intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT

Chia sẻ: Thuhuong8890ls@gmail.com Thuhuong8890ls@gmail.com | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

80
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của khi nghiên cứu vấn đề này là tìm được những hướng tiếp cận, phương pháp dạy học tích cực nhằm tạo được hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh khi học môn Ngữ văn nói chung và Ngữ văn THPT nói riêng. Đồng thời, qua thực trạng, tìm hiểu được nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng tới việc học văn của học sinh, từ đó đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú học tập môn Ngữ văn, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng học tập môn Văn cho học sinh THPT.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT

  1. PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Đổi mới căn bản, toàn diện là yêu cầu của giáo dục hiện nay. Việc xây dựng, áp  dụng những hướng tiếp cận, phương pháp mới trong dạy học bộ môn để nâng  cao hiệu quả dạy và học là yêu cầu phải được giải quyết. Đặc biệt, với xu  hướng học lệch, học theo ban, chọn ngành nghề theo khối hiện nay tạo ra rất  nhiều bất cập trong việc lựa chọn môn học. Các môn xã hội có xu hướng bị coi  nhẹ. Môn Ngữ văn cũng không nằm ngoài xu hướng ấy. Thời gian qua, Ngành giáo dục đã  thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở  tất cả các môn học trong đó có môn Ngữ văn. Tuy nhiên, điều khiến cho những  giáo viên dạy văn băn khoăn, trăn trở hơn hết đó là học sinh thường lựa chọn các  môn học tự nhiên với mục tiêu chọn trường, ngành, nghề sau này dễ dàng và  thuận lợi hơn. Nhiều học sinh cho rằng Ngữ văn là môn khoa học xã hội, tính  ứng dụng không cao, không thiết thực với cuộc sống, công việc. Từ đó, dẫn đến  tình trạng chán học văn, hoặc học mang tính đối phó. Học sinh thích học văn  ngày càng ít đi. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có đổi mới phương pháp,  tìm hướng tiếp cận mới trong dạy học môn Ngữ văn, tạo hứng thú, nâng cao  năng lực học tập cho học sinh, giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp,  biết cảm thông, yêu thương chia sẻ với những số phận, cuộc đời thông qua mỗi  trang sách, thông qua từng tác phẩm là điều rất cần thiết. “Văn học là nhân  học” học văn là để hình thành nhân cách con người. Và Ngữ văn là môn học  quan trọng giúp học sinh có kỹ năng giao tiếp ứng xử trong cuộc sống. Tìm  hướng tiếp cận, đổi mới phương pháp, từ đó tạo hứng thú trong học tập cho  học sinh, khơi gợi, đánh thức niềm đam mê với văn học, tìm về với giá trị đời  sống tâm hồn của con người là vấn đề được đặt ra và cần phải giải quyết. Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không  bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực lớn thúc đẩy, nuôi  dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi chúng ta. Với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của  học sinh, hơn ai hết giáo viên phải tìm, xây dựng hướng tiếp cận mới, phương 
  2. pháp mới để phát tính tích cực sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng  phấn, khơi dậy đam mê học tập ở học sinh. Ngày nay, với xu thế, tác động của cơ chế thị trường, nhiều giá trị nhân văn,  nhiều yếu tố văn hóa đang trở nên bị coi nhẹ, bị lai tạp, giao thoa, mai một. Từ  thực tế ấy, đòi hỏi giáo viên nói chung và đặc biệt là các thầy cô – giáo viên dạy  Ngữ văn nói riêng phải nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình – những  người nghệ sĩ tâm hồn là vô cùng quan trọng và nhiều thử thách. Thực tế ấy  cũng khiến cho việc tổ chức, dẫn dắt học sinh tiếp cận tác phẩm văn chương,  tìm hiểu các giá trị nhân văn, đạo lí truyền thống càng trở nên nhọc nhằn hơn.  Nó đòi hỏi người giáo viên Ngữ văn ngoài chuyên môn vững vàng cần có tâm  thế tốt, luôn nhiệt huyết, yêu nghề, luôn trau dồi đổi mới phương pháp để tạo  được hứng thú học tập, nâng cao chất lượng giáo dục. Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, tạo tâm thế hưng phấn, tích cực cho  học sinh trong học tập bộ môn nói chung và môn Ngữ văn nói riêng là đổi mới  phương pháp dạy học, dạy học theo hướng lấy hoạt động học tập của học sinh  làm trung tâm, học trò là người chủ động khám phá, lĩnh hội kiến thức, người  thầy đóng vai trò là người tổ chức, chỉ đạo. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm những  hướng tiếp cận bài học linh hoạt, khoa học, hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập  của học sinh trong dạy học Ngữ văn là rất cần thiết. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp kinh nghiệm giảng dạy thực tiễn  của bản thân, với mong muốn, trong từng bài dạy, trong từng giờ học văn, học  sinh luôn hứng thú, chủ động, yêu thích môn học, từ đó góp phần nâng cao hiệu  quả dạy và học tôi chọn đề tài: “Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú  cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT ”. 2. Mục đích nghiên cứu           Mục đích của tôi khi nghiên cứu vấn đề này là tìm được những hướng  tiếp cận, phương pháp dạy học tích cực nhằm tạo được hứng thú học tập môn  Ngữ văn của học sinh khi học môn Ngữ văn nói chung và Ngữ văn THPT nói  riêng. Đồng thời, qua thực trạng, tìm hiểu được nguyên nhân, các yếu tố ảnh  hưởng tới việc học văn của học sinh, từ đó đề xuất một số biện pháp tạo hứng  thú học tập môn Ngữ văn, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng học tập môn  Văn cho học sinh THPT. Hơn nữa, qua đề tài này tôi mong rằng có thể góp phần nào đó trong việc  bồi  dưỡng tâm hồn người học, như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Học 
  3. văn là làm cho tâm hồn mỗi con người phong phú thanh cao và yêu đời hơn,  người học văn sẽ có ý thức được và không bao giờ là người thô lỗ, cục cằn”. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu – Nghiên cứu, tìm hiểu các phương pháp dạy học, hướng tiếp cận bài học nhằm  tạo sự hứng thú học tập cho học sinh. – Đề xuất biện pháp, hướng tiếp cận bài học tạo được hứng thú trong học tập  từ đó nâng cao hiệu quả dạy và học.     4.Đối tượng và khách thể nghiên cứu           Tìm hiểu phương pháp, hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú trong  việc dạy và học môn Ngữ văn  ở THPT. 5. Phạm vi nghiên cứu – Phạm vi kiến thức: Chương trình Ngữ v ăn bậc THPT. – Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Học sinh các lớp được phân công giảng dạy tại  nhà trường đang công tác. – Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09 năm 2015 đến tháng 03 năm 2016. 6. Phương pháp nghiên cứu: – Phương pháp điều tra (Phỏng vấn, phiếu điều tra). – Phương pháp đối chứng. – Phương pháp nghiên cứu tài liệu. – Phương pháp kiểm tra. 7. Lịch sử đề tài Vấn đề nghiên cứu Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi  học môn Ngữ văn bậc THPT đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu  như : “Đổi mới phương pháp dạy học trong các trường đại học, cao  đẳng đào tạo giáo viên trung học cơ sở”. Hà Nội tháng 9/2003. “Các phương pháp dạy học hiệu quả”. NXB trẻ, 2001. M. Iacoplep. “Phương pháp và kỹ thuật lên lớp ở trường phổ  thông”. NXB Giáo dục, 1975 – 1978.
