intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học

Chia sẻ: Bobietbo | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

34
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là khi nghe kể những câu chuyện có tính hài hước đã biểu hiện hành động điệu bộ cho thấy chúng hiểu không chỉ nội dung mà cả sự bất bình thường của những tình tiết có tính hài hước của tác phẩm. Qua quan sát, người ta nhận thấy trẻ ở độ tuổi này rất thích xem chèo và chúng khoái trí cười theo khi xuất hiện những nói hóm hỉnh, sâu sắc của các nhân vật hề. Người lớn thấy cảnh đó chắc là ngạc nhiên vì sao một cô, cậu bé lại hiểu được những truyện khôi hài, khó hiểu dến như vậy. Nhưng rõ ràng là các em có khả năng bẩm sinh hiểu được sự hài hước. Như vậy trí tưởng tượng phát triển sớm ở trẻ mẫu giáo là một thứ của trời cho, có tính chất tiên nhiên, là tiền đề để cô giáo thực hiện tốt hoạt động đọc và kể tác phẩm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học

  1. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM TRƯỜNG MẦM NON LỆ CHI =====  ===== s¸ng kiÕn kinh nghiÖm Đề tài: “Một số biện giúp phát huy tính tích cực của   trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học.”                          Tên tác giả: Phạm Thị Dung                               Lĩnh vực/ môn: Giáo dục mẫu giáo                              Cấp học : Mầm non                                                   Năm học 2017­2018 MỤC LỤC 1
  2. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” Stt NỘI DUNG Trang 1 Phần I: đặt vấn đề 2 Phần II. Giải quyết vấn đề 3 1. Cơ sở lý luận 4 2. Cơ sở thực tiễn 5 2.1. Đặc điểm tình hình 6 2.2. Thuận lợi­ khó khăn 7 3. Đề xuất một số kinh nghiệm 8 3.1. Kinh nghiệm khảo sát trên trẻ 9 3.2.   Kinh   nghiệm   xây   dựng   môi   trường   ngôn   ngữ   theo  nguyên tắc đổi mới nhằm phát huy tính tích cực cho trẻ 10 3.3. Kinh nghiệm lựa chọn tác phẩm cho chủ đề. Đưa dân  ca, bài hát, trò chơi lồng ghép vào trong hoạt động 11 3.4. Kinh nghiệm đổi mới các phương pháp cho trẻ  làm  quen với tác phẩm truyện, dậy trẻ  kể  lại chuyện,  đóng  kịch hay dạy trẻ kể chuyện sáng tạo 12 3.5. Kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt  động dạy trẻ 13 3.6. Kinh nghiệm cho trẻ làm quen văn học ở mọi lúc mọi  nơi và phối hợp cùng phụ huynh 14 3.7. Gợi ý một số hình thức kể chuyện sáng tạo cho trẻ 15 4. Kết quả thực hiện 16 PHẦN III­ Kết luận 17 1. Kết luận, bài học kinh nghiệm. 18 2. Ý kiến đề xuất. 19 2.1. Đối với Phòng Giáo dục.  20 2.2. Đối với Ban Giám hiệu.  21 2.3. Đối với giáo viên. 22 Phần IV: Phụ lục        23 Tư liệu tranh ảnh A / ĐẶT VẤN ĐỀ 2
  3. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học”        Trẻ em là hạnh phúc của mọi gia đình, là những Mầm non tương lai của  đất nước. Đất nước có giàu mạnh, phồn vinh là nhờ vào thế hệ trẻ. Chính vì  vậy phải chăm sóc giáo dục trẻ  thật tốt ngay từ  khi trẻ  còn  ở  độ  tuổi Mầm   non. Thông qua hoạt động dạy và học dưới hình thức như tạo hình, hoạt động  với đồ vật, môi trường xung quanh, sẽ giúp trẻ phát triển trí tuệ, sự sáng tạo,   nhân cách con người. Đặc biệt trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá  đất nước bên cạnh việc phát triển khoa học công nghệ  để  đất nước ta phát  triển lớn mạnh hơn, chúng ta không thể  quên được rằng: “Giáo dục là cốt  sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài và   phát huy nguồn nhân lực con người để  xây dựng đất nước và bảo vệ  tổ  quốc.” Vì vậy chúng ta càng cần phải chú trọng tới việc giáo dục và đào tạo   con người ngay từ  thủa  ấu thơ. Hướng tích cực của việc đổi mới đó là sự  tiến bộ và phát triển hiệu quả chăm sóc giáo dục được cao hơn. Để đạt được   mục tiêu đó, yêu cầu mỗi Giáo viên phải có phương pháp chủ  đạo“Lấy học  sinh làm trung tâm”, song song với việc  ấy cũng rất cần sự  phát triển đồng  đều đối với trẻ trong lớp học và yêu cầu cần đạt được ở  mỗi cháu của từng   hoạt động mà nhất là hoạt động làm quen văn học. Thông qua các hoạt động  làm quen với các tác phẩm văn học nhằm phát triển ngôn ngữ  bao gồm việc   làm giầu vốn từ, tập cho trẻ phát âm chính xác, diễn đạt rõ ràng có ngữ điệu,  đúng ngữ pháp tạo điều kiện cho trẻ có khả  năng sử dụng ngôn ngữ  để  giao   tiếp.Truyện và thơ  giúp cho trẻ  làn quen dần với ý hay lời đẹp hình tượng  trong sáng. Đặc biệt nó rất gần gũi với trẻ  thơ, từ  buổi đầu thơ   ấu trẻ  đã   sống tran hòa trong không khí lời ru “ầu ơ” đầy yêu thương tận tình của mẹ,  bà… và đó cũng là cánh cửa mở  ra chân trời nhận thức cho trẻ. Văn học là  một loại hình nghệ  thuật mà trẻ  được tiếp xúc từ  rất sớm. Ngay từ  tuổi  ấu   thơ các em đã được làm quen với những giai điệu nhẹ nhàng, êm ái, thiết tha   của những câu hát ru. Lớn hơn một chút các em lại được biết tới những câu  chuyện dân gian, các tác phẩm thơ, văn. Các tác phẩm này đã reo vào lòng trẻ  tình cảm yêu mến thế  giới xung quanh và giúp trẻ  có thêm kiến thức hiểu  biết về truyền thống dân tộc, nảy sinh ở trẻ lòng nhân ái, mở rộng nhận thức  về thiên nhiên xã hội.Ngoài ra, văn học còn giúp trẻ yêu thích hào hứng và có  nhu cầu tham gia vào các hoạt động nghệ thuật góp phần phát triển ngôn ngữ  của trẻ, dạy trẻ phát âm chính xác các âm tiết của tiếng mẹ đẻ, văn học còn  giúp trẻ  rèn luyện và phát triển khả  năng sử  dụng ngôn ngữ  mạch lạc khi   tham gia giao tiếp. Việc cho trẻ làm quen văn học có ý nghĩa rất lớn đối với  3
