intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ khuyết tật chậm phát triển về thể lực, trí tuệ và ngôn ngữ kém hòa nhập với trường mầm non

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

49
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài "Một số biện pháp giáo dục trẻ khuyết tật chậm phát triển về thể lực, trí tuệ và ngôn ngữ kém hòa nhập với trường mầm non" nhằm xác định các biện pháp giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong trường mầm non nhằm phát huy hiệu quả của giáo dục toàn diện nhân cách giúp trẻ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp, hòa nhập với bạn bè. Đồng thời giáo dục lòng nhân ái, tình cảm yêu thương của các con đối với các bạn mình không may bị khuyết tật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ khuyết tật chậm phát triển về thể lực, trí tuệ và ngôn ngữ kém hòa nhập với trường mầm non

  1. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Trong xu thế phát triển của thời đại, đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, với trọng tâm là phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đất nước ta đang cần những nguồn năng lực dồi dào về thể chất, đạo đức và trí tuệ…Để thực hiện được điều đó chúng ta cần phải đầu tư đến yếu tố con người và vai trò của giáo dục. “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn biết ngủ, biết học hành là ngoan” Trẻ em là mối quan tâm hàng đầu của gia đình, cộng đồng và toàn xã hội. Trẻ em là mầm non của đất nước do đó trẻ cần được hưởng sự chăm sóc, giáo dục, dạy dỗ chu đáo của mọi người từ gia đình đến xã hội. Đặc biệt là trẻ khuyết tật. Vì vậy giáo dục trẻ khuyết tật là nhiệm vụ quan trọng và đầy tính nhân văn của nghành giáo dục. Trẻ khuyết tật phải được hưởng mọi quyền lợi như những trẻ bình thường, được hoc hòa nhập vui chơi như bao trẻ bình thường khác đó là việc làm mang tính nhân đạo, thể hiện quyền bình đẳng mà công ước Quốc tế, luật bảo vệ chăm sóc bà mẹ trẻ em thừa nhận. Lớp tôi đang dạy là lớp 5 tuổi A3 có cháu Võ Thị Huyền Trang bị khuyết tật “Chậm phát triển về thể lực,trí tuệ, ngôn ngữ kém” cháu sinh ngày 10 tháng 04 năm 2017. Cơ thể cháu phát triển không bình thường như bao trẻ khác, hoàn cảnh gia đình cháu: Ông nội mất sớm, bà nội bị liệt không đi lại được lời nói cũng không rõ, bố cháu là Võ Kiều Dương chỉ học đến lớp 3 là bỏ học, mẹ cháu là Nguyễn Thị Huyền sức khỏe yếu chỉ ở nhà cấy ruộng và chăm mẹ chồng nằm đâu nằm đấy, khi sinh bé Trang thì bố cháu mới 19 tuổi còn mẹ cháu 16 tuổi, gia đình ngoại điều kiện cũng rất khó khăn không giúp được gì, cháu Trang lại bị sinh non khi sinh cân nặng của cháu 1,3 kg vì hoàn cảnh gia đình nên cháu cũng không được chăm sóc tốt như bao trẻ khác. Cũng chính vì thế mà cơ thể của cháu rất nhỏ, vào đầu năm học lớp 5-6 tuổi cháu cân nặng 12,3kg; chiều cao 90 cm thuộc kênh suy dinh dưỡng thể gầy còm mức độ nặng, ngôn ngữ của cháu phát triển rất kém. Cháu thường không nói mà chỉ ú ớ khi muốn biểu lộ điều gì, hoặc ai hỏi gì cháu chỉ cười. Cháu hay ngồi một mình không chơi đùa cùng các bạn, không tham gia vào các hoạt động của lớp. Cháu thường xuyên tè và đi ngoài ra quần mà không biết thưa cô, đầu tóc cháu thì cháu cũng không giữ gọn gàng, cô giáo vừa chải tóc một lúc cháu lại ngồi và lôi bỏ dây buộc tóc, khả
  2. 2 năng tự phục vụ bản thân còn hạn chế như xúc cơm, mặc quần áo…Vì vậy vấn đề đặt ra đối với tôi lúc này là cần phải tìm hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để tìm ra những biện pháp chăm sóc giáo dục, giúp cháu học tập tốt hơn và hoà đồng với các bạn, có khả năng tự phục vụ bản thân. Chính vì vậy tôi đã nghiên cứu và tìm ra một số biện pháp nhằm giáo dục giúp đỡ cháu Võ Thị Huyền Trang bị khuyết tật “Chậm phát triển về thể lực, trí tuệ và ngôn ngữ kém hòa nhập với trường mầm non”. 2. Mục đích nghiên cứu Xác định các biện pháp giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong trường mầm non nhằm phát huy hiệu quả của giáo dục toàn diện nhân cách giúp trẻ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp, hòa nhập với bạn bè. Đồng thời giáo dục lòng nhân ái, tình cảm yêu thương của các con đối với các bạn mình không may bị khuyết tật. 3. Đối tượng nghiên cứu “Một số biện pháp giáo dục trẻ khuyết tật chậm phát triển về thể lực, trí tuệ và ngôn ngữ kém hòa nhập với trường mầm non” 4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm Lớp mẫu giáo A3 (5 – 6 tuổi), cháu Võ Thị Huyền Trang. 5. Các phương pháp nghiên cứu Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận Phân tích và tổng hợp các tài liệu lý luận và những văn bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Tham khảo tài liệu nghiên cứu thực tiễn về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật Tìm hiểu thực trạng trẻ khuyết tật ở lớp, liên hệ phối hợp với phụ huynh, tìm hiểu tâm sinh lý, cá tính của trẻ, sơ lược về dạng khuyết tật của trẻ. Nhóm phương pháp trải nghiệm Thực hành trải nghiệm, quan sát trong quá trình giảng dạy, trong các hoạt động trên lớp nhằm giúp trẻ khuyết tật hòa nhập. Phương pháp đánh giá: theo dõi, đánh giá sự tiến bộ của trẻ, phát huy điểm tích cực và giúp đỡ, hạn chế những khiếm khuyết của trẻ. 6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu Từ tháng 9 năm 2022 đến tháng 4 năm 2023.