  4. Tuy nhiên các tác giả chỉ chỉ đề cập ở mức độ khái quát, có tính chất lí luận,  chứ chưa đi sâu tìm hiểu Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học  sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT một cách cụ thể. 8. Cấu trúc của SKKN           Gồm : 3 phần                    Phần I : Đặt vấn đề                     Phần II : Nội dung                    Phần III : Kết luận, kiến nghị   PHẦN II : NỘI DUNG Chương 1  CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI  1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1.  Cơ sở lí luận chung Bác Hồ đã từng căn dặn các thế hệ học sinh : “Non sông Việt Nam có trở nên  tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quanh để sánh  vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở  công học tập của các em.” Và như Jacques Delors đã nói : “Giáo dục là một  trong những công cụ mạnh nhất mà chúng ta có trong tay để đào tạo nên tương  lai”. Đảng và Nhà nước ta đã luôn xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Chúng ta đang trên đà đổi mới, hội nhập cùng xu thế chung của thời đại. Cùng  với sự đổi mới đó, đòi hỏi nền giáo dục nước ta có sự đổi mới, đổi mới toàn  diện để bắt kịp thời đại. Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và giáo   viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục” (Nghị quyết TW II –  Khóa  VIII). Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: “Phát triển giáo dục là quốc sách  hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng  chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó,   đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý  là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng  giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập  
  5. nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng  giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành  mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”. Luật Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích tích  cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp  học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm,  rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại  niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Như vậy, vai trò của giáo dục là cực kì quan trọng, liên quan đến sự phát triển  bền vững của một quốc gia. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn nhận thức rất  rõ điều đó. Trong xu thế mới, điều kiện phát triển mới, thời kỳ công nghiệp  hóa, hiện đại hóa đất nước giáo dục càng được ưu tiên hàng đầu. Để đáp ứng  nhu cầu mới, nhất thiết phải đẩy mạnh đổi mới, đổi mới toàn diện giáo dục.  Trong đó, việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là với môn Ngữ văn là  điều rất cần thiết. Trong đó nhiệm vụ đầu tiên là làm cách nào để người học  luôn sẵn tâm thế và yêu thích môn học, từ đó say mê, chủ động tích cực coi học  tập là nhiệm vụ hàng đầu. 1.1.2. Các khái niệm cơ bản Với đề tài đã lựa chọn “Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học  sinh khi học môn Ngữ văn lớp 11 THPT” trước hết tôi muốn làm rõ một số vấn  đề: Hướng tiếp cận, hứng thú, hứng thú học tập là gì? – Theo Từ điển tiếng Việt (nhà xuất bản trẻ, 2002), hướng được hiểu là phía,  mặt, ngoảnh  về. Ở đây chúng ta có thể hiểuhướng là phương thức, phương  hướng, góc độ, chiều hướng tiếp cận vấn đề. – Theo Từ điển tiếng Việt (nhà xuất bản trẻ, 2002, tiếp cận là gần kề, sát cạnh. –  Từ những năm 90 của thế kỉ trước, khi so sánh quốc tế về thiết kế chương  trình giáo dục, người ta thường nêu lên hai cách tiếp cận chính: + Thứ nhất  là tiếp cận dựa vào nội dung hoặc chủ đề và thứ hai là tiếp cận dựa  vào kết quả đầu ra. Để ngắn gọn xin gọi cách 1 là tiếp cận nội dung và cách 2  là tiếp cận kết quả đầu ra. + Tiếp cận nội dung là cách nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của một lĩnh  vực/môn học nào đó. Tức là tập trung xác định và trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn  học sinh  cần biết cái gì? Cách tiếp cận này chủ yếu dựa vào yêu cầu nội dung  học vấn của một khoa học bộ môn nên thường mang tính “hàn lâm”, nặng về lý 
  6. thuyết và tính hệ thống, nhất là khi người thiết kế ít chú đến tiềm năng, các giai  đoạn phát triển, nhu cầu, hứng thú và điều kiện của người học. + Thứ hai là tiếp cận kết quả đầu ra, là cách tiếp cận nêu rõ kết quả  những  khả năng hoặc kĩ năng mà học sinh mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai  đoạn học tập trong nhà trường ở một môn học cụ thể. Nói cách khác, cách tiếp  cận này nhằm trả lời câu hỏi : chúng ta muốn học sinh biết và có thể làm được  những gì? Như vậy, có thể hiểu hướng tiếp cận là phương pháp, cách thức, góc độ tìm  hiểu làm rõ một vấn đề, nội dung nào đó và hướng đến đạt được mục đích đề  ra. Ở đây chúng ta có thể hiểu đó là hướng tiếp cận bài học, hướng tìm hiểu nội  dung nhằm tạo hứng thú, say mê kích thích khả năng học tập của học sinh. – Theo Đại từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin năm  1998, hứng thú có hai nghĩa, đó là “Biểu hiện của một nhu cầu, làm cho chủ thể  tìm cách thỏa mãn, tạo ra khoái cảm, thích thú và huy động sinh lực để cố gắng  thực hiện” và “hứng thú là sự ham thích”. Qua khái niệm trên ta thấy rằng: hứng thú có nghĩa là tâm trạng vui vẻ, thích  thú, hào hứng của con người đối với một hoạt động nào đó. Ở đây là hứng thú,  chủ động tích cực học tập nói chung và với môn Ngữ văn nói riêng. Khi có được sự say mê, thích thú con người sẽ làm việc có hiệu quả hơn, dễ  thành công và thành công nhanh hơn, bởi lẽ hứng thú còn chính là động lực thúc  đẩy hoạt động của con người đi sâu vào bản chất của đối tượng nhận thức mà  không dừng lại ở bề ngoài của hiện tượng, nó đòi hỏi con người phải hoạt  động tích cực, chịu khó tìm tòi hoặc sáng tạo. Hứng thú có nhiều tác dụng trong  cuộc sống nói chung và trong dạy học nói riêng. 