  4. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” trẻ, thông qua bài thơ, câu chuyện thì trẻ  cảm nhận được về  thế  giới xung   quanh, về vẻ đẹp trong thiên nhiên, trong cuộc sống . Văn học là phương tiện   phát triển ngôn ngữ cho trẻ đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn đạt gãy gọn,  biết sử  dụng từ  đúng lúc, đúng chỗ. Từ  đó  giúp trẻ  mở  rộng sự  hiểu biết ,   bồi dưỡng cho trẻ  tình cảm lành mạnh và  ước mơ  cao đẹp, trẻ  cảm nhận  được vẻ  đẹp trong mối quan hệ xã hội và nhất là vẻ đẹp ngôn ngữ tiếng mẹ  đẻ  của dân tộc Việt Nam.Cho trẻ  làm quen văn học góp phần làm giàu vốn  từ, phát triển khả năng diễn đạt mạch lạc, sử dụng  ngôn ngữ biểu cảm , biết   thể hiện tác phẩm dưới các hình thức khác nhau, tác phẩm văn học còn giúp   trẻ cảm nhận được vẻ đẹp trong mối quan hệ giữa con người cới con người,   vẻ   đẹp   trong   các   hành   động   cao   thượng   của   các   nhân   vật   trong   tác  phẩm.Thông qua những những tác phẩm viết về  lịch sử thì giúp trẻ hiểu biết   về cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của ông cha ta ngày trước, biết được bản   chất và truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, thông qua tác phẩm mang tính  chất đề tài sinh hoạt thì giúp trẻ hiểu biết về một số quy định chuẩn mực cư  xử của con người trong cuộc sống hàng ngày. Thông qua chuyện cổ tích  giáo  dục lòng nhân ái, thái độ bênh vực, đồng tình với cái thiện, lên án cái ác, điều  bất công.Tác phẩm viết về gương người tốt việc tốt, viết về lãnh tụ thì giáo  dục cho trẻ những phẩm chất tốt đẹp của con người mới, giáo dục lòng kính  yêu và biết  ơn vị  lãnh tụ.  Qua việc cho trẻ  làm quen văn học chính là hình  thành ở trẻ những tình cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẫm mỹ, phát  triển trí tưởng tượng như: Lòng yêu thiên nhiên  cây, hoa, lá, lòng kính trọng  yêu thương gần gũi và giúp đỡ những người thân xung quanh trẻ như ông bà,   bố mẹ, cô giáo, anh chị em. Thông qua sự hiểu biết, trí tưởng tượng của trẻ.  Đồng  thời trẻ  đọc thuộc thơ, kể lại chuyện được. Từ  khi lọt lòng cho đến  khi chập chững biết đi, biết viết , biết đọc thì văn học là chiếc cầu nối , là  phương tiện dẫn dắt trẻ trở thành con người mới , trẻ được nghe , được xem  và được nhập vai vào những nhân vật , được nói lên cảm xúc của mình qua  nhân vật hay tác phẩm. Trẻ mẫu giáo hầu như chưa biết đọc, biết viết chính   vì vậy các em tiếp nhận các tác phẩm văn học thường phải qua trung gian là  cô giáo(ở trường) và người lớn ở nhà như: ông, bà, bố mẹ. Tác phẩm văn học  là một bản nghệ thuật ngôn ngữ nên việc cảm thụ tác phẩm văn học đối với   trẻ gặp nhiều khó khăn. Là 1 người giáo viên được phân công dạy lớp MGB   3­4 tuổi nhiều năm tôi nhận thấy các cháu chưa thể  tự  học, tự  sinh hoạt, tự  điều khiển một số hoạt động dưới sự gợi mở khéo léo của người lớn nhưng   4
  5. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” việc học tập, sinh hoạt, vui chơi, tiếp thu của các cháu cũng có hạn. Nhận  thức rõ trách nhiệm to lớn của người giáo viên mầm non trong giai đoạn phát  triển hiện nay. Chính vì thế  mà tôi đã mạnh dạn chọn đề  tài “Một số biện   pháp  giúp phát huy tính tích cực của trẻ  khi làm quen với tác phẩm văn   học” để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm thực hiện trong năm học này. PHẦN II ­ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I.Cơ sở lý luận:   Văn học là  môn rất quan trọng đối với trẻ  mầm non, là phương tiện  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  có đủ  vốn từ  để  nói năng lưu loát, diễn đạt gãy  gọn biết sữ  dụng từ  đúng lúc, đúng chỗ, không những thế  mà việc dạy trẻ  làm quen với những từ  ngữ  nghệ  thuật như  từ  tượng hình, từ  tượng thanh   giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc lập trong   suy nghĩ.Thông qua nội dung các tác phẩm giáo dục trẻ  biết yêu quý người   hiền lành, biết  ơn và kính yêu ông bà, bố  mẹ, anh chị, bạn bè, biết nhường  nhịn em nhỏ. Xuất phát từ những vai trò cụ thể đó cho nên hoạt động dạy trẻ  làm quen với văn học là môn học không thể thiếu trong trương trình chăm sóc  giáo dục trẻ. Ví vậy việc nâng cao chất lượng dạy trẻ làm quen với tác phẩm  văn học là vấn đề quan trọng trong đỗi mới hình thức tổ chức giáo dục mầm   non.Làm quen với tác phẩm văn học chỉ  ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của   việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện  của cô giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những   giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung   động, hứng thú dối với văn học, có  ấn tượng về  những hình tượng nghệ  thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt  động mang tính chất văn học nghệ  thuật như  đọc thơ. Kể  chuyện, chơi trò  chơi đóng kịch; Cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyen5  theo tưởng tượng của mình, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân  cách trẻ.Trong mỗi tác phẩm văn học, thề  giới mới của cuộc sống thực tại   bao gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diển tả, biểu đạt, truyền đạt  trong những hình thức đa dạng độc đáo. Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cấn giúp trẻ nhận biết  các mối quan hệ  biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình huống và nhân  vật; giữa lời kể, lời thuật, lời bạch trữ  tình và ngôn ngữ  nhân vật; Giữa   không khí, âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm văn học và hành động văn  5
  6. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” học. Chưa yêu cầu trẻ  phải nhớ  hết mối quan hệ phức tạp và chưa đòi hỏi  trẻ  phân biệt quan hệ  chính phụ  trong truyện mà chỉ  nhằm giúp trẻ  nhận ra   tính liên tục của cốt truyện trong các mối liên quan đến nhân vật trung tâm   của tác phẩm. Với truyện kể, ta hãy giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ  bản trong  giọng kể, lời thuật, phân biệt ngữ  điệu lời nói các loại nhân vật, giúp trẻ  nhận ra ngôn ngữ đời thường (khẫu ngữ) và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính. Qua  tác phẩn văn học, trẻ quen dần tính chất nhiều ý nghĩa và tinh luyện của ngôn   ngữ văn hoá, dần dần tiến tới hiểu được nghĩa thực đến nghĩa bóng, từ nghĩa  văn cảnh đến ý tưởng nhà văn muốn truyền đạt. Khi cho trẻ làm quen với tác   phẩn văn học góp phần mở  rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo  đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ, phát triển  ở  trẻ  hứng thú “đọc  sách” kỷ năng đọc và kể tác phẩm.     