intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:38

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi" được hoàn thành với các biện pháp như: Xây dựng kế hoạch tổ chức cho trẻ khám phá khoa học phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ; Tạo môi trường hoạt động phong phú; Sưu tầm tổ chức các trò chơi, các hoạt động trải nghiệm hiệu quả;...Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi

  1. MỤC LỤC I. PHẦN MỞ ĐẦU 2 1. Lý do chọn đề tài 2 2. Mục đích nghiên cứu 3 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3 5. Phương pháp nghiên cứu 4 II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 4 1. Cơ sở lý luận 5 2. Cơ sở thực tiễn 5 2.1. Thuận lợi 6 2.2. Khó khăn 6 3. Các biện pháp nghiên cứu 6 3.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch tổ chức cho trẻ khám phá 6 khoa học phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. 3.2. Biện pháp 2: Tạo môi trường hoạt động phong phú 10 3.3. Biện pháp 3: Sưu tầm tổ chức các trò chơi, các hoạt động trải 11 nghiệm hiệu quả . 3.4. Biện pháp 4: Dạy trẻ khám phá trong giờ hoạt động chung và 13 khám phá ở mọi lúc mọi nơi. 3. 5: Biện pháp 5: Ưng dụng công nghệ thông tin 16 3.6. Biện pháp 6: Kết hợp giữa cô và phụ huynh để đạt hiệu quả 17 cao nhất III. KẾT QUẢ VÀ ỨNG DỤNG 17 1. Kết quả 17 2. Ứng dụng 18 IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 19 1. Kết luận 19 2. Kiến nghị 20 1
  2. V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 2
  3. I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Do đặc điểm phát triển của trẻ mầm non đặc biệt là tuổi mẫu giáo 4 – 5 tuổi, trẻ rất tò mò, ham hiểu biết, thích khám phá những điều mới lạ, liên tục đặt cho người lớn những câu hỏi: Vì sao? Sao lại thế? Sao thế nhỉ? Sao không thế này? Sao không thế kia?... đó chính là những điều trẻ luôn khao khát muốn biết, muốn tìm hiểu và khám phá. Thông qua hoạt động này giúp trẻ phát huy cao độ tính tự giác tích cực khi tham gia các hoạt động khám phá như trải nghiệm, quan sát, phỏng đoán… giúp trẻ phát hiện ra những điều bí ẩn, mới lạ của tự nhiên, thế giới xung quanh, những sự kiện xã hội nổi bật… bước đầu hình thành ở trẻ những kỹ năng sống đơn giản, có thái độ ứng xử đúng đắn với thiên nhiên, xã hội. Chính vì vậy “khám phá khoa học” được coi là một nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục mầm non có ý nghĩa vô cùng quan trong và cần thiết đối với trẻ, hoạt động này góp phần tích cực trong việc giúp trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực như nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội, thẩm mỹ và thể lực....Khám phá khoa học giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết về sự vật hiện tượng tự nhiên, đây là cơ sở để trẻ giải quyết những tình huống trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, tham gia vào các hoạt động đa dạng và phong phú khác ở trường mầm. Tổ chức hoạt động khám phá là một trong những hoạt động quan trọng ở trường mầm non nhằm trang bị cho trẻ những kiến thức cơ bản, phát triển ở trẻ năng lực khám phá, quan sát, phân loại, so sánh, phỏng đoán, năng lực tư duy. Tuy nhiên, những kiến thức về hoạt động khám phá khoa học rất đa dạng, phong phú đối với trẻ và không dễ dàng để trẻ tự tiếp thu lĩnh hội. Vì vậy, làm thế nào để trẻ lĩnh hội một cách tích cực? Làm thế nào để phát triển năng lực tự phát hiện tìm kiếm tri thức cho trẻ. Điều này phụ thuộc vào vai trò tổ chức của giáo viên. Giáo viên cần phải sử dụng hệ thống phương pháp dạy học tích cực, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động để tạo cơ hội cho trẻ được 3