  3. 3 PHẦN II: NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận Giáo dục trẻ khuyết tật là xu hướng chung của hầu hết các nước trên thế giới và đã được Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Việt Nam xác định là con đường chủ yếu để thực hiện những quyền cơ bản của mọi trẻ em, đặc biệt là quyền được giáo dục. Đây cũng là cơ hội để mọi trẻ em, trong đó chú trọng đến trẻ khuyết tật, trẻ khó khăn được tiếp cận nền giáo dục bình đẳng, có chất lượng. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta đã có một câu nói nổi tiếng: “tàn mà không phế”, đó cũng chính là chủ trương của Đảng, chính phủ và nhân dân Việt Nam đối với bộ phận người tàn tật. Kế thừa truyền thống nhân ái tốt đẹp của dân tộc Việt Nam “Thương người như thể thương thân”, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến những người khuyết tật trong xã hội, nhất là đối với trẻ em. Trong điều kiện đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế còn chậm phát triển, chúng ta đã từng bước xây dựng, thực hiện chính sách và biện pháp nhằm giúp đỡ người khuyết tật nói chung, nhất là giúp đỡ trẻ em bị khuyết tật về vật chất và tinh thần, vượt qua khó khăn riêng để hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng. Là giáo viên Mầm non đã lâu năm gắn bó trong nghề, với lòng yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với nghề nghiệp tôi suy nghĩ và chăn chở là phải làm thế nào để có những biện pháp giáo dục cháu Võ Thị Huyền Trang bị khuyết tật ở lớp tôi một cách hiệu quả nhất góp phần hạn chế những khiếm khuyết của cháu để cháu vững bước vào đời, hòa nhập với cộng đồng và là những người con có ích cho xã hội, cho đất nước. 2. Cơ sở thực tiễn Giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật vào các trường bình thường đang là một xu hướng phổ biến trên thế giới nói chung và đặc biệt đang được triển khai ở một số nước có hệ thống giáo dục đặc biệt phát triển. Cùng với sự phát triển giáo dục nói chung, giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong trường Mầm non nói riêng đã có bước chuyển biến khá tốt. Hầu hết các trẻ khuyết tật đều ra lớp học hòa nhập. Tại địa phương nơi tôi đang công tác đã huy động 100% trẻ khuyết tật 5 tuổi ra lớp học hoà nhập theo chương trình. Bản thân giáo viên tôi là giáo viên lâu năm đã có nhiều kinh nghiệm trong
  4. 4 công tác giảng dạy chăm sóc trẻ, đã nhiều năm đạt chiến sĩ thi đua, giáo viên dạy giỏi cấp huyện, được nhà trường đánh giá cao là giáo viên có năng lực chuyên môn tốt, về phía phụ huynh cũng rất yêu quý và tin tưởng yên tâm khi được con em mình vào lớp học do tôi phụ trách. 3. Khảo sát thực trạng 3.1. Khảo sát thực trạng của lớp trước khi thực hiện đề tài Giáo dục hòa nhập đòi hỏi sự hỗ trợ cần thiết để trẻ phát triển hết khả năng của mình. Sự hỗ trợ cần thiết đó được thể hiện trong việc điều chỉnh chương trình, các đồ dùng dạy học, dụng cụ hỗ trợ đặc biệt, các kỹ năng giảng dạy đặc thù… Nhằm chuẩn bị cho trẻ trở thành những thành viên đầy đủ của xã hội. Tuy nhiên, thực trạng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở trường Mầm non vẫn còn nhiều những hạn chế. Cộng đồng chưa nhận thức đầy đủ về vai trò và trách nhiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ khuyết tật và khả năng phát triển của trẻ khuyết tật. Cơ sở vật chất cho giáo dục trẻ khuyết tật còn kém về chất lượng và thiếu về số lượng, chủng loại, chưa có những trang thiết bị và đồ dùng dạy học đặc thù cho từng loại trẻ khuyết tật. Đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo chuyên sâu về giáo dục trẻ khuyết tật. Nhưng làm thế nào để trẻ khuyết tật hòa nhập trường Mầm non được tốt, đây là vấn đề mà toàn xã hội cần phải quan tâm, trong đó hệ thống giáo dục đóng vai trò then chốt. Trước thực trạng trên, trường Mầm non nơi tôi đang công tác nằm trên địa bàn nông thôn, đời sống kinh tế của gia đình cũng như của địa phương còn khó khăn. Cơ chế chính sách về giáo dục trẻ khuyết tật chưa đủ để bảo đảm cho giáo dục trẻ khuyết tật. Các phương tiện hỗ trợ chưa có, chưa bảo đảm những yêu cầu phù hợp cho trẻ khuyết tật. Trình độ giáo dục đặc biệt cho trẻ khuyết tật còn hạn chế. Bất cập này đã dẫn đến mâu thuẫn. Mục tiêu vĩ mô, chính sách quốc gia là đúng đắn, hợp lòng dân, hợp xu thế thời đại, nhưng không có kinh phí hỗ trợ, giải pháp triển khai thực hiện còn chung chung chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên trong nhà trường và cán bộ chuyên trách về khuyết tật. Năm học này trong lớp tôi phụ trách có cháu Võ Thị Huyền Trang,cháu không may cơ thể đã yếu lại bị khuyết tật “ Chậm phát triển về thể lực, trí tuệ và ngôn ngữ kém ” là một cô giáo đã gắn bó nhiều năm trong nghề,với tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nghề, mến trẻ và đặc biệt với tình yêu thương những đứa trẻ kém may mắn tôi đã không ngại khó khăn chăm sóc cháu, tìm tòi nghiên cứu
  5. 5 qua mạng Internet, tham khảo tài liệu sách báo…đưa ra những biện pháp cụ thể để chăm sóc giáo dục cháu Trang hòa nhập một cách có hiệu quả. Giúp cháu tự tin, nhanh nhẹn, hoạt bát, phát triển trí tuệ và ngôn ngữ, lĩnh hội những kiến thức quý báu làm hành trang cho trẻ bước vào đời hòa nhập với cộng đồng và xã hội. 3.2. Những thuận lợi và khó khăn 3.2.1. Thuận lợi Lớp tôi được nhận bàn giao là 27 trẻ, trong đó có 12 cháu nữ và 15 cháu nam, có 2 cô giáo phụ trách lớp,phòng học tuy không rộng nhưng có nhà vệ sinh khép kín. Phòng Giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện trang bị cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi tương đối đầy đủ. Phòng học và sĩ số lớp hợp lý nên việc tổ chức giảng dạy cho trẻ cũng dễ dàng. Được sự giúp đỡ của đồng nghiệp trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Gia đình tôi ở gần gia đình nhà cháuTrang nên việc gặp gỡ, trao đổi, giúp đỡ cháu có nhiều thuận lợi hơn. 3.2.2. Khó khăn Về gia đình: Do là trẻ khuyết tật, gia đình lại khó khăn, trong thời kỳ dịch covid cháu chỉ ở nhà với bố mẹ và bà nội bị liệt không giao tiếp với ai, Gia đình cháu rất khó khăn thuộc hộ nghèo trong địa bàn, bố mẹ cháu lại là người ít học, ở nhà cháu lại thường xuyên tiếp xúc với bà nội nói ú a ú ớ nên phần nào cũng bị ảnh hưởng đến cháu. Về bản thân cháu Võ Thị Huyền Trang gặp nhiều khó khăn khi tham gia các hoạt động đọc thơ, hát múa, thể dục, xé dán, vẽ tô màu, làm quen chữ cái ….và hòa nhập với các bạn cùng lứa với mình. Về giáo viên: Còn hạn chế về chuyên môn dạy trẻ khuyết tật. 4. Các biện pháp thực hiện Biện pháp 1: Khảo sát về đặc điểm tâm lý trẻ Biện pháp 2: Lập kế hoạch, theo dõi sự tiến bộ của trẻ, đánh giá kết quả thông qua các hoạt động. Biện pháp 3: Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh và cán bộ y tế cùng nhau giáo dục chăm sóc trẻ tốt hơn. Biện pháp 4: Xây dựng môi trường giáo dục thân thiện với trẻ. Biện pháp 5: Giáo dục trẻ có kỹ năng tự phục vụ bản thân.