Trẻ 3­4 tuổi trong khi nghe kể những câu chuyện có tính hài hước đã biểu   hiện hành động điệu bộ  cho thấy chúng hiểu không chỉ  nội dung mà cả  sự  bất bình thường của những tình tiết có tính hài hước của tác phẩm. Qua quan  sát, người ta nhận thấy trẻ ở độ tuổi này rất thích xem chèo và chúng khoái trí  cười theo khi xuất hiện những nói hóm hỉnh, sâu sắc của các nhân vật hề.  Người lớn thấy cảnh đó chắc là ngạc nhiên vì sao một cô, cậu bé lại hiểu  được những truyện khôi hài, khó hiểu dến như vậy. Nhưng rõ ràng là các em  có khả năng bẩm sinh hiểu được sự hài hước. Như vậy trí tưởng tượng phát   triển sớm  ở  trẻ mẫu giáo là một thứ  của trời cho, có tính chất tiên nhiên, là  tiền đề để cô giáo thực hiện tốt hoạt động đọc và kể tác phẩm. II. Cơ sở thực tiễn. 1.Đặc điểm tình hình: Trường Mầm Non Lệ  Chi được biết đến là một trường  ở  nông thôn.  Trường vẫn còn khu lẻ. Trường có tổng số  70 cán bộ, giáo viên, nhân viên,  trong đó: có 3 cán bộ, 45 giáo viên, 15 nhân viên. Trường có tổng số: gần 700   trẻ được chia về 16 lớp, trong đó có: 3 lớp nhà trẻ, 4 lớp mẫu giáo bé, 5 lớp   mẫu giáo nhỡ, 4 lớp mẫu giáo lớn. Năm học này tôi được nhà trường phân   công dạy ở lớp mẫu giáo bé C2 gồm 55 cháu.  2.Thuận lợi, khó khăn: * Thuận lợi:  ­  Được ban giám hiệu nhà trường nhiệt tình quan tâm giúp đỡ  tạo mọi điều  kiện thuận lợi như: Trường đầu tư  đầy đủ  các trang thiết bị  tối thiểu phục  6
  7. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” vụ  cho các hoạt động của trẻ   ở   lớp như: máy tính, màn hình tivi lớn, đầu,  đài, và rất nhiều các trang thiết bị khác, luôn tận dụng thời gian giúp giáo viên  giao lưu học hỏi kinh nghiệm khi có thể. ­ Giáo viên có trình độ chuyên môn vững chắc, nhiều năm dạy lớp mẫu giáo,   và đạt giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp trường. ­ Giáo viên nhiệt tình yêu nghề, mến trẻ, tích cực học hỏi kinh nghiệm qua   các chị em đồng nghiệp, qua sách báo, internet… Bản thân cũng đã được kiến   tập, kiến tập một số  tiết mẫu của trường, của quận nên cũng đã học tập  được một số  kinh nghiệm trong  phương pháp giảng dạy bộ  môn làm quen  với văn học *Khó khăn:  ­ Bên cạnh những thuận lợi đáng kể  chúng tôi cũng còn gặp không ít những  khó khăn trở ngại trong việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học như: ­ Trường vẫn còn khu lẻ nên việc học hỏi kinh nghiệm, trao đổi chuyên môn,  tuyên truyền... còn hạn chế. ­ Nhiều giáo viên chưa thực sự ngiên cứu đi sâu để hiểu rõ chương trình giáo   dục mầm non, mục tiêu, kết quả mong đợi, để lựa chọn nội dung, hoạt động  và đổi mới hình thức tổ  chức hoạt động theo hướng trải nghiệm, học mà  chơi. Giáo viên thường trú trọng đặt mục tiêu phát triển ngôn ngữ  chủ  yếu   qua hoạt động làm quen văn học, làm quen chữ  viết, hoạt động nhận biết,  chưa nhận thức đượctầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  trong cuộc sống hằng ngày, ở mọi hoạt động. ­ Hầu hết giáo viên mầm non kiêm nhiệm 1 lúc quá nhiều việc thời gian dành   cho việc làm đồ dùng còn ít. ­ Việc dạy trẻ còn có nhiều hạn chế. Chưa có sáng tạo trong việc chuyển thể  từ chuyện kể sang kịch bản sân khấu, không tạo ra được tính kịch ­ sự kiện ­   sự  biến, lời thoại còn dài dòng khó hiểu, giáo viên còn nặng nề  trong việc  dẫn chuyện làm cho kịch bản trở nên rời rạc ­ kém hấp dẫn. ­ Giáo viên chưa chủ  động linh hoạt trong việc tổ  chức các hoạt động đóng  kịch cho trẻ  hoặc kể  chuyện sáng tạo, nếu có thì chủ  yếu là trong tiết học.   Còn trong các giờ  chơi, các buổi sinh hoạt thì hầu như  chưa có.Bên cạnh đó  khả năng cảm nhận các tác phẩm văn học của một số giáo viên còn hạn chế:  giọng đọc và cách phối hợp ánh mắt, cử  chỉ, điệu bộ, minh họa chưa bộc lộ  cảm xúc nên chưa hấp dẫn cuốn hút trẻ, phương pháp lồng ghép tích hợp   chưa linh hoạt sáng tạo, sử  dụng đồ  dùng dạy học chưa khoa học, dẫn đến  7
  8. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” giờ  học trẻ  ít tập trung chú ý, trẻ  chưa thực sự  say mê, hào hứng, hiệu quả  trên tiết học và kết quả trên trẻ  chưa cao. Hơn nữa hầu hết các vở  kịch còn  thiếu các yếu tố phụ trợ như: Âm thanh, cảnh trí, trang phục… làm cho hoạt   động đóng kịch không thu hút được sự chú ý của trẻ. ­ Lớp học có số trẻ trong lớp vượt quá so với quy định, løa tuæi nµy phát âm  của trẻ chưa rõ ràng, rÊt hiÕu ®éng nên khi tổ chức hoạt động còn lúng túng  khoảng không gian cho trẻ  hoạt động đồng thời hạn chế  phần nào giáo viên   quan tâm đến cá nhân trẻ, sửa câu từ, ngữ điệu, sửa giọng, phát triển lời nói,  giao lưu xúc cảm trong các hoàn cảnh, ngữ  cảnh, tình huống thực tế. Mặt  khác giáo viên chưa tư  duy đổi mới khuyến khích trẻ   động não, còn dập  khuôn nhiều câu hỏi, phần lớn giáo viên cho trewr ngồi học theo chữ U. Việc   đầu tư tài liệu tham khảo cho giáo viên khai thác, học tập tại nguồn internet,   bộ nghe nhìn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ,, sách tranh chuyện cho trẻ tự đọc,  xem tranh…. ­ Một số  phụ  huynh còn coi nhẹ  việc học tập của con, thường cho con nghỉ  học tuỳ  tiện nên ít nhiều cũng làm  ảnh hưởng tới kết quả  học tập của lớp.  Họ  chưa nhận thức hết được tầm quan trọng của việc cho trẻ  làm quen với  tác phẩm văn học . Môi trường gia đình, xã hội thiếu lành mạnh ít nhiều cũng  ảnh hưởng đến việc giáo dục trẻ. Vì chưa quan tâm, nên việc tạo điều kiện  cho con mình được tham gia theo yêu cầu của giáo viên không được theo yêu  cầu. ­ Khả năng tiếp thu của trẻ còn chưa đồng đều, một số trẻ còn chưa qua lớp   nhà trẻ.  Một số cháu còn nhút nhát và thụ động trong các hoạt động, chưa tự  giác nhận vào vai của mình, chưa mạnh dạn phát biểu cho dù trẻ  hiểu và   nhận ra nội dung của tác phẩm. III. Biện pháp 1. Biện pháp 1: Khảo sát trên trẻ.        Con người sinh ra không phải ai cũng đã có sẵn trong mình những năng  khiếu về  văn học như kể chuyện diễn cảm, ngâm thơ..., cũng không ai cũng  có những tài năng bên mình, mà phải đòi hỏi thông qua giáo dục và hoạt động  thì từ đó những tài năng và khả năng đó mới được bộc lộ và phát triển. Nhất   là đối với trẻ nhỏ, việc học của trẻ không phải đơn thuần là đưa trẻ vào một  khuôn phép chặt chẽ, mà học của trẻ ở đây thông qua chơi, "trẻ chơi mà học,   học mà chơi".  8
