HS gấp sách lại, từ sự chuẩn bị bài ở nhà, yêu cầu HS hoàn thành ô chữ. GV lần lượt nêu các câu hỏi cho các nhóm thực hiện, bắt đầu từ nhóm 1, các nhóm có quyền lựa chọn ô hàng ngang, nếu nhóm nào không trả lời được theo thời gian qui định thì phải 12
  13. nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò chơi, nhóm nào tìm được kiến thức ở ô hàng ngang thì được cộng điểm, tìm được ô hàng dọc khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ là đội thắng cuộc. Các câu hỏi: - Hàng ngang 1: Bộ chính sử lớn nhất Việt Nam thời Trung đại có tên là gì? (18 chữ cái) - Hàng ngang 2: Bộ Đại Việt sử kí toàn thư ghi chép lịch sử nước ta từ thời kỳ nào? (8 chữ cái) - Hàng ngang 3: Bộ Đại Việt sử kí toàn thư ghi chép lịch sử nước ta đến thời kỳ nào? (15 chữ cái) - Hàng ngang 4: Bộ sử kí tiêu biểu mà Lê Văn Hưu để lại là gì? (11 chữ cái) - Hàng ngang 5: Bộ sử kí tiêu biểu mà Phan Phu Tiên để lại là gì? (11 chữ cái) - Hàng ngang 6: Sử gia Ngô Sĩ Liên sống ở triều đại nào? (2 chữ cái) - Hàng ngang 7: Năm 1442 Ngô Sĩ Liên đã thi đậu gì? (6 chữ cái) - Hàng ngang 9: Ngô Sĩ Liên đã vâng lệnh nhà vua nào để biên soạn Đại Việt sử kí toàn thư? (11 chữ cái) - Cụ thể về bảng ô chữ: 1. ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ 2. HỒNG BÀNG 3. LÊ THÁI TỔ LÊN NGÔI 4. ĐẠI VIỆT SỬ KÍ 5. TỤC BIÊN SỬ KÍ 6. LÊ 7. TIẾN SĨ 8. LÊ THÁNH TÔNG Sau khi HS đã hoàn thành ô chữ, GV củng cố kiến thức về tác giả Ngô Sĩ Liên và bộ “Đại Việt sử kí toàn thư”. Như vậy, HS cũng nhớ bài hơn, mà tiết học thật sự sôi động. - Lồng ghép trò chơi đọc - bình thơ, văn. 13
  14. Với các bài thơ gồm nhiều khổ, GV chia lớp thành nhiều nhóm tương ứng với các khổ hay. Đại diện nhóm đọc diễn cảm, rồi bình đoạn đó, các nhóm khác nhận xét, chấm điểm, GV kết luận ý đúng. Qua việc vận dụng trò chơi này với bài Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) - CTNV lớp 11, tôi thấy HS rất hứng thú với giờ học, nhiều em có những lời bình hay, súc tích. Không những thế, các giờ học đó còn có thể giúp chúng ta phát hiện ra những em năng khiếu, đồng thời rèn kĩ năng giao tiếp cho HS rất thuận lợi. Qua thực tế, chúng ta thấy rằng việc lồng ghép các trò chơi vào giờ học Đọc văn mang lại hiệu quả tốt. Nhưng cũng cần lưu ý rằng khi lồng ghép trò chơi phải có sự linh hoạt, hợp lí, đúng mức, không xáo trộn quá nhiều không gian lớp học, kết thúc trò chơi nên khen thưởng đội thắng cuộc, và phạt nhẹ nhàng dí dỏm đối với đội thua cuộc. 4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ học Đọc hiểu Một trong những biện pháp góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học là ứng dụng CNTT. Bên cạnh những điều bất cập khi ứng dụng CNTT trong giờ học Ngữ văn như: giáo viên không phân định rạch ròi giữa nội dung giảng và nội dung HS cần ghi chép. Chính điều này đã gây nên sự lúng túng cho HS, HS cứ mải miết ghi mà không tập trung để cảm thụ tác phẩm; GV quá lạm dụng CNTT trình chiếu mà không khai thác hết, biến giờ dạy thành giờ triển lãm ảnh, không phát huy được óc quan sát, tưởng tượng, sự cảm thụ ngôn từ của HS; lại có trường hợp GV lựa chọn hình ảnh, âm thanh minh họa không phù hợp, dẫn đến HS chỉ ấn tượng những gì được xem, nghe mà quên mất điều quan trọng hơn là phải tập trung cảm thụ khai thác tác phẩm văn học qua hệ thống ngôn từ; thì nhờ việc ứng dụng CNTT, những giờ Ngữ văn sinh động hẳn, HS hoạt động tích cực hơn, đem lại những hiệu quả đáng ghi nhận. Minh họa: Ở chương trình ngữ văn lớp 10, khi dạy bài “Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn” (Ngô Sĩ Liên) nhờ ứng dụng CNTT, GV có thể dẫn dắt giới thiệu bài mới bằng cách trình chiếu hình ảnh đội quân Mông Cổ hùng mạnh "vó ngựa Mông Cổ đi tới đâu, cỏ không mọc được đến đó", sự mở rộng lãnh thổ không 14