  6. 6 Biện pháp 6: Theo dõi, quan tâm giúp đỡ giáo dục trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Biện pháp 7: Giáo dục trẻ khuyết tật khi tham gia vào các hoạt động. 5. Biện pháp thực hiện (Biện pháp thực hiện từng phần) 5.1. Biện pháp 1: Khảo sát về tâm lý của cháu Võ Thị Huyền Trang Là giáo viên trực tiếp đứng lớp đã lâu năm, tôi đã nhận hòa nhập không ít trẻ khuyết tật chậm phát triển. Có trẻ bị điếc bẩm sinh, có trẻ bị dị tật về mắt, bị khiếm thính, có trẻ bị tăng động…. và năm học này có cháu Võ Thị Huyền Trang chậm phát triển thể lực kém, khó khăn về vận động tự phục vụ, trí tuệ và ngôn ngữ kém… Cháu Võ Thị Huyền Trang tâm lý bất ổn về tinh thần, cháu thường chậm nói, ít nói, hay cười một mình, khi cô hỏi cháu thường ú ớ nói rất nhỏ khó nghe, đi tè hoặc đi ngoài không biết bảo cô ngồi đâu là cháu tè hoặc ị ngay ra đó, ăn cơm nếu để cháu xúc cơm lấy thì hầu như đổ vãy cơm ra ngoài. Cháu không muốn tiếp xúc với mọi người, rất khó khăn trong các hoạt động của lớp. Qua khảo sát tâm lý cháu Võ Thị Huyền Trang về các mặt như sau: Thể chất: Cơ thể chậm phát triển suy dinh dưỡng thể gầy còm nặng Ngôn ngữ: Rất hạn chế, vốn từ ít, phát âm thường sai, chậm nói… Vận đông: Thường khó khăn trong khi vận động. Cảm giác, tri giác: Chậm chạp, phân biệt kém, thiếu tính tích cực. Tư duy: Chủ yếu là tư duy cụ thể, tính không liên tục, tính logic kém. Trí nhớ: Hiểu chậm, quên nhanh. Chú ý: Thời gian chú ý ngắn, khó tập trung vào một công việc, thiếu tính bền vững. Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của cháu, biết cháu ở dạng khuyết tật “Chậm phát triển về thể lực, trí tuệ và ngôn ngữ kém” từ đó tôi có những biện pháp giáo dục cho trẻ hòa nhập phù hợp. 5.2. Biện pháp 2: Lập kế hoạch, theo dõi sự tiến bộ của trẻ, đánh giá kết quả thông qua các hoạt động Căn cứ vào (Mẫu) kèm theo công văn số 1279/SGD&ĐT-GDMN, ngày 10/ 11/ 2009 hồ sơ trẻ khuyết tật dựa vào đó, tôi lập bảng kế hoạch giáo dục cá nhân cháu Võ Thị Huyền Trang theo từng tháng, từng tuần đưa ra nội dung giáo dục
  7. 7 và biện pháp giáo dục cụ thể để đánh giá kết quả theo 5 lĩnh vực điều chỉnh cho phù hợp nhằm qiáo dục cháu hòa nhập phát triển tốt. Trong quá trình chăm sóc giáo dục hòa nhập cháu Võ Thị Huyền Trang khuyết tật để đạt hiệu quả cao tôi thường xuyên theo dõi đánh giá sự tiến bộ của trẻ (Theo sổ nhật ký) để đánh giá những điểm mạnh, khó khăn, nhu cầu về chăm sóc và phục hồi chức năng cho trẻ, đưa ra những tưu chí cụ thể đánh giá. Lên kế hoạch giáo dục theo từng tháng, tuần, đề ra nội dung giáo dục và biện pháp giáo dục cụ thể. Sổ nhật ký theo dõi từng ngày qua các hoạt động. Lập bảng theo dõi kết quả phát triển trí tuệ, thể chất báo cáo cho ban giám hiệu. Bảng theo dõi phải đánh giá chính xác quá trình phát triển của trẻ. Thường xuyên quan sát theo dõi trẻ ở mọi lúc mọi nơi, trong mọi hoạt động. Khi quan sát phải hiểu rõ là mình quan sát những nội dung nào, phải ghi chép đầy đủ từng nội dung, hiện tượng xảy ra trong hoạt động hàng ngày của trẻ. Xây dựng nhật ký theo dõi, đánh giá theo từng tuần Minh chứng 1: Hình ảnh nhật ký theo dõi đánh giá sự tiến bộ của trẻ đầu năm 5.3. Biện pháp 3: Phối hợp, tuyên truyền với phụ huynh Gia đình và nhà trường là cái nôi nuôi dưỡng trẻ trong những tháng đầu đời, cô giáo và gia đình đều có những ưu thế riêng. Chính vì vậy việc kết hợp giữa 2 lực lượng này là một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật. Hằng ngày trong những giờ đón và trả trẻ tôi đều dành một thời gian nhất định để trao đổi với phụ huynh về những chuyển biến của trẻ và có những đề xuất cần phụ huynh phối hợp. Đồng thời qua trao đổi với phụ huynh tôi cũng biết thêm được một số cá tính của trẻ ở nhà để có hướng rèn luyện, uốn nắn trẻ. Gia đình, nhà trường và xã hội luôn có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời, mọi ảnh hưởng của gia đình, xã hội đều có tác động rất lớn đến quá trình phát triển của trẻ. Sự chăm lo của xã hội như: Phát động ngày vì trẻ em, cấp phiếu khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, tặng quà dịp tết nguyên đán, ngày 1/6, ngày tết trung thu…đã có nhiều tác động đến các bậc làm cha mẹ, giúp họ hiểu hơn trách nhiệm của mình với xã hội và trong việc giáo dục con cái. Minh chứng 2: Hình ảnh cô giáo trao đổi với phụ huynh 5.4. Biện pháp 4: Xây dựng môi trường giáo dục thân thiện cho trẻ