  9. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học”     Kể từ đó tôi bắt đầu thấy băn khoăn và lo lắng, tìm tòi mình phải làm như  thế  nào để  tạo hứng thú cho trẻ, lôi cuốn trẻ  vào hoạt động này. Tôi trò  chuyện và nắm bắt tâm lý của từng cháu, liệt kê số trẻ không thích hoạt động  này với lý do gì? Tại sao? Qua một thời gian ngắn tôi đã có kết quả  điều tra  như sau  Tổng số trẻ khảo sát: 25 trẻ Kết quả (%) STT Nội dung tiêu chí khảo sát Đạt CĐ 1 Nhớ tên tác phẩm, hiểu nội dung thơ, truyện 35 65 2 Thể hiện được ngữ điệu giọng các nhân vật 40 60 3 Trả lời các câu hỏi của cô, kể truyện, đọc thơ chưa đủ  40 60 ý. 4 Trẻ thuộc tác phẩm và đọc, kể diễn cảm 25 75 5 Biết  nhập vai và  đóng kịch theo vai, biết kể  chuyện   30 70 sáng tạo. 6 Cô kể chưa hấp dẫn, hình thức chưa phong phú. 30 70 7 Đồ  dung trực quan chưa hấp dẫn, truyện không hay,  30 70 chưa phù hợp.           Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy những biện pháp thông thường, bài  soạn dập khuôn, cứng nhắc chưa có biện pháp mới tác động thì chất lượng   đạt được trên trẻ còn thấp, tôi cần phải suy nghĩ làm thế nào để dạy trẻ đạt  hiệu quả cao và tạo cho trẻ không khí học một cách thoải mái, tự  tin, không  gò bó, luôn hứng thú trong giờ  học Vì vậy tôi đã áp dụng thêm một số  kinh   nghiệm sau: 2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường ngôn ngữ  theo nguyên tắc đổi mới   nhằm phát huy tính tích cực cho trẻ: ­ Đảm bảo an toàn vè mặt tâm lý cho trẻ  thường xuyên giao tiếp, thể  hiện  mối quan hệ than thiện giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với người xung quanh. Hành  vi cử chỉ, lời nói, thái độ của giáo viên đối với trẻ và những người ung quanh  luôn mẫu mực để trẻ noi theo ­ Môi trường vật chất trong và ngoài lớp đáp ứng nhu cầu hứng thú chơi của  trẻ, tạo điều kiện cho trẻ chơi mà học, học bằng chơi phù hợp với điều kiện  thực tế ­ Các khu vực trong nhà trường được quy hoạch theo hướng tận dụng các  không dan cho trẻ hoạt động phù hợp, linh hoạt, đa dạng, phong phú, có các  9
  10. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” góc hoạt động trong và ngoài lớp mang tính mở, tạo điều kiện cho trẻ  dễ  dàng tự  lựa chọn và sử  dụng sự  vật,  đồ  vật, đồ  chơi để  thực hành, trải   nghiệm, khám phá dưới nhiều hình thức khác nhau, phát triển toàn diện. ­ Tạo những điều kiện, cơ  hội, tận dụng hoàn cảnh, tình huống thật cho trẻ  trải nghiệm, khám phá trong môi trường an toàn.   * Khi chuẩn bị môi trường học tập, giáo viên phải kiểm soát và loại bỏ các  mối nguy hiểm như đồ vật nhọn, sắc, hạt nhỏ… để đảm bảo môi trường an   toàn cho trẻ. Tận dụng môi trường, học liệu sẵn có, thế mạnh tại vùng miền  để giúp trẻ học hiệu quả. Sắp xếp các đồ vật trong và ngoài lớp học cần giúp   trẻ có hứng thú, tích cực trải nghiệm và sáng tạo. Khuyến khích và tạo cơ hội  cho trẻ được tham gia vào việc tạo ra đồ dùng, đồ  chơi và trẻ được tham gia  vào việc sắp sếp môi trường hoạt động. * Xây dựng môi trường phát triển ngôn ngữ trong nhóm, lớp. ­ Tạo môi trường ngôn ngữ đa dạng, sinh động, tạo sự hấp dẫn lôi cuốn trẻ,   phù hợp với độ tuổi.Tận dụng không gian, vị trí hợp lý để tạo ra môi trường   ngôn ngữ cho trẻ. + Môi trường trong lớp: Sử  dụng chữ  cái trong môi trường lớp để  trẻ  có  nhiều cơ hội tiếp xúc với chữ. + Môi trường ngoài lớp: Tận dụng các vị trí, khu vực hợp lý để gắn các biển   chỉ dẫn kèm hình ảnh minh họa giúp trẻ hiểu ý nghĩa của các kí hiệu. Ví dụ: ­ Lập một bảng gồm những bức  ảnh hoặc vẽ  những nhiệm vụ  mà trẻ  cần phải thực hiện trong ngày và có thể  cho điểm đối với mỗi việc mà trẻ  hoàn thành được.Trẻ được khuyến khích đọc sách và kích thích sự  phát triển  đọc viết, tương tác với các chữ  viết trong môi trường, trong các trò chơi và  các phương tiện chơi như  trong các tấm card, thẻ  thư  viện, tờ  quảng cáo  poster, ký hiệu, các nhãn dán mác phù hợp  ở  trong lớp Như chúng ta đã biết,  ngay từ nhỏ trẻ đã có phản xạ với cái đẹp bằng những biểu hiện như: hướng  mắt về ánh sáng, thích ngắm những vật có màu sắc loè loẹt nổi bật, trẻ bắt   đầu có ý thích ngắm nhìn các bức tranh, những hình thù ngộ  nghĩnh và đa   dạng, tuy nhiên chúng chưa thể nhận biết, phát hiện ra cái đẹp của những tác  phẩm  ấy. Điều đó có thể  nói rằng, trẻ  luôn có những xúc cảm rất đặc biệt   với những sự  vật hình tượng xung quanh, nó mang lại cảm xúc và ấn tượng  mạnh đối với trẻ thôi thúc trẻ muốn khám phá và muốn sáng tạo ra cái đẹp vì   vậy mỗi một chủ đề tôi trang trí tạo môi trường khác nhau nhằm giúp trẻ làm  10
  11. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” quen với các câu từ, các tình tiết qua tranh  ảnh, giúp cho trẻ  có sự  tưởng   tưởng về  tác phẩm đó.Tạo môi trường ngôn ngữ  đa dạng, sinh động, tạo sự  hấp dẫ lôi cuốn trẻ, phù hợp với độ  tuổi. Tận dụng không gian, vị  trí hợp lý  để tạo môi trường ngôn ngữ cho trẻ, để trẻ có cơ hội tiếp cần với tranh ảnh,   từ ngữ, cùng với các biển chỉ dẫn, các kí hiệu tranh ảnh minh họa để trẻ hiểu  ý nghĩa của nó. ( Ảnh minh họa góc cùng bé đọc sách) VD: Ở chủ đề “Gia đình” tôi dán bài thơ “bó hoa tặng cô” và cho trẻ làm quen  với tác phẩm bất kỳ  lúc nào tôi thấy phù hợp.  Ở  chủ  đề  “Phương tiện giao   thông” tôi cho trẻ làm quen với câu chuyện “Xe lu xe ca” tôi dán những tranh  có trình tự theo câu chuyện và kể chuyện theo tranh cho cháu nghe. ­ Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các học cục, đội  hình để tạo môi trường học tốt và thoải mái cho trẻ .    ­Tôi luôn khuyến khích trẻ  mang những cuốn sách hay từ  nhà đến để  cùng  chia sẻ  với bạn bè. Hay đặt một chiếc đài  ở  góc đọc sách có băng đĩa, đọc   chuyện và những quyển chuyện tương  ứng  ở góc đó. Hoặc đặt hộp bút màu,   giấy, tranh nhân vật cho trẻ tô màu. Một cái ghế đệm , con thú đặt vào góc sẽ  tạo cho trẻ cảm giác ấm cúng, gần gũi với trẻ. ­ Để giúp trẻ nâng cao khả năng cảm thụ văn học thì việc tạo cơ hội cho trẻ  làm quen với tác phẩm văn học phải thường xuyên. Ngay từ  đầu năm học   BGH nhà trường đã trang bị cho lớp nhiều quyển truyện, tạp chí. Ngoài ra tôi  còn sưu các sách văn học, các hoạ báo, tập chí, lịch cũ, nguyên liệu cho trẻ tự  làm sách để xây dựng một “Góc thư  viện” mang nội dung văn học, tại “Góc   thư  viện” trẻ  được xem các tranh truyện, tạp chí, hoạ  báo. Sau đó cô kể  truyện cho trẻ  nghe về  nội dung những câu chuyện như  “Món quà của cô   giáo”, “Thỏ con đi học”… hướng dẫn trẻ cách tri giác các tranh truyện đó dần   dần trẻ có thể tự  đọc. Tất nhiên có thể  lúc đầu trẻ  đọc theo trí nhớ, trẻ  nhớ  về nội dung câu chuyện cô đã kể rồi tự kể khớp với nội dung câu chuyện mà  trẻ tri giác.  Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể,   cách sử  dụng tranh, sách tranh, rối mô hình… để  giúp trẻ  cảm thụ  được tác   phẩm văn học đó là một cách tốt nhất. Các loại tranh  ảnh sách truyện do cô   và trẻ làm không chỉ được sử dụng trong giờ học văn học mà còn được tôi sử  dụng để  trang trí lớp, làm đồ  dùng đồ  chơi trong góc thư  viện .Như  vậy trẻ  11
  12. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” sẽ  được ôn luyện, củng cố  kiến thức về  các câu truyện bài thơ   ở  mọi lúc,   mọi nơi, trong các thời điểm khác nhau .      Không những tạo môi trường học tập trong lớp mà tôi còn tạo cho trẻ môi  trường hoạt động ngoài lớp học như  xây dựng cho trẻ  “Góc thiên nhiên”  ở  ngoài hiên với nhiều loại cây hoa khác nhau. Qua đó giúp trẻ nhận biết được  màu sắc quen thuộc trong cuộc sống và trẻ  sẽ  học và liên tưởng đến những  câu chuyện liên quan đến những loài cây, loài hoa….. từ đó  trẻ tham gia giúp  cô chăm sóc góc thiên nhiên. Ngoài ra tôi còn tận dụng những gì có sẵn trên  sân trường để  trẻ  tiếp thu được kiến thức và kĩ năng theo yêu cầu của ch­ ương trình đề ra. ( Ảnh góc thư viện của bé) 3. Biện pháp: Lựa chọn tác phẩm cho chủ  đề. Đưa dân ca, bài hát, trò   chơi lồng ghép vào trong hoạt động.     Việc thực hiện theo chủ đề  đã tạo điều kiện cho giáo viên được tự  chọn   tác phẩm , chính vì vậy việc chọn sao cho phù hợp với lứa tuổi, với tình hình  trẻ trong lớp, với thời gian, với kiến thức, kỹ năng của trẻ, với nội dung giáo  dục mà giáo viên cần truyền đạt đến trẻ  là điều rất quan trọng. Trong một   chủ đề giáo viên tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với nhiều câu chuyện ở  những thời điểm khác nhau.        Những tác phẩm mà tôi chọn cho cháu làm quen  ở  các chủ  đề  cần phải  phản ánh được các hiện thực của cuộc sống thông qua những hình tượng  nghệ thuật được xây dựng bằng ngôn ngữ, có sự thống nhất giữa nội dung và  hình thức.nVà một điều lưu ý mà tôi không thể  bỏ  qua, đó là tác phẩm phải   mang tính vừa sức, số  lượng từ  trong một tác phẩm phải phù hợp với lứa  tuổi, nội dung phản ánh quen thuộc , gần gũi với trẻ, không sử  dụng biện   pháp tu từ   ẩn ý cao siêu mà làm cho trẻ  không hiểu được. Ngôn ngữ  phải  trong sáng, nhân vật được xây dựng một cách hồn nhiên, ngộ  nghĩnh. Đặc   biệt là tác phẩm đó phải mang ý nghĩa giáo dục về đạo đức cho trẻ, thông qua   tác phẩm trẻ rút ra được cho mình hành động đúng. VD1: Ở chủ đề trường mầm non tôi chọn câu chuyện “Món quà của cô giáo”,  qua câu chuyện này với những nhân vật mang tính cách nhân hóa sẽ  giúp trẻ  cảm nhận tác phẩm một cách không nhàm chán, trẻ  cảm thấy thích thú với  những nhân vật quen thuộc, ngộ nghĩnh từ đó trẻ rút ra được bài học cho bản  thân là không những chỉ  học chăm chỉ  là ngoan, giỏi mà biết nhận lỗi khi có  lỗi mới  là điều ngoan. 12
  13. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” VD2: Với chủ đề gia đình tôi đã chọn câu chuyện “ cô bé quàng khăn đỏ”, qua  tác phẩm đó trẻ sẽ hiểu mình cần phải biết thương yêu bà mình, không được  vì bận làm một điều gì đó mà không nghe lời bà dặn, thương yêu mẹ , yêu bà  thì sẽ được nhiều người yêu mến. VD3: Chủ đề  nghề  nghiệp tôi cho trẻ  làm quen với câu chuyện “anh em nhà   gấu” Truyện mang tính chất gần gũi với trẻ, anh em phải biết yêu thương và   quan tâm đến nhau và trẻ  nhận biết thêm điều nữa đó là phải siêng năng,   chăm chỉ , giúp đỡ mọi người mới được đón nhận tình yêu thương của người  khác đối với mình và có kết quả tốt trong cuộc sống.       Với những tác phẩm là thơ thì đòi hỏi giáo viên cần phải tôn trọng tác giả,   đọc đúng từ, đúng câu. Còn đối với những tác phẩm là truyện thì giáo viên có  thể  chuyển thể, thêm, bớt các câu từ, thêm bài hát, bài thơ  xen kẽ  vào tác  phẩm. Trong một câu chuyện khi tôi diễn rối cho trẻ  xem, tôi đã chuyển thể  những vẫn giữ đúng nội dung cốt chuyện, bên cạnh đó tôi thường lồng ghép   những bài hát mang làn điệu dân ca vào khi diễn rối hay đóng kịch. Khi những   tác phẩm có làn điệu dân ca thì tôi thấy trẻ đã nhập tâm và thể  hiện sắc thái  theo làn điệu của bài hát. Hơn nữa để  tạo không khí vui tươi, sôi nổi và gây  được hứng thú trong tiết học giúp cho trẻ tiếp thu bài có hiệu quả, dễ nhớ và  nhớ lâu tôi đã lồng bài hát và trò chơi vào các hoạt động chung. VD1: + Để tạo không khí sôi nổi, hứng thú vui tươi nhẹ nhàng trong tiết học  thu hút trẻ một cách thích thú, tôi tổ chức tiết học thành một chương trình vui   có những trò chơi hấp dẫn như  chương trình “Vườn cổ  tích”, “Những nhà  thông thái hoặc chương trình: “Trò chơi âm nhạc”, “Bé làm nghệ  sĩ” và mở  đầu các chương trình bao giờ  cũng có bài hát hướng trẻ  vào nội dung của   chương trình.  + Trong chương trình “Bé làm nghệ  sĩ ” trẻ  được tìm hiểu và tham gia các  phần thi kiến thức, trả lời các câu hỏi mang nội dung của từng phần, thi lồng   tiếng cho các nhân vật, trẻ  thi kể  chuyện theo tranh và được thi trổ  tài (trẻ  đóng kịch, ngâm thơ, hát…) . Đặc biệt tâm lý của trẻ  lứa tuổi này là hiếu   động mà hoạt động cho trẻ làm quen với văn học là hoạt động tĩnh đòi hỏi trẻ  phải tập trung chú ý cao vì vậy những trò chơi hấp dẫn trẻ thì việc sử  dụng   câu đố, trò chơi đồng dao có nội dung liên quan tới tác phẩm là cần thiết. VD2: Trò chơi có nội dung liên quan đến tác phẩm “Chú Dê Đen”cách chơi:  + Cô nói tên nhân vật trẻ nói đặc điểm nhân vật và ngược lại.   Dê trắng, dê trắng: nhút nhát, nhút nhát. 13