  4. trải nghiệm trực tiếp giúp trẻ chủ động sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức bằng chính hoạt động của mình. Nhưng thực tế hiện nay, hoạt động khám phá khoa học tại các trường mầm non tổ chức chưa đạt hiệu quả cao. Giáo viên còn lúng túng về cách tổ chức, hình thức chưa linh hoạt, chủ động, giáo viên vẫn còn nói nhiều và chưa làm hấp dẫn trẻ. Điều này dẫn đến trẻ chưa tính tích cực tìm tòi, khám phá, chưa phát triển năng lực nhận thức, óc quan sát, phán đoán ở trẻ. Đặc biệt là trẻ 4 - 5 tuổi nhận thức, tư duy, ngôn ngữ và tình cảm xã hội đang trên đà phát triển và hoàn thiện. Chính vì vậy trong quá trình tổ chức cho trẻ học hoạt động khám phá khoa học cần tạo điều kiện cho trẻ được tự khám phá, tìm hiểu, tự diễn đạt ý tưởng của mình. Muốn được như vậy, trẻ cần được tiếp xúc và khám phá khoa học quanh mình, trẻ mạnh dạn, tự tin, có kỹ năng quan sát, suy đoán, hoạt động theo nhóm. Do vậy, giáo viên cần sáng tạo khi tổ chức để thu hút trẻ tích cực hoạt động góp phần phát triển nhận thức bắt kịp so với nhu cầu xã hội hiện đại. Trong thực tế, nhiều giáo viên thường chú trọng cho trẻ tìm hiểu bề ngoài của các đối tượng, đa số trẻ chỉ được hỏi và trả lời, ít khi cho trẻ sờ, mó, nếm các đồ vật mà trẻ được thí nghiệm. Giáo viên ít đưa ra câu hỏi mở khích thích sự tìm tòi, khám phá của trẻ, chính vì vậy trẻ có ít trải nghiệm, ít có điều kiện để giải quyết vấn đề mà trẻ dự đoán. Việc tổ chức những hoạt dộng khám phá cho trẻ còn nhiều hạn chế theo cách hiểu của mỗi giáo viên về khám phá khoa học, các hoạt động giáo dục khi giáo viên tổ chức kết quả đạt chưa cao và chưa phát huy được nội dung giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Chính vì lý do đó mà tôi đã suy nghĩ và mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi”. 2. Mục đích nghiên cứu: Nhằm tìm ra những giải pháp tích cực tổ chức tốt hoạt động khám phá cho trẻ 4 – 5 tuổi ở trường mầm non, giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu ham hiểu biết, thích khám phá tìm tòi, bước đầu phát hiện ra những điều mới lạ, kì diệu của 4
  5. cuộc sống xung quanh, có những kỹ năng, ứng xử đúng đắn với tự nhiên và xã hội, tạo nền tảng cho trẻ hoạt động tốt hơn ở những lứa tuổi tiếp theo. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu các nội dung khám phá khoa học với lứa tuổi 4 – 5 tuổi tìm ra các giải pháp tích cực nhất, hiệu quả nhất để tổ chức tốt hoạt động khám phá khoa học ở trường mầm non. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: 4.1. Phạm vi nghiên cứu: Các lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi ở trường mầm non Bình Minh. 4.2. Đối tượng: Những giải pháp tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 4 – 5 tuổi ở trường mầm non. 5. Phương pháp nghiên cứu: 5.1. Phương pháp trọng tâm: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu – tự học tập nắm chắc chuyên môn; - Phương pháp trải nghiệm; - Phương pháp nghiên cứu thực tế, đúc rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn. 5.2. Phương pháp kết hợp: - Phương pháp thăm quan, khảo sát thực tiễn; - Phương pháp phối hợp trao đổi giao lưu với đơn vị bạn, bạn bè đồng nghiệp. II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lý luận: Khám phá khoa học là phương tiện để giao tiếp và làm quen với môi trường xung quanh, để giao lưu và bày tỏ nguyện vọng của mình hình thành và nhận thức sự vật, hiện tượng xung quanh mà giáo dục thái độ ứng xử đúng đắn với thiên nhiên, với xã hội cho trẻ. Khám phá khoa học là quan sát những sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh nhằm phân tích, giải thích cách thức hoạt động, sự tồn tại của sự vật 5