  8. 8 Môi trường giáo dục có vai trò rất quan trong trong quá trình phát triển toàn diện cho trẻ, đặc biệt là đối với trẻ khuyết tật. Bởi khi có môi trường giáo dục tốt sẽ giúp phát triển nhân cách cho trẻ đồng thời giúp trẻ phát triển về toàn diện tinh thần và thể chất. Hơn nữa đối với trẻ khuyết tật rất nhạy cảm với mọi tác động bên ngoài. Không những bệnh tật, thiếu dinh dưỡng có thể gây tác hại lâu dài mà ngay cả những thiếu sót trong cách thức giáo dục, trong quan hệ tình cảm cũng dễ làm nẩy sinh những chấn thương tâm lý, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của trẻ. Cho nên cô giáo mầm non có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục hòa nhập. Trẻ mầm non là lứa tuổi đầu tiên tiếp xúc với môi trường giáo dục. Cô giáo như mẹ hiền, thay thế mẹ để chăm sóc, giáo dục và giúp đỡ cháu ở mọi lúc mọi nơi. Vì vậy việc chăm sóc và giáo dục trẻ khuyết tật phải thường xuyên được cải tiến, đổi mới, phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và sở thích của trẻ. Không nên gò bó, áp đặt, mệnh lệnh làm căng thẳng, ức chế tâm lý trẻ. Cô giáo phải thường xuyên trò chuyện, âu yếm vỗ về trẻ, tạo cho trẻ tâm thế vui vẻ, thoải mái, tạo môi trường đẹp, thân thiện để trẻ được hòa nhập cùng với bạn bè, xây dựng nhóm bạn cùng chơi với trẻ. Giúp trẻ mạnh dạn, tự tin thích đến trường. 5.5. Biện pháp 5: Giáo dục trẻ có kỹ năng tự phục vụ bản thân Cháu Trang chỉ nói ú ớ. Ví dụ: Khi muốn cô cởi áo cháu đến gần cô, chỉ vào áo và giơ hai tay lên. Lúc đó tôi vừa cởi áo cho cháu vừa bảo cháu. Con nhớ khi muốn cô cởi áo con phải nói “Cô ơi! cởi áo cho con” như thế mới giỏi, cô thương nhiều.Tôi khuyến khích trẻ nói trọn câu. Khi cháu muốn làm một việc gì đó hoặc mách cô bạn làm sai điều gì. Trang muốn chơi gì, Trang đều không nói mà chỉ động vào cô và chỉ chỉ tay về phía bạn. Khi cô nhắc nhở bạn cháu mới thôi. Những lúc như vậy tôi thường đến bên trẻ hỏi cháu: “Con đang làm gì thế?” hoặc “Bạn lấy gì của con phải không?”. Khi hỏi trẻ, trò chuyện với trẻ tôi thường mỉm cười và nhìn thẳng vào trẻ tạo cho trẻ cảm thấy yên tâm, sự tin tưởng khi nói với cô điều mà trẻ thể hiện. Do bị khuyết tật nên Trang không như các bạn bình thường khác, Trang thường lôi bỏ dây buộc tóc làm đầu rối bù những lúc dảnh tôi gọi Trang đến trải đầu, tết tóc đôi cho cháu và khen hoa để vậy thế rất xinh nếu con mà lôi bỏ dây buộc tóc thì đầu tóc sẽ dối bù không đẹp các bạn sẽ không muốn chơi với con mà cô cũng không yêu. Trang cũng biết tự phục vụ mình, tự xúc cơm ăn và tự lấy gối nệm ngủ nhưng cô phải nhắc nhở nhiều lần và rèn luyện thường xuyên trẻ mới thực hiện đựơc. Nhưng khi xúc cơm Trang còn rất vụng về hay làm đổ cơm ra ngoài và thường hay ngồi đợi cô đến đút cơm cho mình. Tôi động viên cháu nên tự xúc ăn, và chỉ dẫn cháu cách
  9. 9 xúc cơm không làm rơi vãi, khen ngợi cháu kịp thời, khi cháu thực hiện tốt ăn nhanh. Ví dụ: Bé Trang giỏi lắm, bạn đã ăn hết rồi đấy các con! Trang giỏi lắm đó, tự xúc ăn đi con, mỗi lần như vậy, tôi thấy cháu rất ngoan và tự xúc ăn không cần cô nhắc. Minh chứng 3: Hình ảnh Trang xúc cơm ăn Khi mới đến lớp cháu vẫn thường hay đái dầm khi đang trong giờ học, hoặc giờ ngủ trưa. Nhiều lần còn “đi ngoài” ra quần mà không hề hay biết và cũng không nói với cô. Lúc mới bắt đầu tôi rất ngại và cũng thường hay bực dọc và trách móc cháu. Nhưng thấu hiểu được khiếm khuyết cuả cháu tôi đã thay đổi thái độ khi cháu “đi” như vậy. Tôi thường hay khuyên bảo, nhắc nhở cháu con muốn đi vệ sinh phải bảo cô giáo, rèn cho cháu thói quen đi tiểu trước khi vào giờ học, trước khi đi ngủ và đi đúng nơi quy định. Lần sau nếu có “mắc” con nhớ đứng dậy đi hoặc nói với cô nhé! Không được đi ra quần như thế là xấu lắm, không ngoan đâu, các bạn cười con đấy. Ở trường ở lớp cô nhắc trẻ, giúp trẻ rửa tay theo đúng quy cách bằng xà bông trước khi ăn và sau khi đi tiêu tiểu, giúp trẻ giữ gìn vệ sinh thân thể sạch sẽ. Ở nhà, tôi nhờ cha mẹ nhắc nhở, giúp đỡ trẻ để trẻ có thể tự phục vụ mình. Cháu Trang năm nay đã 5 tuổi và cháu cũng đã sắp bước vào lớp một cháu bị khuyết tật “chậm phát triển trí tuệ, ngôn ngữ kém”. Vì thế ngay lúc này tôi phải cố gắng làm sao để trẻ có thể hòa nhập với các bạn của trẻ. Dạy trẻ làm quen dần với các sự vật, hiện tượng các tình huống có thể xảy ra quanh trẻ. Nên cho trẻ đi vào nề nếp vào thực hiện những yêu cầu đơn giản phù hợp với khả năng tiếp nhận của trẻ. Để khi bước vào lớp một trẻ không còn bỡ ngỡ. Một môi trường giáo dục tốt sẽ là nền tảng để trẻ có thể học và tiếp thu bài tốt hơn và nhất là tập cho trẻ nói giúp trẻ có thể nói lên những gì mà trẻ nghĩ. Không còn lay lay cô mà chỉ nữa, mà có những kỹ năng tự phục vụ được bản thân. 5.6. Biện pháp 6: Theo dõi quan tâm giúp đỡ giáo dục trẻ ở mọi lúc, mọi nơi Trong quá trình dạy trẻ khuyết tật hòa nhập thì việc dạy trẻ mọi lúc mọi nơi là việc làm hết sức cần thiết. Đối với trẻ khuyết tật thì khả năng nhận thức, diễn đạt những ý nghĩ, mong muốn của trẻ rất hạn chế. Vì thế cô giáo phải thường xuyên quan tâm chăm sóc, trò chuyên, giúp đỡ trẻ ở mọi lúc mọi nơi, trong mọi hoạt động như: vào giờ đón trả trẻ, giờ chơi tôi thường trò chuyện với cháu, vỗ về thủ thỉ với cháu hướng dẫn dặn dò cháu ví dụ: Khi nào con muốn đi vệ sinh con phải thưa cô cô sẽ cho con đi đừng tè và ị ra quần mất về sinh lắm, hoặc đến