  14. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học”   Dê đen, dê đen: dũng cảm, dũng cảm.   Trẻ vỗ tay: Hoan hô Dê trắng. Bạn dê đáng khen. + Cô đọc câu đố:  Trèo cây nhanh thoăn thoắt                          Đố bạn biết con gì?                          Đầu đội hai cái núm                          Miệng lại kêu be be VD3: Khi cho trẻ làm quen với truyện: “Giấc mơ kỳ lạ”. Tôi đã sưu tầm bài   hát, Trò chơi có nội dung liên quan tới câu chuyện để  đưa vào tích hợp trong   tiết học. Với truyện này tôi đã lựa chọn bài hát: “Hãy xoay nào” tôi vào bài  bằng hình thức cho trẻ  cùng cô hát và vận động theo lời bài hát “Hãy xoay   nào”. Đây là một bản nhạc nước ngoài rất vui nhộn, trẻ  vừa hát vừa vận   động nên rất thích thú. Không chỉ có thế tôi còn nghiên cứu và tìm cách ngâm   những bài thơ hay hoặc chuyển lời của những bài thơ đó thành những câu hát,   chuyển từ truyện sang thành thơ, đây cũng là hình thức hay tạo hứng thú cho  trẻ giúp trẻ dễ nhớ, dễ thuộc nội dung bài thơ câu chuyện mà cô muốn mang  đến cho trẻ. VD: Tôi sưu tầm các bài thơ được phổ nhạc như: “Chim chích bông”, “Có con   chim chích”... vào dạy trẻ và trẻ rất hứng thú 4. Biện pháp: Đổi mới các phương pháp cho trẻ  làm quen với tác phẩm   văn học.    Để trẻ có những kĩ năng kể chuyện hay diễn cảm và có hứng thú tham gia  vào các hoạt động nghe, kể  đóng kịch, kể  truyện sáng tạo, tôi đã tiến hành   như sau: + Làm giàu biểu tượng giúp trẻ  kể  chuyện sáng tạo, tạo tình huống có thật  để trẻ quan sát, suy đoán và đưa ra các kết luận về các sự vật, hiện tượng trẻ  quan sát được + Ví dụ 1: Cô chuẩn bị một chậu nước bên trong đã thả sắn một chú kiến sau  đó cho trẻ quan sát, trong quá trình trẻ quan sát cô đặt một số câu hỏi như : “   các con thấy gì trong chậu nước?”,“ chú kiến bị  làm sao”, các con biết cảm  giác của chú kiến lúc này như  thế  nào không?”,“ nếu chú kiến không thoát  khỏi chậu nước này chuyện gì sẽ  xảy ra?”. Sau đó cô thả một chiếc que vào  chậu nước để  kiến bám vào và bò ra khỏi chậu nước. cô đặt tiếp câu hỏi:   nhờ  đâu mà chú kiến thoát khỏi nguy hiểm?. Sau khi đã cho trẻ  quan sát sự  việc cô hướng dẫn trẻ  kể  chuyện về chú kiến theo trình tự  sự  việc đã nhìn   thấy và gợi ý để trẻ đặt tên cho câu chuyện của mình. 14
  15. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” + Ví dụ 2: để giúp trẻ có thể kể chuyện về cây đỗ, trước đó cô cho trẻ mang   hạt đỗ ra ươm vào một ô đất nhỏ, hằng ngày cho trẻ tưới và quan sát xem hạt  đõ phát triển như thế nào? Đến khi hạt đõ nảy mầm và ra lá, rồi hỏi trẻ một  số  câu hỏi như : Hạt đỗ  được chăm sóc như  thế  nào? Được tưới nên hạt đõ   phát triển ra sao? Sau đó cô gợi ý cho trẻ  kể  chuyện về  cây đỗ.Sưu tầm và  làm các tranh có hình ảnh đẹp, ngộ nghĩnh cho trẻ quan sát và trả lời các câu   hỏi gợi ý của cô. Sau đó gợi ý để trẻ kể một câu chuyện theo các bức tranh cô   đã chuẩn bị  Ví dụ: cô chuẩn bị các bức tranh + tranh 1: một chú thỏ đang ngồi trồng cây chuối + tranh 2: một chú thỏ đang tưới cây + tranh 3: thỏ con đang đứng ngắm cây chuối đã ra buồng Cô cho trẻ quan sát từng tranh và đặt ra các câu hỏi như:Thỏ con đang làm gì? Tại sao thỏ con lại phải tưới nước cho cây?Cây chuối lớn nhanh là nhờ có ai? Sau đó cô gợi ý để trẻ kể một câu chuyện theo nội dung của bức tranh Để tạo tâm trạng phấn khởi, háo hức cho trẻ, giáo viên trò chuyện với trẻ về  việc làm đồ dùng cho câu chuyện (cô nói rõ tên truyện) của ngày hôm sau, sau  đó phân công nhiệm  vụ  cụ  thể  cho từng trẻ  hoặc cho trẻ  tự  nhận mang   nguyên vật liệu để  thực hiện những công việc mà cô và trẻ  đã chuẩn bị.Cho  trẻ được làm đồ dùng cùng cô vào các buổi chiều thứ sáu của tuần thứ hai và  tuần thứ tư hàng tháng như: cho trẻ in hình nhân vật trên giấy, cắt, dán tranh  ảnh, tô màu tranh với những họa tiết đơn giản… Trong quá trình cô và trẻ  cùng làm đồ  dùng, cô khơi gợi thêm những ý tưởng sáng tạo của trẻ, trò  chuyện về  nội dung bức tranh hay đồ  dùng đang làm.Để  giúp trẻ  nhớ  được  trình tự câu chuyện, kể chuyện diễn cảm và hóa than vào các nhân vật khi trẻ  đóng kịch, trong các giờ  hoạt động chung, tôi đã luôn chú ý tới hệ thống câu   hỏi, câu gợi ý, đồ  dùng trực quan để  tạo sự  hứng thú, khuyến khích trẻ  thể  hiện các sắc thái tình cảm, ngữ điệu, giọng điệu, của các nhân vật trong từng   câu chuyện. Ví dụ: Trong câu chuyện “Chú Dê đen”: + Có thể cài đắt hệ thống câu hỏi của nhân vật Chó Sói như:  ­“Chó   Sói   là   con   vật   như   thế   nào?”­“Giọng   nói   của   Chó   Sói   như   thế  nào?”­“Ai giả giọng Chó Sói cho cả lớp cùng nghe?”. 15
  16. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” + Đồ dùng trực quan: Sử dụng rối tay, băng hình đã được tách lời để tạo hình  ảnh sống động thu hút sự  chú ý của trẻ và giúp trẻ  ghi nhớ, khắc sâu về  nội  dung, diễn biến của câu chuyện + Với từng câu chuyện, thể  loại cô đưa ra hệ  thống câu hỏi đã chuẩn bị  có   tính logic để  đàm thoại với trẻ  theo phương châm “lấy trẻ  làm trung tâm  nhằm phát huy trí tưởng tượng cảm xúc của trẻ, chú ý không dược áp đặt gò  bó. Trong những giờ  dậy trẻ  đóng kịch tôi đã sưu tầm những bản nhạc phù  hợp với câu chuyện để  phụ  họa khi trẻ  thể  hiện các vai trong kịch bản.Mỗi  tháng tôi tổ chức hội thi bé hay kể chuyện, đọc thơ một lần vào tuần cuối của  tháng qua hình thức này tạo hứng thú cho trẻ  và sự  quan tâm phấn khởi tin   tưởng của cô với trẻ  được gần gũi hơn.  