1.1.3. Các góc độ tác động của sự hứng thú 1.1.3.1. Tác động của hứng thú trong cuộc sống – Hứng thú có tác dụng chống lại sự mệt nhọc và những cảm xúc tiêu cực, duy  trì trạng thái tỉnh táo ở con người. – Hứng thú định hướng và duy trì tính tích cực của con người, làm con người  chịu khó tìm tòi và sáng tạo. – Hứng thú đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển và hình thành nhân cách con  người, nó tạo nên khả năng cho hoạt động trí tuệ, thẩm mỹ và các dạng hoạt  động khác. –  Hứng thú làm cho con người xích lại gần nhau hơn.
  7. 1.1.3.2. Tác động của hứng thú trong dạy học Dạy học là một nghệ thuật, người dạy – giáo viên là những “kỹ sư tâm hồn”,  sản phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt – con người (nhân  cách). Nó không hề giống với bất kỳ một ngành nghề nào. Điều đó đặt ra  những  yêu cầu khắt khe đối với giáo viên. Theo William A. Ward thì: “ Người thầy trung bình chỉ biết nói, Người thầy giỏi biết giải thích, Người thầy xuất chúng biết minh họa, Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng” Từ đó ta thấy việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh,   người học là điều cực kì quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ: “Chúng ta không thể  dạy ai làm bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ khám phá điều đó” (Theo  Galileo Galilei). Cho nên, nếu khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động  cơ học tập tích cực, giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở  ngại để đạt kết quả học tập tốt nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức  một cách chủ động và tự giác, không bị ép buộc,… Khi hứng thú học tập, người học sẽ: – Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của bạn, thích  phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra. – Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa hiểu rõ ràng. – Chủ động vận dụng kiến thức kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập  trung chú ý vào vấn đề đang học. – Kiên trì hoàn thành bài tập, không nản chí trước những tình huống khó khăn… – Hứng thú còn giúp học sinh tích cực học tập qua những cấp độ từ thấp đến  cao: + Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của bạn… + Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết  khác nhau về một vấn đề… + Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu. Tóm lại, khi học sinh hứng thú với bài học, với môn học sẽ tạo không khí thi  đua học tập sôi nổi, tích cực, say mê học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu… đây chính là 
  8. một trong những tiền đề dẫn đến sáng tạo và tài năng. Và tôi tin rằng quá trình  dạy học nhất định sẽ đạt được kết quả cao.           “Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất  của việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài  năng.”(Viện KHGD – “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.) 1.2. Cơ sở thực tiễn đề tài Việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ, yêu cầu bắt buộc đối với  giáo dục nước ta hiện nay, đặc biệt đối với hệ thống giáo dục phổ thông, trong  đó có việc dạy và học môn Ngữ văn. Những năm gần đây, việc tích cực đổi  mới, đổi mới căn bản, toàn diện trong giáo dục của chúng ta đã đem lại nhiều  kết quả khả quan. Tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều khó khăn, bất cập và cần tích  cực đổi mới hơn nữa. Dạy và học môn Ngữ văn ở các trường THPT chưa đạt  được yêu cầu chất lượng và hiệu quả như mong muốn. Đặc biệt, sự mến mộ  yếu thích của người học đối với môn học không còn nhiều mặn mà. 1.2.1. Về phía giáo viên Theo tôi, có rất nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy học bộ  môn Ngữ văn hiện nay trong các trường THPT, từ việc thiết kế chương trình  chưa hợp lý : nặng về lý thuyết thiếu thực hành đã gây nhàm chán và lãng phí  thời gian mà lại không phát huy sự tìm tòi khám phá những điều mới mẻ của  học sinh; việc thiếu thốn về trang thiết bị dạy học như tranh ảnh minh họa, đồ  dùng trực quan, dụng cụ nghe nhìn, tài liệu tham khảo… cho giáo viên cũng như  học sinh khiến cho việc áp dụng dạy học theo phương pháp mới gặp nhiều khó  khăn. Một trong những nguyên nhân cơ bản nữa là việc vận dụng đổi mới phương  pháp vào giảng dạy ở môn Ngữ văn chưa đáp ứng yêu cầu. Chính vì thế, dẫn  đến việc dạy – học chay tràn lan, đơn điệu, nặng về thuyết giảng một chiều,  để trò ghi chép rồi học thuộc ý của thầy. Cách học theo lối thụ động đó sẽ  không gây được sự hào hứng tìm tòi, khám phá những điều mới mẻ trong mỗi  giờ học. Do đó, những kiến thức học sinh thu nhận được thiếu sâu sắc, không  để lại những ấn tượng lâu dài. 1.2.2. Về phía người học: Phải thừa nhận một thực tế là đa số học sinh hiện nay không thích học môn  Ngữ văn, không có hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức văn chương.