  6. hiện tượng đó. Dưới đôi mắt trẻ thơ khám phá khoa học vô cùng đơn giản và là cả một bầu trời kiến thức thú vị cần khám phá, giáo viên muốn phát huy hết khả năng linh hoạt và sáng tạo của mình trong việc vận dụng những hiểu biết, những tri thức khoa học vào việc giáo dục trẻ. Từ những tính chất lí, hoá của những sự vật hiện tượng quen thuộc trong tự nhiên mà chúng ta có thể tiến hành những thí nghiệm nhỏ, trò chơi khoa học vui. Qua đó, trẻ bắt đầu được tìm hiểu những điều kì thú trong thế giới xung quanh, tận mắt nhìn thấy những biến hoá của sự vật hiện tượng mà có lẽ trẻ tưởng chừng chỉ có trong những câu chuyện cổ tích. Hơn thế, qua thí nghiệm có tính minh chứng này, giáo viên có thể áp dụng để giải thích cho trẻ một cách rõ ràng và thuyết phục về đặc tính của sự vật hiện tượng, đáp ứng được nhu cầu khám phá của trẻ. Đối với trẻ mầm non việc cho trẻ “khám phá khoa học” là tạo điều kiện hình thành và phát triển ở trẻ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, lòng nhân ái, tình cảm yêu thương với người thân, với cuộc sống xung quanh trẻ, biết yêu quí bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ những truyền thống của quê hương đất nước, trân trọng và giữ gìn sản phẩm lao động tự làm ra. Dựa trên đặc điểm tâm lý, nhận thức của trẻ mẫu giáo nói chung, mẫu giáo 4-5 tuổi nói riêng, các nhà tâm lý học, giáo dục học đã chứng minh rằng quá trình khám phá khoa học được tổ chức mang tính chất khám phá, trải nghiệm theo phương thức “Trẻ em chơi mà học,học mà chơi” là phù hợp với trẻ. Việc sử dụng trực quan, trò chơi, đàm thoại, thí nghiệm đơn giản luôn tạo cho trẻ sự hứng thú, kích thích tính tích cực hoạt động, phát triển tính tò mò, ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi, phát triển óc quan sát, phán đoán... Thông qua việc dạy trẻ mầm non khám phá khoa học thì sẽ thu về nhiều hiệu quả trong quá trình phát triển của trẻ. Dạy trẻ mầm non khám phá khoa học sẽ giúp cho bé dần hình thành cũng như phát triển các kỹ năng tư duy phân tích. Đồng thời, trẻ cũng có khả năng tổng hợp, khái quát vấn đề, kích thích não bộ của trẻ phát triển. Dạy trẻ mầm non khám phá khoa học là phương pháp xây dựng hệ thống giáo dục từ gốc rễ, giúp trẻ hiểu ra bản chất 6
  7. của sự vật, hiện tượng. Từ phương pháp này, sẽ giúp trẻ hình thành nền tảng kiến thức vững chắc. Kiến thức này có độ bền vì đi sâu vào tiềm thức từ khi trẻ còn nhỏ. Sau này khi tiếp thu và làm quen các chương trình học phức tạp hơn, trẻ sẽ cảm thấy dễ dàng và hấp thụ nhanh hơn. Với độ tuổi nhận thức của lứa tuổi mầm non sẽ khác biệt rất nhiều so với người lớn. Bé sẽ thích hoạt động chân tay và khám phá bằng các giác quan. Kiến thức về khoa học không chỉ cần thiết cho cuộc sống hiện tại của trẻ mà còn góp phần hình thành lên năng lực ra quyết định của trẻ trong tương lai. Việc trẻ được hấp thụ và tích luỹ kiến thức liên quan đến khoa học là một hành trình chuẩn bị kỹ lưỡng để định hướng nghề nghiệp tương lai cho trẻ. Chính vì vậy, hoạt động khám phá khoa học là một hoạt động quan trọng rất lý thú đối với trẻ lứa tuổi này. 2. Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn cho thấy ở trường, lớp mầm non nào cũng có môi trường hoạt động tốt, có nhiều điều kiện thuận lợi cho giáo viên và các bé hoạt động khám phá trải nghiệm, đặc biệt ở các trường mầm non giáo viên có nhiều sáng tạo đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, có nhiều giải pháp tích cực, hình thức tổ chức hoạt động khám phá phong phú, đa dạng thì ở đó trẻ được trải nghiệm nhiều, được hoạt động tích cực trẻ phát triển tốt hơn, tự tin hơn, luôn vui thích đến trường, tạo niềm tin tốt cho các bậc cha mẹ và ngược lại. 2.1. Thuận lợi: - Trường mầm non Bình Minh được thiết kế hợp lý, đảm bảo các tiêu chí trường chuẩn quốc gia mức độ 2, các lớp học rộng rãi, thoáng mát về mùa hè, ấm vào mùa đông. - Bản thân tôi là một giáo viên có trình độ chuyên môn trên chuẩn với năng lực chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, yêu thương, tôn trọng trẻ. Có khả năng vận động tốt và biết vận dụng linh hoạt các biện pháp vào giảng dạy và đầu năm học 2019-2020 đã tổ chức thành công “Hoạt động khám phá khoa học” cho buổi sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học của nhà trường, 7
  8. thường xuyên tham dự những buổi sinh hoạt cụm, dự giờ, thi giáo viên giỏi do trường, phòng, sở giáo dục tổ chức, không dừng lại ở đó mà tôi luôn tâm huyết, tận tụy với nghề, tích cực trong công việc nghiên cứu. - Đa số các cháu trong lớp khỏe mạnh, được cha mẹ quan tâm và có điều kiện chăm sóc trẻ. Bản thân các cháu chủ động, sáng tạo, thích tham gia vào các hoạt động phát triển vận động. - Hội cha mẹ học sinh quan tâm ủng hộ nhiệt tình. 2.2. Khó khăn: - Tuy đã tích cực xây dựng môi trường và đầu tư về cơ sở vật chất cho hoạt động khám phá, song điều kiện để phục vụ cho hoạt động khám phá còn chưa phong phú, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động khám phá còn hạn chế như: ít đồ chơi với nước, với cát, dụng cụ cho trẻ làm thí nghiệm để trải nghiệm thực tế (kính lúp, dụng cụ làm kem, bánh... ) - Sự linh hoạt, khả năng xử lý tình huống và phương pháp của một số giáo giáo viên đôi khi còn lúng túng khi thực hiện hoạt động khám phá khoa học cho trẻ. - Mặt khác do trẻ mới đi học lần đầu nhiều còn nhút nhát và rụt rè, một số trẻ thì hiếu động không tập trung vào giờ học. - Điều kiện đi thăm quan trải nghiệm bên ngoài ít nên việc tổ chức hoạt động khám phá chưa phong phú. Để thực hiện được đề tài này, tôi đã quan sát nhiều hoạt khám phá khoa học ở lớp 4- 5 tuổi, B1- Trường Mầm Non Bình Minh và có bảng đánh giá sau. Bảng khảo sát đầu năm học STT Nội dung khảo sát Số trẻ Tỷ lệ 1 Kỹ năng quan sát 24/37 65% 2 Kỹ năng so sánh 21/37 57% 8
  9. 3 Kỹ năng phân loại 20/37 54% 4 Kỹ năng giao tiếp 23/37 62% 5 Kỹ năng suy luận, phán đoán 19/37 51% 6 Kỹ năng thực hành, thí nghiệm 18/37 48% Do thấy được những thực tế đó nên tôi đã suy nghĩ và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học đạt hiệu quả như sau: 3. Các biện pháp nghiên cứu. 3.1. Xây dựng kế hoạch tổ chức cho trẻ khám phá khoa học phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. Từ đầu năm học dựa trên kế hoạch của nhà trường xây dựng và căn cứ vào nội dung trong chương trình theo độ tuổi, căn cứ vào thời gian thực hiện hoạt động vào giai đoạn nào của chương trình năm học, căn cứ vào mức độ phát triển, khả năng thực tế của trẻ, tôi đã xây dựng kế hoạch nội dung khám phá khoa học cho trẻ, xác định độ khó của từng bài tập và sắp xếp theo trình tự để đưa vào hướng dẫn