Trong một tác phẩm khi giáo viên  muốn truyền đạt, gởi gắm tâm tư, tình cảm của tác giả  thông qua tác phẩm  để đến với trẻ, thì việc lựa chọn phương pháp là điều rất quan trọng. Đối với   trẻ  nhỏ, sự  kiên trì và khả  năng chú ý của chúng chưa được tốt nên cũng dễ  dẫn đến sự nhàm chán và không hào hứng với công việc được giao trong một   thời gian ngắn, và chính người lớn chúng ta cũng không thể  nào ép buộc trẻ  hoàn thành nhiệm vụ  được, xuất phát từ  những đặc điểm đó để  hướng dẫn   trẻ đi vào hoạt động LQVH đặc biệt là đọc, kể diễn cảm bài thơ, tập kể lại   truyện, tập đóng kịch, tôi không yêu cầu trẻ  thực hiện ngay điều đó sẽ  làm   cho một giờ hoạt động khô khan và không đạt ở trẻ sự hứng thú tích cực, mà   đặc biệt với sự áp dụng chương trình giáo dục mầm non mới nó đòi hỏi một  giờ hoạt động phải nhẹ nhàng và chủ động trên trẻ nhiều hơn trong đó người   giáo viên chỉ là người định hướng cho trẻ. Nhưng việc thu hút được sự chú ý  của trẻ  vừa dễ  lại vừa khó vì trẻ  rất hào hứng trước những điều mới lạ,   nhưng dễ  chán với những gì quen thuộc. Vì vậy, tôi luôn suy nghĩ thay đổi   hình thức vào bài sao cho sinh động, hấp dẫn bằng cách dùng những câu nói  nhẹ nhàng, nét mặt vui tươi, sử  dụng các trò chơi, ®å dïng trùc quan... tạo  tình huống bất ngờ để thu hút sự chú ý của trẻ vào giờ học. Từ đó đã lôi cuốn  trẻ  chú ý, không khí giờ  học trở  nên hào hứng, không gò bó mà vẫn đạt kết   quả  cao.TrÎ c¶m thô ng«n ng÷ nghÖ thuËt, nội dung tác phẩm b»ng c¸ch nghe, ®äc kÓ. Do vËy t«i lu«n sö dông mäi s¾c th¸i giäng kÓ cña m×nh lµm ph¬ng tiÖn ®Ó ®äc kÓ biÓu c¶m kh¸c nhau lµm cho t¸c phÈm cÊt lªn tiÕng nãi, t¹o cho t¸c phÈm bøc tranh t¬ng øng, hÊp dÉn ®èi víi trÎ. Do vËy, khi muèn tr×nh bµy mét t¸c phÈm t«i lu«n t×m hiÓu, suy nghÜ vµ nghiªn cøu t¸c phÈm ®Ó hiÓu ®îc ý nghÜa mµ t¸c gi¶ muèn göi vµo 16
  17. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” t¸c phÈm. Và tôi đã vận dụng một số  phương pháp vào bộ  môn nhằm phát  huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học ­ Với phương pháp đọc kể diễn cảm:  Tôi đọc qua tác phẩm và lựa chọn ngữ  điệu giọng sao cho phù hợp với tính cách của từng nhân vật, Tôi luôn phân  biệt giữa giọng đọc và giọng kể  cố  gắng nhập tâm vào tác phẩm để  truyền   tải tới người nghe tất cả  những thông điệp mà tác giả  muốn gửi gắm qua   giọng kể  diễn cảm, sắc thái khuôn mặt cử  chỉ  điệu bộ, ánh mắt.  Ngữ  điệu  giọng kể  là một yếu tố  vô cùng quan trọng vì nó là phương tiện của việc   truyền tải nghệ thuật, cường độ của giọng kết hợp với cử chỉ nét mặt. + Với Truyện “Ba cô gái” Giọng của người mẹ thì ồm ồm và run run, chậm  chạp, thể hiện của một người già yếu đang bị bệnh, giọng của sóc thì nhanh  nhẹn…. + Với bài thơ “bó hoa tặng mẹ”:  Đọc diễn cảm: 8 câu thơ đầu đọc với giọng  chậm rãi thể hiện sự băn khoăn, lo lắng, 4 câu thơ tiếp theo đọc với nhịp độ  bình thường, nhấn vào các từ  ”nhỏ  nhắn”, “ phe phẩy”, “ đều đều”, “ rung   rinh”. Các câu thơ  tiếp theo đọc chậm rãi thể  hiện tình cảm yêu mến quan  tâm chăm sóc. ­ Phương pháp đàm thoại: sau khi trẻ đã có những hình tượng về tác phẩm thì  tôi đặt câu hỏi  một cách ngắn gọn, phù hợp với lứa tuổi của trẻ, không nên  đặt câu hỏi vụn vặt và tạo điều kiện cho trẻ trả lời có hoặc không. Như  câu   chuyện “cô bé quàng khăn đỏ” Ví dụ:+ Trong câu chuyện này có những nhân vật nào? + Mẹ đã dặn cô bé điều gì? Cô bé đã gặp ai? Sóc đã nói gì với  cô bé?  Cô bé có nghe lời sóc không?Chuyện gì xảy ra với cô bé ? Ai đã giúp cô bé và  bà cô bé ­ Phương pháp giải thích: Trong một tác phẩm bao giờ cũng có những từ khó,  từ vay mượn, từ hình ảnh… vì vậy giúp cho trẻ dễ hiểu thì tôi cần lựa chọn  và giải thích ngắn gọn:  Trong câu chuyện “ Giọt nước tí xíu” tôi cho trẻ hiểu   về từ  “ vén mây” nghĩa là kéo mây qua một bên. Từ  “Bay là là” nghĩa là bay   thấp. Từ “Oi bức” nghĩa là trời nóng nực. ­  Phương pháp trực quan: Tư  duy của trẻ  lứa tuổi này là tư  duy trực quan  hình tượng nếu như cô chỉ kể cho trẻ nghe nhiều lần bằng lời bằng lời thì trẻ  sẽ nhanh chán, không nhanh nhẹn, thông minh, hoạt bát, sáng tạo từ đó không  có được kết quả cao. Muốn trẻ hào hứng tham gia và yêu thích môn văn học  thì phải xây dựng nề  nếp thói quen tốt trong học tập cho trẻ  như  cách ngồi  17
  18. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” học đúng tư  thế, cách trẻ  lời câu hỏi của cô và cách sử  dụng đồ  dùng trực  quan khi tham gia các hoạt động như thế nào: Cách thực hiện các bước trong   hoạt động làm quen với văn học ra sao?  Đồ  dùng trực quan là một trong  những phương tiện không thể  thiếu trong quá trình cung cấp các kiến thức,  biểu tượng cho trẻ, nó giúp cho quá trình truyền thụ kiến thức tới trẻ trở nên   dễ dàng hơn, nhẹ nhàng hơn mà hiệu quả đạt được rất cao bởi trẻ mầm non   rất nhớ những gì mình được học, được chơi, được nhìn thấy, những đồ dùng  đó có tính thẩm mỹ cao thì trẻ càng nhớ sâu sắc. Chính vì vậy để một giờ văn  học đạt được kết quả tốt thì yếu tố đầu tiên để góp phần vào thành công của  giờ  dạy đó chính là đồ  dùng của cô và trẻ. Việc chuẩn bị  đồ  dùng học liệu  phải mang tính thẩm mỹ, khoa học, có tính giáo dục cao và đặc biệt là phù  hợp với trẻ và nội dung hoạt động. Vì thế   ở  các giờ  hoạt động LQVH cũng   như các hoạt động khác tôi rất chú trọng về việc chuẩn bị đồ  dùng cho mình  như: tranh truyện, thơ, sân khấu diễn kịch, hình  ảnh trên máy, video ....phải  đẹp, sinh động, chuyển động và có màu sắc nổi bật, bố  cục rõ nét và đặt  ở  nơi trẻ  dễ  quan sát, chú ý đến chỗ  trẻ  ngồi.  Còn đồ  dùng của trẻ  như  mũ  nhân vật, trang phục nhân vật, các phụ kiện phù hợp với từng nội dung tryện,   thơ. Từ  đó tôi đã tham mưu với ban giám hiệu nhà trường,   vận động phụ  huynh đóng góp để trang bị đầy đủ các đồ dùng của trẻ. Còn về phía đồ dùng  của cô thì sau khi nhận kế hoạch giáo dục tôi đã tự bố trí thời gian của mình  để làm các bức tranh, các con rối, các giáo án điện tử đảm hấp dẫn, sinh động  để thu hút sự chú ý cao nhất ở trẻ. Nắm vững được đặc điểm sinh lý của trẻ,  tư duy trực quan hình tượng do vậy mà việc sử dụng đồ dùng trực quan trong   tiết học có vai trò cực kỳ quan trọng, nó giúp trẻ hứng thú với tác phẩm. Tôi   sử dụng đồ dùng trực quan để giới thiệu tác phẩm.   VD1:  Cô đưa rối tay “Xin chào các bạn! Đố  các bạn biết mình là ai nào?   Mình là Hươu con, mình có 1 đôi sừng rất đẹp, đố  các bạn biết vì sao mình  lại có sừng! Vậy hôm nay mình sẽ kể cho các bạn nghe Truyện “Vì sao hươu   có sừng” VD2:  Cho trẻ  xem một đoạn video cảnh rùa cõng cá trên lưng bò lên bờ  đi   xem hội bỗng nhiên cá lăn xuống đất? Muốn biết vì sao cá lại lăn xuống đất  cô mời các con cùng xem bộ  phim: “Cá rô con lên bờ”.Tôi còn sử  dụng đồ  dùng trực quan để giảng từ khó, minh hoạ cho lời trẻ Tôi đưa tranh ra chỉ  cho trẻ  xem kết hợp với lời giảng giải. Trẻ rất thích  thú khi   xem các hình  ảnh đó minh hoạ  cho câu chuyện. Tôi luôn dành thời   18