  9. Do tính đặc thù môn học,  là một môn học mang tính cảm xúc, tư duy trừu  tượng, chịu chi phối rất nhiều bởi yếu tố văn hóa, tâm lí, cảm xúc, đòi hỏi  người học phải có trí tưởng tượng phong phú. Đây cũng là môn học mà nội dung  không chỉ hiện ra trên dạng câu từ mà nó còn bao hàm, ẩn chứa nhiều tầng nghĩa  sâu xa (đặc biệt phần văn học), vì thế việc tiếp nhận môn học này đối với học  sinh là rất khó khăn. Mà học sinh nhiều em rất thiếu lòng quyết tâm học tập, cứ  khó khăn là nản, bỏ…không học, dẫn đến yếu kém rồi chán môn học đó. 1.3. Tiểu kết chương 1 Như vậy, dạy học theo hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh  khi học môn Ngữ văn bậc THPT có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và  tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học môn Ngữ văn ở bậc THPT. Điều quan trọng là dạy học nhằm tạo hứng thú cho học sinh đòi hỏi phải tổ  chức hoạt động học tích cực,và sáng tạo làm cho học sinh say mê học tập. Dạy  học theo hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn  Ngữ văn bậc THPT, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho  học sinh. tăng cường khả năng vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các  tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức bài học một cách máy móc. Qua  nghiên cứu cơ sở thực tiễn, nghiên cứu đội ngũ GV, HS và cơ sở thiết bị dạy  học Ngữ văn, cùng với yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học Ngữ  văn tôi nhận thấy đề tài hoàn toàn có khả năng thực thi ở trường THPT. Chương 2 PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN BÀI HỌC NHẰM TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH KHI HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở BẬC THPT   Trước đây, phương pháp dạy học thường thiên về truyền thụ, học ghi nhớ  nhiều, gây áp lực đối với người học. Từ đó tạo ra tâm lí sợ học, sợ học  thuộc.                     Với phương pháp dạy học thường áp dụng trước đây, học sinh luôn thụ động,  quen nghe, quen chép, ghi nhớ rồi sẽ tái hiện một cách máy móc những gì giáo  viên truyền đạt. Điều này phần nào đã thủ tiêu khả năng sáng tạo, tư duy của 
  10. người học, biến người học thành những người quen suy nghĩ và diễn đạt bằng  những ý thuộc lòng, bằng những lời có sẵn của thầy cô, sách vở. Do đó, học  sinh luôn lệ thuộc vào sách vở, học sinh không hào hứng chủ động, thiếu sáng  tạo và thiếu tự tin. Những trăn trở làm sao học sinh của mình luôn yêu thích môn Ngữ văn; làm thế  nào để chất lượng học tập môn Ngữ văn được nâng cao và điều quan trọng là  làm sao để người học luôn chủ động tích cực, say mê, tự tin trong học tập; biết  vận dụng kiến thức vào thực tế; chủ động khám phá, phát hiện những cái hay,  cái đẹp, các giá trị tác phẩm văn chương; bồi dưỡng tình yêu đối với văn học,  bồi dưỡng tâm hồn, giá trị nhân văn… luôn là điều trăn trở mà tôi tin rằng không  chỉ bản thân tôi mà có lẽ là của tất cả những thầy cô, đồng nghiệp của tôi luôn  đau đáu. Xuất phát từ thực trạng ấy, từ thực tế giảng dạy của bản thân, qua trao đổi học  hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp,  mong góp phần nào sẽ cải thiện được thực trạng dạy và học Ngữ văn hiện nay,  cải thiện được quan điểm tình cảm, ý thức học tâp của học sinh đối với môn  Ngữ văn, đặc biệt đối với học sinh ở bậc THPT. 2.1. Tạo tâm thế học tập 2.1.1. Tác động bằng tình cảm           Đồng chí Lê Duẩn từng nói: “Thầy giáo không chỉ dạy cho học trò bằng  những công thức, bằng những câu, những từ có sẵn mà phải dạy bằng tất cả  tâm hồn mình”. Để học sinh luôn chủ động, tích cực, tự giác đặc biệt có hứng thú với môn học,  trước hết, giáo viên phải truyền dạy tri thức bằng tất cả trái tim và lòng tâm  huyết của mình, phải để người học cảm nhận được tâm hồn mình trong mỗi bài  giảng. Thực sự quan tâm đến học trò, biết lắng nghe, chia sẻ với những suy nghĩ, tâm  tư của học trò. Sẵn sàng là người bạn chia sẻ. Từ đó tạo được niềm tin, xóa bớt  được khoảng cách giữa giáo viên với học sinh (tâm lí, tuổi tác…), tạo ra không  khí học tập thân thiết, gần gũi… Theo quy luật lây lan tình cảm, từ chỗ yêu quí,  trân trọng thầy cô đến thích học môn học đó là một khoảng cách rất ngắn. Từ  đó học sinh yêu thích, say mê học môn học mà mình dạy. 2.1.2. Xây dựng không khí lớp học
  11. Học tập căng thẳng thường làm chúng ta mệt mỏi về tinh thần. Chỉ có sự tận  tình, tổ chức giờ học một cách khoa học, sinh động  mới kích thích sự hứng thú  học tập trong học sinh. Tạo ra bầu không khí học thoải mái, tích cực, có tính thi  đua giữa các học sinh là rất cần thiết. Như vậy, không khí lớp học có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất  lượng dạy học, cảm xúc tích cực sẽ làm tăng hiệu suất của hoạt động nhận  thức trong học sinh. Có nhà giáo dục đã từng nói “Một ông thầy mà không dạy  được cho học trò ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi.”  Cho nên, giáo viên phải biết cách tạo không khí thoải mái khi vào lớp học. Giáo  viên có thể tạo không khí lớp học bằng dẫn các chuyện vui, các câu thơ, câu văn  hay, bằng cách đặt vấn đề bất ngờ, gợi được sự chú ý, bằng các tranh ảnh, sơ  đồ… để gợi hứng thú, kích thích trí tò mò muốn khám phá bài học cho học sinh. Trong tiết dạy, chỉ cần một ví dụ thực tế gắn với bài giảng, một mẩu truyện về  nhà văn… sẽ làm cho bầu không khí học tập thay đổi tích cực; học sinh sẽ bị  cuốn hút vào những giai thoại, hay những liên hệ mà giáo viên kể. Từ đó học   sinh sẽ hứng thú và tiếp thu bài tốt hơn. Chính sự chú ý, hứng thú do không khí lớp mang lại sẽ kích thích các học sinh  tích cực làm việc hơn, tư duy sẽ được thúc đẩy. Học sinh sẽ chủ động đi sâu  tìm hiểu bản chất, ý nghĩa của vự việc, hiện tượng; kết quả là học sinh nhanh  hiểu bài và nhớ bài lâu hơn. 2.2. Linh hoạt, đa dạng trong phương pháp 2.2.1. Linh hoạt trong phương pháp Giáo viên luôn vận dụng nhiều phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học,  tạo nên sự phong phú đa dạng trong các hoạt động của quá trình dạy học sẽ làm  cho học sinh cảm thấy thoải mái, không bị ức chế về mặt tâm lí bởi sự nhàm  chán, mệt mỏi vì sự đơn điệu tẻ nhạt. Ví dụ: Khi dạy phần Tiểu dẫn  giáo viên cho học sinh điền thông tin vào phiếu,  hoặc ghi sẵn trên bảng và để trống phần thông tin cần điền:           1. Tác giả: a. Cuộc đời: – Năm sinh: ……………., năm mất…….. – Tên khai sinh:…………………………. – Quê quán:…………………………. – Xuất thân trong gia đình:……….