  10. 10 lớp con phải khoanh tay chào cô, chào mẹ rồi mới vào lớp thì cô mấy yêu….cô giáo thường xuyên khen ngợi cháu kịp thời trước lớp khi thấy cháu tiến bộ. Để cháu Trang biết tên và đồ dùng, ký hiệu trên các đồ dùng của cháu hàng ngày cô gọi tên cháu, hỏi cháu ký hiệu của mình nhiều lần và hướng dẫn cho cháu thực hiện với đồ dùng vệ sinh cá cháu. Cháu nhận biết một số yêu cầu đơn giản cá nhân của cháu như cất dép lên kệ, cất gối nệm, đồ dùng cá nhân đúng ngăn tủ có ký hiệu của mình Việc giáo dục cháu Trang phải thực hiện một cách thường xuyên, phải kiên trì, nhẫn nại, thường xuyên nhắc nhở giáo dục các con trong lớp phải yêu thương, giúp đỡ bạn lúc khó khăn, thấy bạn bị ngã phải đỡ bạn đứng dậy, thấy bạn buồn, bạn không khỏe thì phải quan tâm hỏi thăm (Sao bạn buồn thế? hay bạn đau chỗ nào?…),cùng chơi với bạn…Đây cũng là cơ hội tốt để giáo dục tình cảm, lòng nhân ái, nhân cách sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Minh chứng 4: Hình ảnh cô giáo và các bạn chơi “Chi chi chành chành” cùng Trang 5.7. Biện pháp 7: Giáo dục trẻ khuyết tật khi tham gia vào các hoạt động Để tổ chức cho trẻ khuyết tật mạnh dạn,tự tin tham gia vào các hoạt động vui chơi, học tập là một yêu cầu hết sức quan trọng. đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức. cô giáo phải chu đáo nhiệt tình nhằm đáp ứng kịp thời những nhu cầu đòi hỏi của trẻ. Tạo cho trẻ sự tự tin, mạnh dạn hòa nhập tham gia hoạt động với các bạn. ngoài ra cô giáo phải là chỗ dựa cho trẻ, dìu dắt trẻ mỗi khi trẻ tham gia hoạt động tạo niềm tin và sự an toàn cho. 5.7.1. Hoạt động phát triển vận động Trong các giờ hoạt động học, cô giáo là người hướng dẫn, dẫn dắt, gợi mở, giúp trẻ phát hiện những tri thức khoa học, trẻ là người chủ động tiếp nhận các tri thức. Từ đó từng bước tạo thói quen cho trẻ. Đặc biệt trong giờ hoạt động phát triển vân động khi dạy trẻ khuyết tật cô giáo phải thường xuyên gần gũi, giúp đỡ, động viên, khích lệ để trẻ tự tịn, dũng cảm, hứng thú tham gia tập luyện, trong quá trình tập luyện cũng rất cần những tràng pháo tay khen ngợi cổ vũ của các bạn trong lớp để tạo niềm tin cho trẻ khuyết tật tích cực tham gia tập luyện. Ví dụ: Trong giờ hoạt động phát triển thể chất dạy trẻ vận động “Bò chui qua cổng” Cháu Trang sợ không dám bò, cô giáo gần gũi, động viên khuyến khích, khích lệ tạo tình cảm gắn bó giữa cô và trò, giữa các bạn với nhau, những
  11. 11 tràng pháo tay khen ngợi trẻ khích lệ trẻ để trẻ cảm thấy hứng thú và tự tin, dũng cảm tham gia vào hoạt động. Minh chứng5: Hình ảnh Trang thực hiện vận động “Bò chui qua cổng” 5.7.2. Hoạt động làm quen văn học Do trẻ khuyết tật kém về trí tuệ và ngôn ngữ nên việc day trẻ đọc thơ, kể chuyện, đọc đồng dao, ca dao, tục ngữ cho trẻ nghe là rất cần thiết. Với những âm điệu, từ ngữ đơn giản tươi sáng và dễ hiểu của các bài thơ, câu chuyện sẽ giúp trẻ dễ tiếp thu hơn. Ví dụ1: Bài thơ: “Tình bạn” Đối với trẻ bình thường, yêu cầu trẻ thuộc, đọc diễn cảm, biết ngắt đúng nhịp để thể hiện nôi dung bài thơ. Đối với cháu Trang tôi yêu cầu trẻ đọc cùng các bạn, thuộc bài thơ theo khả năng của trẻ. Sau khi trẻ đã thuộc thơ tôi khuyến khích trẻ đọc diễn cảm và động viên trẻ lên đọc thơ cùng các bạn. Trong quá trình tổ chức các hoạt động làm quen văn học, tôi luôn giao tiếp với trẻ, lắng nghe những gì trẻ nói, khích lệ trẻ đọc, kể để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Ví dụ2: Trong tiết học loại tiết “Dạy trẻ đóng kịch” Chuyện “Chú Dê đen” đối với trẻ bình thường tôi yêu cầu khi nhập vai các nhân vật trẻ phải thể hiện tính cách, biểu cảm, hành động, giọng của các nhân vật như: Chó Sói hung dữ, Dê Trắng sợ sệt, Dê Đen dũng cảm. Còn với cháu Trang khi cháu tham gia đóng kịch cùng các bạn tôi chỉ yêu cầu cháu nói được rõ lời của nhân vật trong chuyện. Minh chứng 6: Hình ảnh bé Trang đang trong vai Dê trắng 5.7.3. Hoạt động làm quen âm nhạc Trong các hoạt động âm nhạc, cô giáo là người dẫn dắt, gợi mở, giúp trẻ lĩnh hội những tri thức khoa học, trẻ là người chủ động tiếp nhận các tri thức. Từ đó từng bước tạo cho trẻ thói quen thích tìm tòi khám phá. Hoạt động âm nhạc là hoạt động hướng tới việc giảm bớt hành vi bất lợi, tăng cường các công tác xã hội cho trẻ, nó lôi cuốn vượt qua ngôn ngữ là một cách dẫn đến thế giới cảm xúc, trong giờ hoạt động âm nhạc giup trẻ thư giãn, tự do, sáng tạo trong các động tác hình thể theo nhịp điệu học ngôn ngữ qua âm nhạc. Vì vậy trong quá trình chăm sóc giáo dục cô giáo phải thường xuyên gần gũi, trò chuyện, động viên tạo tình cảm thân thiết để trẻ cảm thấy an tâm tham gia hoạt động khi có cô bên cạnh. Đây cũng là cơ hội để trẻ luyện tập, phát triển ngôn ngữ, phục hồi dần các khiếm khuyết của trẻ khuyết tật.