  15. ngừng của đế quốc Mông Cổ, bản đồ Đại Việt nhỏ bé, đội quân nhà Trần, hội nghị Diên Hồng, vị Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn để HS liên kết, suy ngẫm: với một đội quân Mông Cổ hùng mạnh như vậy, đã bành trướng gần hết châu Á, châu Âu lại thất bại tới 3 lần trước một đất nước Đại Việt nhỏ bé; nguyên nhân từ đâu? chính từ sự đoàn kết đồng tâm hiệp lực của quân dân nhà Trần, của một vị tướng tài là Hưng Đạo Đại Vương. Trong quá trình đọc hiểu, GV cũng có thể trình chiếu cho HS xem đoạn phim ngắn về cuộc đời Hưng Đạo Đại Vương, về cách dạy con của Người, thì chắc chắn mỗi HS sẽ tự rút ra cho mình một bài học về đạo đức làm người: bài học về một nhân cách vĩ đại đã dẹp thù riêng để tận trung với nước. Sau khi học xong bài “Hồi trống Cổ Thành” (trích “Tam quốc chí”), để củng cố bài GV ứng dụng CNTT cho HS xem một đoạn phim trích “Tam quốc chí” liên quan đến bài học. HS sẽ nhìn thấy hình ảnh trực quan về các nhân vật mình vừa tìm hiểu, như vậy kiến thức sẽ được khắc sâu rất nhiều. Ở chương trình ngữ văn lớp 11, khi dạy bài “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) - CTNV lớp 11, nhờ ứng dụng CNTT, GV sẽ cho HS xem nhiều tư liệu về Hàn Mặc Tử, về xứ Huế, nghe bài ngâm thơ rất diễn cảm thì chắc chắn HS sẽ dễ dàng cảm thụ, thấu hiểu được niềm thiết tha yêu đời ham sống của tác giả dù hoàn cảnh bất hạnh đằng sau niềm hoài niệm mơ tưởng. Với bài “Từ ấy” (Tố Hữu), GV trình chiếu cho HS xem một đoạn phim tư liệu ngắn về lễ kết nạp Đảng viên mới trang nghiêm, từ đó, HS có cơ sở thực tế để hiểu đúng, cảm thụ tốt niềm vui sướng, say mê tột bậc của nhà thơ Tố Hữu khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng. Trong phạm vi đề tài này, tôi không thể dẫn ra hết tất cả những giờ dạy ứng dụng CNTT đã thành công, nhưng mỗi chúng ta đều đã thừa nhận việc ứng dụng CNTT trong giờ dạy Ngữ văn văn nói chung và trong giờ Đọc hiểu mang lại những hiệu quả thiết thực, góp phần quan trọng để tạo sự hứng thú cho HS. 5. Vận dụng linh hoạt những phương pháp dạy học tích cực Theo PGS.TS Vũ Hồng Tiến, phương pháp dạy học tích cực là thuật ngữ dùng để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, chứ không phải tập trung tập trung vào người dạy. 15
  16. Có nhiều phương pháp dạy học tích cực mà GV có thể sử dụng như vấn đáp, đặt và giải quyết vấn đề, hoạt động nhóm, đóng vai, động não - Tiến hành phương pháp vấn đáp, GV đặt ra câu hỏi để HS trả lời, HS cũng có thể tranh luận với nhau và với cả GV, qua đó lĩnh hội được bài học. Lưu ý GV không nên đặt câu hỏi quá nhiều, nên đặt câu hỏi có hệ thống, bám sát yêu cầu bài học, phù hợp với trình độ HS, tạo điều kiện cho tất cả các em được tham gia bằng cách đặt ra câu hỏi, để các em suy nghĩ, trao đổi, chỉ định trả lời, yêu cầu em khác nghe bổ sung, nhận xét. GV nên có những khuyến khích, động viên để tạo hứng thú cho học sinh trả lời, hướng học sinh từng bước khám phá vấn đề. - Với phương pháp hoạt động nhóm, GV sẽ chia lớp thành từng nhóm nhỏ, nhóm có thể được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, HS tập trung thảo luận hoàn thành yêu cầu, cử đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần. 16
  17. Một số hình ảnh thảo luận nhóm trong tiết Vội Vàng của hs lớp 11C9 17
  18. Một số hình ảnh thảo luận nhóm tác phẩm Tấm Cám ở lớp 10 S6 18
  19. - Tiến hành phương pháp đóng vai, HS sẽ thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định hoặc cho học sinh dàn dựng lại một tác phẩm văn học theo ý tưởng và sự sáng tạo của mình - Tiến hành phương pháp động não , GV đưa ra các thông tin làm tiền đề, HS sẽ nảy sinh được nhiều ý tưởng, giả định về vấn đề đó. Minh họa: Khi hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, giáo viên đã yêu cầu học sinh tự dàn dựng lại tác phẩm theo sự sáng tạo của bản thân trên cơ sở bám sát nội dung cốt truyện với mục đích cho học sinh tự định hướng tiếp cận theo năng lực của mình. Học sinh đã làm việc rất nhiệt tình và sáng tạo, thích thú và có những kỉ niệm đẹp khi tham gia tái hiện lại tác phẩm Chí Phèo. Giáo viên đã chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm sẽ lên kế hoạch và soạn kịch bản, nộp lại sau một tuần để giáo viên duyệt, sau đó có them một tuần để chuẩn bị cho biểu diễn. Tiết diễn kịch xem như một tiết ngoại khóa ngoài trời cho các em thể hiện năng lực và kĩ năng diễn xuất của mình. Hoạt động ngoại khóa tác phẩm Chí Phèo lớp 11C5 19
  20. Hình ảnh hoạt động ngoại khóa tác phẩm Chí Phèo lớp 11C5 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2