  12. – Sự kiện tiêu biểu trong cuộc đời:…… b. Sự nghiệp sáng tác: – Các tác phẩm chính:……………. – Phong cách nghệ thuật:…… 2. Tác phẩm: – Xuất xứ:… – Thể loại : …. Giáo viên yêu cầu học sinh điền vào chỗ còn trống. Học sinh thay nhau làm, có  thể phân theo nhóm thực hiện  theo yêu cầu của giáo viên. Lớp học sẽ sinh động  và học viên hứng thú học tập hơn. Từ đó, ta thấy rằng các học sinh sẽ tiếp thu  kiến thức tốt hơn nếu trong giờ học có sự xen kẽ nhau giữa các hoạt động dạy  học. 2.2.2. Đưa ra các tình huống có vấn đề. Dạy học theo tình huống là giáo viên không trình bày đơn thuần nội dung bài  học mà sắp xếp lại tài liệu sao cho toàn bộ bài giảng là vấn đề lớn được chia  thành một số vấn đề nhỏ có liên quan chặt chẽ với nhau, rồi kích thích hứng thú  cho học sinh và khéo léo đưa các học sinh vào những tình huống có vấn đề. Từ  đó mà bắt đầu những phần của bài giảng. Và như thế, hứng thú sẽ được duy trì  đến khi nào chưa tìm ra được câu trả lời. Ví dụ 1: Khi dạy tác phẩm “Chí Phèo” – sách Ngữ văn 11, tập I, giáo viên đặt ra  những tình huống có vấn đề: – Tại sao đến lúc cuối cùng Chí Phèo lại xách dao đến thẳng nhà Bá Kiến? – Tại sao Chí Phèo lại hay chửi và chửi nhiều đến thế mà hóa chẳng chửi đích  danh ai? – Tại sao Nam Cao lại để cho 3 con chó “lên tiếng” đáp lại tiếng chửi của Chí  Phèo? – Tại sao Nam Cao lại xây dựng nhân vật thị Nở xấu ma chê, quỷ hờn như  vậy ? Ví dụ 2: Khi dạy bài Vội vàng của Xuân Diệu, giáo viên cũng đặt học sinh vào  tình huống có vấn đề:
  13. – Thường khi nhắc đến sự vội vàng trong cuộc sống là muốn chỉ sự thiếu cẩn  thận, hấp tấp, khó thành. Nhưng tại sao Xuân Diệu lại muốn sống vội vàng, sự  vội vàng ấy có gì đặc biệt ? Giáo viên, từng bước hướng dẫn học sinh giải quyết các vấn đề, từ đơn giản  đến phức tạp, từ dễ đến khó. Từng bước chiếm lĩnh kiến thức, không những  tạo nên sự hưng phấn mà động lực thúc đẩy khả năng tự học, hiểu và sáng tạo,  giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống. 2.2.3. Liên hệ với thực tế Việc gắn nội dung bài giảng với thực tế cuộc sống là một trong những biện  pháp gây hứng thú học tập môn Ngữ văn. Bởi lẽ, nếu chỉ sa đà với những lí  thuyết khô khan mà xa rời thực tế thì bài học sẽ thiếu tính thực tiễn, mất đi tính  thuyết phục và sự lôi cuốn, không kích thích được hứng thú học tập của học  sinh. Ngữ văn là môn học đặc thù, phản ánh thực tế cuộc sống qua những hoàn  cảnh, tính cách, số phận xuất phát từ ngoài đời sống. Nhiều kỹ năng, kiến thức  các em học được sẽ được vận dụng vào rất nhiều tình huống của cuộc sống. Vì  vậy, gắn dạy học với thực tế cuộc sống không những có tính chất bắt buộc  trong dạy học Ngữ văn mà còn rất cần thiết để gây hứng thú học tập cho học  sinh. Ví dụ: – Khi dạy bài Bản tin – Ngữ văn 11 – tập 2; cần lưu ý cho học sinh đặc điểm,  yêu cầu của bản tin, viết được bản tin về vấn đề đời sống, xã hội quan tâm.  Viết các bản tin về hoạt động thi đua chào mừng ngày Hiến chương nhà giáo  Việt Nam; văn hóa Tết của gia đình… – Khi dạy bài “Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn” – sách Ngữ văn 11 – tập I, cho  học sinh chuẩn bị và viết một số bài phỏng vấn về vấn đề thường gặp trong  đời sống : phỏng vấn và trả lời phỏng vấn khi xin việc, phỏng vấn về kinh  nghiệm học tốt của bạn bè, phỏng vấn về các vấn đề xã hội đang quan tâm :  giao thông, môi trường, bạo lực học đường, tình yêu tuổi học trò… sẽ tạo cho  học sinh sự tự tin, yêu thích môn học. 2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin              Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, phát huy khả năng hỗ trợ của  phương tiện, công nghệ vào các bài giảng: lồng ghép những đoạn phim, những  tranh ảnh, những khúc ngâm, bài thơ được phổ nhạc… vào quá trình giảng dạy, 
  14. không những tạo không khí hứng thú học tập, mà đó là một kênh thông tin hữu  hình, trực quan để học sinh nhận biết, hiểu bài sâu sắc. Với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đòi hỏi mỗi giáo viên cần  nắm vững các quy trình về soạn bài giáo án điện tử. Qua quá trình soạn giảng và  giảng dạy, bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm khi thiết kế bài giảng điện tử,  giáo viên cần đạt được những yêu cầu cơ bản sau: *Yêu cầu về nội dung: Bài giảng điện tử khi trình bày nội dung lí thuyết cần cô  đọng và được minh hoạ sinh động có tính tương tác cao mà các phương pháp  giảng bằng lời khó diễn tả. *Yêu cầu về phần câu hỏi giải đáp: Câu hỏi nêu ra nhằm để cho học sinh có thể  vừa nghe, (hoặc nhìn); giáo viên có thể đưa hệ thống câu hỏi trên màn trình  chiếu. Các câu hỏi nêu ra theo nhiều cấp độ (câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản  đến phức tạp có tác dụng gợi mở, dẫn dắt học sinh nhằm hình thành kiến thức  mới. Có thể dùng nhiều câu hỏi: tái hiện, gợi mở, nêu vấn đề, thảo luận nhóm,  dùng phiếu học tập …) nhằm phân loại được đối tượng. Có như vậy mới kích  thích sự học tập của học sinh. (Lưu ý tránh những câu hỏi quá dễ hay quá khó).  