  12. 12 Ví dụ: Trong giờ hoạt động âm nhac dạy trẻ vận động bài “Mẹ đi vắng” tôi mời cháu Trang tham gia cùng với các bạn, những tràng pháo tay khen ngợi bé cảm thấy hứng thú và cô thường xuyên mời bé lên tham gia hát múa cùng cô, cho Trang mặc những bộ trang phục đẹp Trang rất thích và phấn khởi. Dần dần bé tự tin, mạnh dạn xung phong lên hát múa cho các bạn xem. Minh chứng 7: Hình ảnh cháu Trang vận động cùng cô và các bạn 5.7.4. Hoạt động tạo hình Đối với trẻ khuyết tật, thông qua hoạt động tạo hình trẻ có thể nâng cao vận động tinh, khả năng phối hợp tay và mắt, giúp trẻ từng bước làm chủ các vận động kỹ xảo và các thao tác tinh tế khác. Ngoài ra hoạt động này còn giúp trẻ rèn luyện chú ý cao, làm chủ các hành vi một cách có ý thức. Khi trẻ khuyết tật tham ra hoạt động tạo hình có thể cho trẻ làm theo từng thác nhỏ. Thời gian học tập cần ngắn, nội dung học được lặp lại theo nhiều cách khác nhau và được liên hệ với những gì trẻ biết, cần khuyến khích trẻ vận dụng các kỹ năng đã học vào các tình huống mới giúp trẻ hiểu được vì sao chọn cái này không chọn caí kia. Ví dụ: trong giờ hoạt động tạo hình đề tài: “Xé dán vườn cây ăn quả” cô cho trẻ quan sát và nhận xét từng bức tranh sau đó hỏi ý tưởng của trẻ . Với cháu Trang tôi hướng dẫn trẻ kỹ từng bước cách chọn giấy màu nâu làm thân cây, màu xanh làm tán cây,màu đỏ làm quả, sau đó tôi vẽ những đường chấm mờ có lô nhỏ tạo thành theo từng chi tiết ( Thân cây, tán cây, quả) hướng dẫn Trang xé theo đường nét chấm mờ và bôi hồ dán ghép thành cây ăn quả. Đối với các bạn trong lớp tôi yêu cầu trẻ xé dán 2 đến 3 cây tạo thành vườn cây ăn quả, nhưng với cháu Trang tôi chỉ yêu cầu con xé dán được 1 cây ăn quả cũng được khen giỏi rồi. Trong giờ hoạt động tạo hình vì bị khuyết tật nên cháu Trang cũng khó khăn trong các giờ hoat động tạo hình. Tôi luôn nhắc nhở các cháu giúp đỡ bạn Trang, giáo dục cho các cháu luôn có tình cảm yêu thương bạn. Trong khi thực hiện cô luôn quan tâm giúp đỡ động viên, khuyến khích, gợi mở kích thích để trẻ tích cực hoạt động hoàn thành sản phẩm của mình. Minh chứng 8: Hình ảnh cháu Trang đang làm tạo hình 5.7.5. Hoạt động làm quen với toán Nhũng biểu tượng ban đầu về toán của trẻ xuát hiện thông qua các trải nghiệm hàng ngày trong môi trường học tập phong phú và hấp dẫn. Khi cho trẻ tham gia vào việc làm quen với các khái niệm toán, tôi đã lựa chọn những hoạt động phù hợp với khả năng của trẻ trong lớp, áp dụng theo đúng với chương
  13. 13 trình học “Lấy trẻ làm trung tâm”. Đối với trẻ bình thường toán cũng là một hoạt động đòi hỏi tư duy cao. Với trẻ khuyết tật “chậm phát triển về trí tuệ và ngôn ngữ kém” khả năng nhận thức và tư duy gặp nhiều khó khăn nên khi lập chương trình kế hoạch giáo dục của các tiết học, tôi thường hạ thấp các kiến thức, kỹ năng, những câu hỏi dễ dành cho trẻ khuyết tật mà tôi mong muốn. Ví dụ: Trong giờ hoạt động làm quen với toán “Dạy trẻ đếm đến 8, nhận biết số lượng trong phạm vi 8, nhận biết chữ số 8”. * Đối với trẻ bình thường tôi yêu cầu: Kiến thức: Trẻ biết đếm đến 8, nhận biết các nhóm số lượng trong phạm vi 8, nhận biết chữ số 8. Kỹ năng: Có kỹ năng đếm, đếm ngược, đếm xuôi, đếm thành thạo từ 1 đến 8. Chỉ tay lần lượt vào các đối tượng, đếm từ trái sang phải, đặt số lượng theo thứ tự từ 1 đến 8, có kỹ năng xếp tương ứng 1 -1, kỹ năng khoanh tròn, gắn tranh, nối số lượng tương ứng theo yêu cầu cô. * Đối với cháu Trang tôi hạ thấp yêu cầu phù hợp với trẻ: Kiến thức: Trẻ biết đếm đến 8, nhận biết chữ số 8. Kỹ năng: Trẻ có kỹ năng đếm (Chỉ tay lần lượt vào các đối tượng và đếm từ trái sang phải từ 1 đến 8} Tôi luôn tận dụng các cơ hội cho cháu Trang đếm. Đếm các đối tượng và xếp thành dấy sao cho không bỏ sót hay trùng lập đối tượng, tôi còn cho trẻ đếm các ngón tay cuẩ mình, đếm số hạt vừa xâu được, đếm số bạn trong nhóm, trong tổ. Ngoài ra tôi luôn tạo cơ hội được rèn luyện thêm vào các kỹ năng toán khác, tôi kết hợp cả lời nói và các thao tác chia, đếm số các bạn trong nhóm, tổ… ngoài đếm ra tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ rèn luyện thêm các kỹ năng toán khác. Tôi kết hợp cả lời nói và các thao tác toán cụ thể để hướng dẫn cho trẻ một cách cụ thể, khi cần có thể làm cùng với trẻ. Minh chứng 9: Hình ảnh cô giáo hướng dẫn cháu Trang trong giờ học toán 5.7.6. Hoạt động khám phá Khám phá khoa học và khám phá xã hội không chỉ là kiến thức mà là một quá trình hay là con đường tìm hiểu, khám phá thế giới xung quanh trẻ. Trẻ tích cực tham gia các hoạt động thăm dò, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội qua việc cảm nhận các giác quan. Sau đó trẻ dự đoán, suy luận, phân loại, so sánh để khám phá thế giới xung quanh.