  19. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” gian sưu tầm, nghiên cứu để  tạo ra những sản phẩm như  rối tay, rối rẹt và  cách sử dụng khác nhau để minh hoạ cho câu chuyện, bài thơ  thêm hấp dẫn:   Rối bông, rối rẹt. Sử  dụng đồ  dùng trực quan để  kể  lại tác phẩm: Qua bức   tranh cô giáo vẽ về truyện: “cây rau của thỏ út” Quả thật trẻ không chỉ hiểu   nội dung bức tranh mà còn tái hiện lại trình tự của truyện qua việc trẻ tự lên   sấp xếp lại trình tự  của truyện. Trong khi đọc, kể  truyện tôi có thể  vẽ  các  nhân vật đơn giản, giúp trẻ có hứng thú khi được tận mắt nhìn các nhân vật  trong câu chuyện, bài thơ của mình từ từ xuất hiện                     ( Ảnh bé kể theo tranh truyện cây rau của thỏ út) ­Phương pháp thực hành: đây là phương pháp mang tính chất nghệ thuật, trẻ  chính thức được nhập vai thể hiện tính cách của từng nhân vật. VD: Truyện “Ba cô gái” tôi dạy cháu thuộc lời đối thoại của các nhân vật và  phân vai, chọn cháu phù hợp tính cách của nhân vật và giao vai, hướng dẫn   cháu thể hiện lại tác phẩm trọn vẹn. 5. Biện pháp: Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dạy trẻ    Hiện nay việc  ứng dụng công nghệ thông tin vào trong hoạt động khá phổ  biến đối với giáo viên mầm non, nhất là trong hoạt động làm quen văn học   này,   khi   tôi   chọn   một   đề   tài   để   dạy   thì   bản   thân   tôi   tạo   cho   mình   một  Powerpoint sinh động. Tôi thường xuyên lên mạng internet tham khảo những   bài giáo án điện tử, lấy những thông tin hỗ  trợ  từ  những trang web dành cho  giáo viên trong cách soạn giáo án điện tử, tôi chọn lọc những cái cần thiết và  tạo cho mình một kho tàng giáo án điện tử, kể từ đó bản thân tôi có rất nhiều   những bài giảng về văn học.Khi tổ chức cho trẻ làm quen với câu chuyện, tôi   trình chiếu cho trẻ xem về nội dung câu chuyện đó, tôi thấy trẻ thích thú hơn,   nhất là khi được xem trên màn trình chiếu rộng đặc biệt là với những hình   ảnh động và những tác phẩm được kết hợp với những âm thanh sinh động,   phù hợp với từng nội dung. 6. Biện pháp: Một số hình thức kể chuyện sáng tạo cho trẻ * Tập đặt tên cho câu chuyện được nghe: trong quá trình kể  chuyện cho trẻ  nghe tôi kể câu chuyện nhiều lần không giới thiệu tên chuyện. đàm thoại dẫn  dắt trẻ đặt tên cho câu chuyện: Trong chuyện có những ai? Bạn đang làm gì?  Con thích nhất nhân vật nào? Theo con câu chuyện tên là gì? Sau đó tôi ghi  nhận tên câu chuyện rồi kể lại cho trẻ nghe  *  Kể  chuyện theo đồ  chơi: Tôi lựa chọn một số  đồ  chơi, đồ  vật đẹp gần  gũi, có liên quan với nhau, hấp dẫn, lôi cuốn trẻ. Giáo viên trò chuyện, đàm   19
  20. “Một số biện pháp giúp phát huy tính tích cực của trẻ khi làm quen với tác phẩm văn học” thoại gợi ý hỏi trẻ  quan sát đặt điểm nổi bật của đồ  chơi, ý tưởng kể, nội  dung câu chuyện kể, mối quan hệ  giữa các nhân vật. Tổ  chức lần đầu trẻ  chưa quen cô có thể  kể  mẫu cho trẻ  nghe một câu chuyện khác, cho trẻ  kể  chuyện với đồ  chơi. Nếu trẻ  gặp khó khăn thì đặt lại lời kể, gợi ý hỏi trẻ,  cho trẻ đặt tên câu chuyện của mình.   Ví dụ: + Hai chú thỏ  con đang đi thì nhìn thấy gì? Chuyện gì sẽ  xảy ra?   Chuối cùng như thế nào? Tên câu chuyện là gì? “ Vào một ngày đẹp trời, có  hai chú thỏ  trắng, thỏ  đen cùng rủ  nhau vào rừng chơi, đi được nửa đường   bỗng dưng xuất hiện một con hổ nó quát to: thỏ  kia mày đi đâu? Thỏ  run sợ  trả  lời: tôi đi vfaof rừng chơi  ạ. Nghe thỏ  nói vậy, hổ  gầm lên ha ha ha ta  đang đói đây, ta sẽ được một bữa no nê….” * Kể  truyện theo tranh tìm sự  nối tiếp:   Cho trẻ  sưu tầm những sách báo  truyện tranh có hình  ảnh và nội dung rõ rang có 2­4 nhân vật với các hành  động tình huống gần gũi với cuộc sống hằng ngày của trẻ + Mẫu giáo bé: 1­2 tranh + Mẫu giáo nhỡ: 2­3 tranh + Mẫu giáo lớn: 3­5 tranh hoặc tranh liên hoàn     Tùy theo lứa tuổi mà cô hướng dẫn cho phù hợp, thu hút lôi cuốn trẻ hứng   thú chú ý vào các bức tranh khơi gợi những hiểu biết vốn từ có liên quan đến  bức tranh gợi hỏi trẻ mô tả  : Tranh vẽ gì? Vịt đang làm gì? Vịt thấy thế nào   khi thỏ  bị  rơi xuống nước? Đối với tranh liên hoàn nên sử  dụng các câu hỏi  kích thích trí tò mò tưởng tượng suy đoán của trẻ: Có mấy tranh? Các bức  tranh có nội dung gì? Theo con sẽ xắp xếp như thế nào? Vì sao? Con hãy kể  câu chuyện và đặt tên cho câu chuyện      *  Kể chuyện theo kinh nghiệm:Giáo viên chọn một tình huống sự kiện gần  gũi mà trẻ đã chứng kiến để kể chuyện trò chuyện với trẻ về tình huống đó Ví dụ: tình huống nhìn thấy một bạn vứt rác ra sân trường hoặc bột bà cụ  đang sang đường, hai bạn nhỏ tranh dành đồ chơi. cô khơi gợi những tình tiết   liên quan đến tình huống như gọi tên, đặc điểm hành động của nhân vật, nơi  xảy ra… từ đó giúp trẻ biểu đạt hiểu biết, suy nghĩ của mình về câu chuyện  định kể. cho trẻ kể nếu gặp khó khăn cô có thể gợi ý cho trẻ kể. cho trẻ đặt  câu chuyện trẻ vừa kể.   *   Kể  chuyện nối tiếp theo chuyện kể  của cô:   Kể  cho trẻ  nghe một đoạn  chuyện hoặc tạo tình huống mới lại hấp dẫn trẻ  đến với câu chuyện cần   được giải quyết và hỏi trẻ: Câu chuyện tiếp theo sẽ như thế nào? Chuyện gì   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
30=>0