Hệ thống câu hỏi thể hiện rõ tính chất đổi mới phương pháp dạy học nêu vấn  đề. Với câu trả lời trắc nghiệm khách quan: Trong thiết kế, giáo viên cần kết  hợp hiệu ứng của màu chữ, âm thanh, hình ảnh để thể hiện sự tán thưởng, cổ  vũ nồng nhiệt đối với học sinh cho câu trả lời đúng. Với những câu trả lời chưa  chính xác thì thông báo lỗi và gợi ý tìm chỗ sai bằng cách nhắc nhở, đưa ra một  gợi ý hoặc chỉ ra chỗ sai để học sinh suy nghĩ tìm câu trả lời. *Yêu cầu về phần trình bày khi thiết kế bài giảng điện tử: Mỗi bài giảng điện  tử phần thiết kế phải đảm bảo các yêu cầu sau: – Đầy đủ: Giáo viên phải chuyển tải đủ yêu cầu về nội dung của bài học. (Đối  với một bài đọc hiểu, tiếng Việt hay Làm văn thì phần trình chiếu có thể chỉ  giới thiệu hình ảnh, xem như đó là bảng phụ còn phần trình bày nội dung chính  ở bảng đen) – Chính xác: Khi giáo viên chuyển tải hình ảnh, âm thanh, video hay một số ví  dụ và các phần nội dung của bài học phải đảm bảo không có thông tin sai sót. – Trực quan: Màu chữ, cỡ chữ, hình ảnh, âm thanh, bảng biểu, video clip phải  sinh động hấp dẫn, phù hợp với nội dung bài học. Khi ứng dụng công nghệ thông tin trong bài học thì việc sử dụng phương tiện  băng đĩa hình trong việc dạy và học môn Ngữ văn hiện nay rất cần thiết. Đây 
  15. cũng là một nguồn tri thức rất sinh động, vì vậy băng đĩa hình cũng có nhiều  điều kiện thuận lợi cho HS khai thác kiến thức trong từng bài học. Ngoài ra băng  hình còn mang tính chất minh họa và hỗ trợ cho bài giảng để tạo hứng thú cho  HS. Việc sử dụng băng đĩa hình cần phải tuân thủ một số quy tắc sau: –  Phải căn cứ vào nội dung và mục đích của bài học để chọn ra những hình ảnh  thật đắt sao cho sát với nội dung bài học. GV phải xem băng thử ở nhà cho thành thạo các thao tác để  tránh mất thời gian nhiều ở lớp. Phải đảm bảo cho tất cả các HS đều được quan sát băng. Không nên lạm dụng băng hình quá tải làm giảm đặc trưng bộ  môn. Phải có phòng bộ môn. Từ những thực tế trên trong quá trình dạy và học nếu như GV mà đưa thêm băng  đĩa hình vào bài giảng thì kết quả đạt được là rất tốt và còn gây hứng thú cho  HS tốt hơn. Mặt khác còn phát huy khả năng sáng tạo độc lập suy nghĩ của từng  HS. HS tự giác chủ động tìm tòi những kiến thức mới và giải quyết vấn đề  trong mỗi bài học, có ý thức vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống hàng  ngày 2.4. Lồng ghép các trò chơi trong dạy học Ngữ văn Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục: giáo  dục bằng trò chơi – một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên  thế giới vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết hợp  với phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới  hiện nay. Giải pháp này sẽ thay đổi không khí căng thẳng trong các giờ học, tăng  thêm hứng thú cho người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn  bị, mạnh dạn hơn trong đề xuất của mình, phát huy tư duy sáng tạo.. Hứng thú và chủ động trong học tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến  thức, hình thành kĩ năng và phát triển nhân cách ở học sinh qua bộ môn Ngữ văn. 2.4.1. Một số hình thức lồng ghép trò chơi trong dạy học Ngữ văn. 2.4.1.1. Nguyên tắc: Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân môn; lưu ý mối quan hệ giữa trò  chơi và hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lý, đúng mức và đúng lúc để  không xáo trộn nhiều không gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp học khi trò  chơi kết thúc; trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt, không vận 
  16. dụng cho tất cả các tiết học; trò chơi bao giờ cũng kết thúc bằng thưởng cho  người (đội) thắng hoặc xử phạt nhẹ nhàng cho vui đối với người (đội) thua  cuộc từ đó tạo nên sự dí dỏm, hứng thú. 2.4.1.2. Một số hình thức lồng ghép trò chơi: + Xem trò chơi là một hình thức tổ chức cho một đơn vị kiến thức nhỏ trong giờ  học, để triển khai ở các bước khác nhau của bài giảng (phần tìm hiểu chung,  tìm hiểu ngữ liệu, phần đọc – hiểu văn bản, phần luyện tập, củng cố bài…). + Tổ chức tiết học thành một trò chơi lớn đối với một số tiết ôn tập hoặc khái  quát. 2.4.1.3. Một số trò chơi có thể vận dụng lồng ghép trong dạy học Ngữ văn: Giáo viên có thể tự sáng tác ra những trò chơi phù hợp với tiết học theo nguyên  tắc vừa phù hợp, vừa kích thích sự tò mò của các em. Ví dụ: Ô chữ, Hùng biện,  Tiếp sức, Điền bảng, Rung chuông vàng… Do đặc thù của mỗi phân môn, việc vận dụng lồng ghép trò chơi có những điểm  khác