  14. 14 Nhưng ở cháu Trang bị khuyết tật “Chậm phát triển về thể lực, trí tuệ và ngôn ngữ kém” do đó cháu “Mất sử lý thông tin đầu vào” hay nói cách khác là cháu “Chức năng cảm nhận trong cơ thể có sự bất thường”. Do đó tùy vào nhận thức và khả năng của trẻ mà tôi hạ thấp yêu cầu xuống để giúp trẻ có thể khám phá về thế giới từ chi tiết cụ thể trước, sau đó mới mở rộng yêu cầu khám phá rộng hơn. Ví dụ: Trong kế hoạch giáo dục tháng, dưạ trên chủ đề “Động vật” đối với trẻ bình thường tôi cho trẻ khám phá theo từng tuần phù hợp với chủ đề khám phá các con vật sống trong vườn bách thú, một số loài cá, con mèo, đàn gà, côn trùng… quanh bé. Đối với cháu Trang tôi hạ thấp yêu cầu tôi cho trẻ khám phá những con vật gần gũi nhất với trẻ như: gà, vịt, chó, mèo…Trong quá trình khám phá tôi luân tạo điều kiện cho trẻ khám phá những nét đặc trưng của các đồ vật, con vật, các sự vật hiện tượng bằng cách sử dụng tất cả các giác quan một cách thích hợp. Trẻ được quan sát, xem xét, phỏng đoán các sự vật hiện tượng xung quanh. Tôi sử dụng các câu hỏi gợi mở đặc biệt giúp trẻ phát triển suy nghĩ, phát triển tư duy và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 5.7.7. Hoạt động làm quen chữ viết Đây là một hoạt động nhằm giúp trẻ phát âm chuẩn âm tiếng việt, phát triển vốn từ, đòi hỏi cô giáo phải có lời nói rõ ràng, phát âm đúng âm các chữ cái.Hoạt động làm quen chữ viết trong trường Mầm non dưới hình thức “ học mà chơi, chơi mà học”. Trẻ 5 tuổi rất dễ nhớ nhưng lại mau quên, nên vào đầu năm học để giúp trẻ có kỹ năng ghi nhớ tôi đã cho trẻ làm quen ký hiệu của mình bằng các chữ cái. Cháu Trang khi cho trẻ làm quen vớí ký hiệu, tôi thăm dò, trò chuyện biết cháu nhớ là chữ e và tôi cho cháu ký hiệu chữ e để cháu dễ nhớ. Trong giờ hoạt động làm quen chữ viết, cháu Trang gặp rất nhiều khó khăn, tôi luân quan tâm, động viên, khích lệ trẻ đoc, phát âm chữ cái, ngoài ra tôi thiết kế những trò chơi phù hợp trong tiết học để cháu dễ tìm, dễ nhớ, hứng thú trong tiết học. Ví dụ: trong giờ học “Làm quen chữ cái e, ê” khi chơi trò chơi tìm và gạch chân chữ cái e, ê có trong bài thơ “Dỗ bé”.Đối với trẻ bình thường tôi cho trẻ gạch chân chữ e, ê trong bài thơ. Đối với cháu Trang khi tôi viết bài thơ “Dỗ bé” với những chữ e, ê trong bài thơ tôi viết bằng mực đỏ để khi tìm và gạch chân chữ e, ê cháu nhận biết được dễ dàng hơn. 5.7.8. Hoạt động góc
  15. 15 Để tổ chức cho trẻ khuyết tật vào hoạt động góc giúp trẻ khả năng tư duy sáng tạo, phát triển kỹ năng giao tiếp, ngôn ngữ.Vào những buổi đầu năm học tôi dắt cháu Trang đến nơi các bạn đang chơi, giải thích cho cháu hiểu các bạn của mình đang chơi gì? làm gì? Bạn Phương và các bạn đang xây nhà đấy! Bạn An, bạn Bích và các bạn đang nấu ăn! Bạn Hân đang đang khám bệnh cho mọi người….qua đó kích thích ngôn ngữ cho trẻ. Vào những buổi chơi tiếp theo tôi động viên để cháu Trang tự nhận góc hoặc các bạn sẽ rủ cháu vào các góc chơi, cho cháu đóng vai chơi, trong quá trình chơi tôi luôn đến bên cháu hỏi han, trò chuyện để khích lệ cháu. Ví dụ: Khi chơi góc “Bé tập làm bác sỹ” tôi cho cháu Trang đóng vai “Bác sỹ”Tôi động viên các bạn chơi cùng cháu, trong khi cháu chơi tôi luân theo dõi và hỏi han cháu: “Bác sỹ ơi bác sỹ khám bệnh cho ai đấy? Thế búp bê bị làm sao? búp bê đau bụng à? Thế bác sỹ phải làm thế nào để búp bê khỏi đau bụng! hoặc : Bác sỹ khám cho tôi với! Thế tôi bị làm sao đấy! Bác sỹ cho tôi thuốc với nào! ...Tôi thấy cháu rất vui và tham gia hoạt động. Minh chứng 10: Hình ảnh cháu Trang đang trong giờ hoạt động góc. 5.7.9. Ứng dụng công nghệ thông tin Hiện nay việc ứng dụng công nghề thông tin trong trường Mầm non là một phương tiện giáo dục vô cùng tiện lợi và hữu ích. Tôi thường xuyên truy cập mạng Internet tìm hiểu thông tin giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật , tìm tòi những hình ảnh tư liệu trang giáo dục điện tử, thiết kế những trò chơi trong bài giảng powerpoint để trẻ tiếp cận công nghề thông tin và đặc biệt là trẻ khuyết tật rất hứng thú tham gia. Ví dụ: Tôi thiết kế những trò chơi: Ai tinh mắt thế, trò chơi ai đoán giỏi, hoặc trò chơi con gì biến mất…nhằm mục đích mở rộng cho trẻ hiểu biết về thế giới xung quanh, nhận biết đoán tên những đồ dùng trong gia đình, những con vật, các loại rau quả và các trò chơi chữ cái, trò chơi học toán. Trẻ rất hứng thú tham gia và đặt biệt là khả năng nhận biết, chú ý, ghi nhớ của trẻ khuyết tật tiến bộ rõ rệt. Minh chứng 11: Hình ảnh cháu Trang đang sử dung công nghệ thông tin. 5.7.10. Hoạt động trải nghiệm thực tế Để chăm sóc và giáo dục và hình thành cho trẻ những kỹ năng trong cuộc sống là vô cùng quan trọng, việc thường xuyên cho trẻ trải nghiệm thực tế là rất cần thiết. qua các buổi hoạt động trải nghiệm tập thể trẻ được giao lưu khám