nhau. * Văn học: Tùy thuộc dạng bài ( bài khái quát, ôn tập, đọc – hiểu văn bản…),  lượng kiến thức, mục tiêu bài học, thời lượng để áp dụng hình thức trò chơi: trò  chơi nhỏ dành cho một hoạt động dạy học hay trò chơi lớn cho cả tiết học. Do  đặc thù của phân môn với mục đích cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn  chương, đòi hỏi những cảm xúc tinh tế, nên mức độ vận dụng trò chơi chỉ vừa  phải. * Tiếng Việt: Lồng ghép trò chơi đối với phân môn này là khá phù hợp, đặc biệt  là đối với những tiết thực hành, luyện tập. Trò chơi cần phải gắn với các bài  tập hoặc các hình thức thực hành, luyện tập khác mà giáo viên nghĩ ra. Vận  dụng tốt giải pháp này, giờ học Tiếng Việt sẽ không còn khô cứng, học sinh  cảm thấy thoải mái, hứng thú, kích thích hoạt động tư duy của các em, quan  trọng hơn là góp phần phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ ở học sinh. Qua trò  chơi, tư duy và khả năng ngôn ngữ của học sinh sẽ được bộc lộ tự nhiên, giáo  viên có thể phát hiện và uốn nắn kịp thời những mặt còn hạn chế. * Làm văn: Chính là phần thực hành Văn học và Tiếng Việt. Có thể vận dụng  trò chơi trong một số tiết học và không nên thực hiện hình thức này trong cả  tiết. Với phân môn này, việc lồng ghép hình thức trò chơi không thể thay thế  được các phương pháp cũng như hình thức tổ chức lớp học đặc thù như thực  hành, luyện tập,…hoạt động theo nhóm hay cá nhân tự luyện tập các kĩ năng…
  17. Do đó không nên gượng ép để cố tình đưa trò chơi vào tất cả các giờ học làm  văn. 2.4.2. Quy trình thực hiện: * Chuẩn bị: Tùy theo mỗi trò chơi cụ thể sẽ có những phần chuẩn bị khác nhau. * Bước 1: Giáo viên dự kiến chọn trò chơi cho phù hợp với nội dung của từng  bài học. * Bước 2: Giáo viên nêu thể lệ trò chơi * Bước 3: Học sinh tiến hành chơi trò chơi (với tư cách một cá nhân hoặc một  nhóm), dưới sự kiểm soát của giáo viên. * Bước 4: Giáo viên đánh giá, cho điểm hoặc phát thưởng tùy theo sự đóng góp  của mỗi cá nhân hoặc mỗi nhóm.   2.4.3. Cách thức tổ chức: Có rất nhiều trò chơi có thể gây hứng thú cho học sinh trong việc dạy và học  môn Ngữ văn. Tuy nhiên trong phạm vi của một sáng kiến kinh nghiệm, tôi chỉ  xin nêu một số trò chơi sau: 2.4.3.1. Trò chơi điền bảng (kết hợp với thảo luận nhóm): * Đặc điểm: Trò chơi này dùng trong những giờ ôn tập, thay vì cho học sinh lập bảng thống  kê kiến thức bình thường, ta có thể chia lớp thành các nhóm khác nhau và cho  đại diện các nhóm lên bốc thăm để tìm công việc cho nhóm mình. Sau đó, các  nhóm sẽ thay phiên nhau giải quyết công việc của nhóm mình. * Chuẩn bị: – Về phía giáo viên: + Kẻ sẵn một bảng tổng kết bao gồm các đơn vị kiến thức, trong đó chỉ có đề  mục và các tiêu chí thống kê. + Các phiếu bốc thăm ứng với các nhóm. + Các thẻ kiến thức trắng đều nhau được cắt ra từ giấy Ao. + Keo dán, bút viết bảng (4 màu ứng với 4 nhóm). – Về phía học sinh: dựa vào SGK và soạn kĩ bài theo yêu cầu của giáo viên. 2.4.3.2.Trò chơi ô chữ (nhóm hoặc cá nhân) * Đặc điểm:
  18. Đây là cách thức mô phỏng theo các sân chơi phổ biến hiện nay như: Đường lên  đỉnh Ôlympia, Chiếc nón kỳ diệu… Nó có thể sử dụng linh hoạt trong các tiết  dạy hay trong các tiết ôn tập, thực hành. Trò chơi này khá quen thuộc và đã được  áp dụng nhiều nhưng nó lại được sự đón nhận rất nhiệt tình của các em học  sinh. Chính vì thế nó mang lại hiệu quả rất cao. * Chuẩn bị: – Giáo viên soạn ra một bảng ô chữ cùng các câu hỏi đi kèm tương ứng với kiến  thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý của các ô hàng ngang, học  sinh dần dần tìm ra nội dung của ô hàng dọc. Đây là ô chính mà nội dung của nó  có tầm quan trọng đối với bài học mà học sinh cần nắm chắc và ghi nhớ. – Bảng ô chữ này có thể chuẩn bị sẵn ở bảng phụ hoặc giáo viên có thể áp  dụng công nghệ thông tin để trò chơi này hấp dẫn và mới lạ hơn.   Chương 3 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 3.1. Mục đích, nhiệm vụ thực nghiệm 3.1.1. Mục đích thực nghiệm – Thông qua các bài thực nghiệm nhằm kiểm tra tính khả thi của đề tài: “Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn   bậc THPT” – Căn cứ vào kết quả thực nghiệm, phân tích xử lý các số liệu thu được để đánh  giá khả năng áp dụng của đề tài. 3.1.2. Nhiệm vụ thực nghiệm – Chọn lớp và chọn GV thực nghiệm, chọn lớp và GV đối chứng để thực  nghiệm – Chọn các bài thực nghiệm đáp ứng được yêu cầu của đề tài. – Chuẩn  bị các điều  kiện  cần  thiết  về  các mặt trong  công  tác  thực nghiệm  sư phạm: các giáo án và các phương tiện thiết bị dạy bài thực nghiệm. – Thống nhất với GV dạy  thực nghiệm về nội dung, phương pháp dạy từng bài  thực nghiệm. – Tổ chức triển khai các bài thực nghiệm đã được chuẩn bị. – Đánh giá kết quả và rút ra kết luận.
  19. 3.2. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm. –  Phải  đảm  bảo  tính  khoa  học,  khách  quan  về  khối  lượng  kiến thức  trong SGK Ngữ văn  do Nhà xuất bản Giáo Dục phát hành. – Tuân thủ theo chương trình giảng dạy do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định.  Đảm bảo kiến thức cơ bản của bài giảng trong SGK. –  Việc  dạy  thực  nghiệm  phải  tôn  trọng  thời  khoá  biểu của nhà trường  không  làm ảnh hưởng  tới hoạt động dạy và học của  lớp được chọn làm thực  nghiệm. Quá trình thực nghiệm và kết quả thực nghiệm được xử lý theo phương pháp  thống kê toán học. 3.3 Phương pháp thực nghiệm. – Thực  nghiệm  được  tiến  hành  song  song  trên  2  lớp  (lớp  thực nghiệm và  đối chứng) tại trường. Các lớp đối chứng được tiến hành trước, giáo viên giảng  dạy theo nội dung và phương pháp truyền thống. Với các lớp  thực nghiệm,   GV  nghiên  cứu kĩ cách  thiết kế bài  giảng  theo  phương  pháp mới  trong  đó   đã  xác  lập  các  kiến thức liên môn phù hợp với từng bài. Cả hai lớp đều do  một giáo viên tiến hành giảng dạy, kiểm tra (cùng bài,  cùng  đề kiểm  tra). Sau  khi  nghiên  cứu  các  thiết kế bài  giảng  và dạy thực  nghiệm, giáo  viên  rút  ra   những  kết  luận  và  nhận  xét cần thiết. 3.4. Nội dung thực nghiệm 3.4.1. Chọn trường, lớp thực nghiệm. Để tổ chức thực nghiệm có hiệu quả, tôi đã chọn trường tôi đang công tác và  các lớp tham gia thực nghiệm là lớp  thực nghiệm: 11D7, lớp đối chứng: 11D5 3.4.2. Giáo viên tham gia thực nghiệm – Các GV tôi chọn giảng dạy là các GV đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn  lớp 11 tại trường. Các GV dạy thực nghiệm đều là những người công  tác lâu  năm và trình độ chuyên môn khá đồng đều, đó là điều kiện cho việc dạy thực  nghiệm sư phạm, thể hiện được tính khách quan đúng đắn và yêu cầu của quá  trình thực nghiệm và kết quả thực nghiệm. 3.4.3. Chuẩn bị bài thực nghiệm – Các bài  soạn dạy  thực nghiệm đều được chuẩn bị kỹ và sự tham khảo ý kiến  của đồng nghiệp. Trên cơ sở đó, tác giả của đề tài và GV dạy thực nghiệm trao  đổi nhằm hoàn thiện bài soạn đáp ứng mục đích và yêu cầu của đề tài.
  20. – Trước giờ dạy, các bài soạn đều được chuẩn bị đồ dùng, phương tiện thiết bị  dạy học đầy đủ. – Tôi đã chọn các bài trong SGK Ngữ văn lớp 11 để thực nghiệm. Dưới đây là  các phần trong từng bài tôi đã áp dụng thực nghiệm.     CHÍ PHÈO Khi dạy bài “ Chí Phèo”­ Sách Ngữ văn 11, tập I, giáo viên lồng ghép cho học  sinh xem một vài đoạn phim nhỏ nói về hình ảnh Chí Phèo cùng với tiếng chửi,  hình ảnh của thị Nở cùng với bát cháo hành, hình ảnh chí Phèo hiền lành sau khi  ăn cháo hành… Nó tác động trực tiếp đến nhiều giác quan của các em, tạo ấn  tượng, kích thích sự tò mò, hấp dẫn và lôi cuốn, từ đó sẽ gây hứng thú hơn trong  việc tìm hiểu tác phẩm, tìm hiểu về số phận của nhân vật. Khi dạy xong bài này, giáo viên có thể áp dụng trò chơi ô chữ để củng cố nhằm  khắc sâu kiến thức đã học. – Giáo viên cho học sinh tham gia trò chơi theo nhóm hoặc cá nhân. – Yêu cầu của trò chơi: Học sinh nắm được những nội dung cơ bản về tác giả  Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo. Đặc biệt khi kết thúc trò chơi, học sinh phải  nắm được một trong hai giá trị lớn của tác phẩm, đó là “giá trị hiện thực”. – Giáo viên lần lượt nêu ra các câu hỏi cho các nhóm thực hiện, bắt đầu từ  nhóm 1. Các nhóm có quyền lựa chọn ô hàng ngang. Nếu nhóm nào không trả lời  được theo thời gian qui định thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò  chơi. – Nhóm nào tìm được kiến thức ở ô hàng ngang thì được cộng điểm, tìm được ô  hàng dọc khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ là đội thắng cuộc. – Cụ thể về bảng ô chữ: (8 hàng)   1     R A N H U U T R I     2     T R O I               3     A K I E N             4     T H I N O             5     O N G T H O N        
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2