  16. 16 phá thực hành trải nghiệm thực tế qua đó giúp trẻ hình thành kỹ năng trong cuộc sống, đây cũng là cơ hội để giúp trẻ khuyết tật hòa nhập, phát triển kỹ năng sống của mình. Ví Dụ:Trong buổi trải nghiệm làm bánh chưng ngày tết cô hỏi trẻ về những nguyên vật liệu cần để làm bánh chưng sau đó cô hưỡng dẫn trẻ làm cùng cô, đối với cháu Trang tôi đến ngồi cạnh cháu hỏi cháu chỉ vào từng nguyên vật liệu khuyến khích cháu làm bánh cùng cô. Ví dụ: Trang lấy lá ra lau lá cho cô nào? lau lá xong mình sẽ làm gì nào? Thế Trang trải lá ra cho cô nào? Trải lá xong thì làm gì nữa? Trang giỏi lắm! thế Trang múc gạo vào cho cô nào? Tiếp theo mình sẽ làm gì?Cô vừa hỏi trẻ vừa thao tác cùng trẻ tôi thấy Trang rất thích và hào hứng làm bánh cùng cô và các bạn Minh chứng 12: Hình ảnh Trang cùng cô và các bạn làm bánh trưng * Tóm lại: Để giáo dục trẻ khuyết tật trong trường Mầm non đạt kết quả tốt, cô giáo cần phải biết vận dụng đổi mới hình thức tổ chức, ứng dụng trong các hoạt động học tập, vui chơi, với phương châm “chơi mà học, học mà chơi”. Dưới góc độ giáo dục trẻ hòa nhập trẻ khuyết tật không phải chỉ chú ý đến trẻ khuyết tật mà phải quan tâm chung đến tất cả trẻ trong lớp. Muốn phương pháp này thực hiện tốt đòi hỏi giáo viên phải nhạy bén, sáng tạo, quan sát, theo dõi và xử lý tình huống kịp thời. Cô giáo là người tổ chức, hướng dẫn, đưa ra những yêu cầu gợi mở để trẻ trả lời và giao lưu với nhau, lôi cuốn trẻ tham gia vào việc tìm tòi, khám phá một cách tích cực, trẻ được chơi thoải mái, không gò ép, trẻ tự bộc lộ cảm nghĩ của mình trong lúc chơi và phản ánh lại những kiến thức mà cháu đã tiếp thu được ở mọi lúc mọi nơi và trong các hoạt động. Quan tâm trò chuyện với trẻ ở mọi lúc mọi nơi giúp trẻ lĩnh hội được một số kiến thức đơn giản, nhận biết được những hành vi cử chỉ đẹp, đặt biệt trẻ thể hiện rõ nét về tình cảm yêu thương bạn, về kỹ năng sống … giúp trẻ phát triển ngôn ngữ giao tiếp, góp phần hoàn thiện nhân cách cho trẻ. 6. Kết quả thực hiện Sau khi nghiên cứu và áp dụng chương trình giáo dục trẻ khuyết tật. Bằng các biện pháp đổi mới, sáng tạo, xây dựng môi trường lớp học thân thiện, tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, phát huy tính độc lập sáng tạo trong mọi hoạt động.Với sự chăm sóc giáo dục, dạy dỗ tận tình, chu đáo thường xuyên, kết hợp với cô giáo cùng lớp, phụ huynh, ban giám hiệu nhà trường, tôi thấy cháu Võ
  17. 17 Thị Huyền Trang đã có sự tiến bộ rõ rệt. Kết quả tiến bộ của trẻ đã đạt được bằng minh chứng sau: Nhật ký theo dõi sự phát tiến bộ của trẻ khuyết tật học hòa nhập năm học 2022 – 2023 Họ và tên trẻ: Võ Thị Huyền Trang Sinh ngày: 10 tháng 04 năm 2017 Loại tật: Chậm phát triển về thể chất, trí tuệ và ngôn ngữ kém Minh chứng 13: Hình ảnh nhật ký theo dõi đánh giá sự tiến bộ của trẻ cuối năm Với những kết quả sự tiến bộ của trẻ đạt được tôi rất vui mừng và phấn khởi với những khó khăn vất vả của tôi và cô giáo cùng lớp đã giúp đỡ cháu Trang có thêm những kiến thức, kỹ năng, để cháu bước vào lớp một, ngoài ra thể lực của cháu cũng phát triển tốt hơn, Gia đình cháu cũng rất mừng vì sau một năm học con họ đã thay đổi rất nhiều và bố mẹ cháu nói”:Cảm ơn các cô rất nhiều, các cô đúng là người mẹ thứ hai của cháu. Nếu biết đến trường Mầm non được các cô dạy dỗ quan tâm chăm sóc tốt như thế này thì tôi đã cho cháu đi ra lớp từ những năm trước rồi, cháu vừa nhận thức tốt hơn lại còn tăng cân nữa” Câu nói đó của bố mẹ cháu làm tôi thấy nhẹ cả lòng , tôi biết bố mẹ cháu đã yên tâm hơn bớt mặc cảm khi thấy con mình đã hòa đồng cùng các bạn., Bản thân tôi cũng rất vui mừng vì đến tuổi sắp nghỉ hưu mình lại làm được việc hữu ích.
  18. 18 PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Để Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật chậm phát triển về thể lực, trí tuệ, ngôn ngữ kém hòa nhập trong trường mầm non tốt giáo viên phải thường xuyên gần gũi, động viên, khuyến khích, tạo điều kiện để trẻ hòa nhập vui chơi với bạn bè. Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đặc biệt là y tế học đường, trạm y tế phải thường xuyên theo dõi. Giáo viên phải tạo môi trường tốt cho trẻ khuyết tật hoạt động. Nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp giáo dục cho phù hợp. Phải thường xuyên học hỏi, tìm tòi nghiên cứu đưa ra những biện pháp giáo dục phù hợp, xử lý tình huống kịp thời.. Thường xuyên giáo dục các con trong trường, lớp thể hiện tình cảm yêu thương, lòng nhân ái giúp đỡ bạn, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Đầu tư nghiên cứu, tham khảo tài liệu, học hỏi thêm kinh nghiệm của đồng nghiệp, trao dồi thêm kiến thức về hòa nhập trẻ khuyết tật để chuyên đề giáo dục trẻ khuyết tật trong trường Mầm non nói chung và trẻ khuyết tật trong các nhóm lớp nói riêng ngày được nâng cao và có chất lượng tốt hơn. 2. Khuyến nghị 2.1. Đối với nhà trường Tạo điều kiện giúp đỡ quan tâm trẻ khuyết tật về vật chất và tinh thần Cung cấp những tài liệu, bổ xung đồ dùng, đồ chơi đáp ứng với yêu cầu giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập 2.2. Đối với Phòng Giáo dục Mở các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên đề về công tác chăm sóc gió dục trẻ khuyết tật. Cung cáp tài liệu, sách báo về chăm sóc giáo dục trẻ khuyết tật Trên đây là “Một số biện pháp giáo dục trẻ khuyết tật chậm phát triển về thể lực, trí tuệ, ngôn ngữ kém hòa nhập trong trường Mầm Non” trong quá
  19. 19 trình triển khai và thực hiện ở lớp tôi tuy không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong cán bộ Phòng Giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường và các đồng nghiệp đọc bổ xung góp ý thêm cho đề tài của tôi để đề tài này có thể phổ biến cho đồng nghiệp trong trường khi có học sinh không may bị khuyết tật như dạng trẻ khuyết tật ở lớp tôi ngày càng có hiệu quả hơn. Tôi xin cam đoan để tài: “Một số biện pháp giáo dục trẻ khuyết tật chậm phát triển về thể lực, trí tuệ, ngôn ngữ kém hòa nhập trong trường mầm non” do tôi viết và được thực hiện tại lớp tôi là đúng sự thật không sao chép của ai. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tôi xin chân thành cảm ơn. Tác giả Đỗ Thị Xuân
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2