trẻ cho phù hợp đi từ dễ đến khó. Nội dung trong chương trình đã được trình phù hợp với từng chủ đề chủ điểm, phù hợp với các hoạt động khác và các sự kiện. Khi lập được kế hoạch tổ chức tôi thấy rất yên tâm và thực hiện rất hiệu quả. Để trẻ khám phá khoa học đạt kết quả tốt thì việc lựa chọn nội dung khám phá cũng như những thí nghiệm phù hợp với khả năng của trẻ là rất cần thiết và quan trọng. Do đó giáo viên cần quan sát và tìm hiểu khả năng của trẻ trong lớp để làm căn cứ xây dựng kế hoạch hoạt động khám phá khoa học cho hợp lý và phù hợp với sự nhận thức của trẻ. Đầu năm tôi chọn những nội dung khám phá phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ như chủ điểm Bản thân tôi chọn đề tài: Sự kì diệu của đôi bàn tay, các giác quan của cơ thể hay thí nghiệm pha màu nước....khi lập kế hoạch cho trẻ 9
  10. cần có tính hệ thống từ đơn giản đến phức tạp, đồng thời mở ra một hướng khám phá mới cho các hoạt động tiếp theo. Ví dụ: Đầu năm tôi cho khám phá về “Sự kì diệu của đôi bàn tay”, sau khi cho trẻ khám phá về các đặc điểm nổi bật của đôi tay tôi cho trẻ cảm nhận mọi thứ xung quanh như chai nước nóng hay lạnh, quả nhẵn hay sần sùi, cứng hay mềm và nói lên cảm nhận của mình.... Hay để biết được sự thay đổi của âm thanh, tôi cho trẻ bịt tai lại hỏi trẻ có nghe thấy cô nói không và giọng nói của cô có gì thay đổi không? Hình thức cho trẻ tự nói nên cảm nhận của riêng mình giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn. (Trẻ cảm nhận mọi thứ xung quanh và nói lên cảm nhận của mình) Khi trẻ đã mạnh dạn hơn tôi cho trẻ tham gia vào các thí nghiệm khó hơn phù hợp với đa số trẻ tại lớp. Bên cạnh đó tôi luôn quan sát và tìm hiểu khả năng của từng trẻ trong lớp thông qua quá trình trẻ thực hiện các hoạt động. Từ đó tôi đánh dấu những 10
  11. trẻ cần được đưa những câu hỏi và những trẻ sẽ trả lời những câu hỏi khó hơn hoặc thực hiện những bài tập phức tạp hơn để tránh tình trạng những trẻ nhận thức hạn chế cũng thực hiện những bài tập khó giống như những trẻ có khả năng nhận thức tốt, dẫn đến những trẻ đó thường bị thụ động không mạnh dạn tự tin khi tham gia vào hoạt động khám phá cùng bạn. Như trong chủ đề “Bản thân” cháu Thành Đạt, Nhật Anh, Diệp Chi… sự nhận thức còn hạn chế, tôi đưa câu hỏi dễ như tác dụng của các giác quan (Mắt có tác dụng gì? Mũi dùng để làm gì?...) để trẻ trả lời được, từ đó tạo cho trẻ cảm giác thành công trong công việc giúp trẻ mạnh dạn và tự tin vào bản thân mình hơn. Còn cháu Minh Quang, Hiệp, Hoa… sự nhận thức cũng như tư duy của trẻ phát triển tốt tôi đặt ra những bài tập hay câu hỏi khó như: Tôi hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta bịt mũi lại? hay tại sao co cá lại sống được ở dưới nước... để tránh gây cho trẻ sự nhàm chán trong quá trình khám phá. Nhờ vào việc lựa chọn nội dung khám phá – thí nghiệm cũng như việc đặt câu hỏi phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ mà tôi thấy các hoạt động khám phá tôi đưa ra cho trẻ đều được trẻ hưởng ứng nhiệt tình. Trẻ lớp tôi đã mạnh dạn, tự tin hơn trong việc thảo luận cũng như tìm ra kết quả nhanh nhất. 3.2. Tạo môi trường hoạt động phong phú. Môi trường luôn đặt ra cho trẻ những thử thách, tìm tòi, khám phá, lôi cuốn trẻ tích cực hứng thú tham gia khám phá khoa học một cách tự nguyện và tự giác. Môi trường cần cung cấp cho trẻ nhiều cơ hội để thực hiện nhiều hoạt động để trẻ thực hiện các hoạt động khám phá phù hợp với khả năng của trẻ. Môi trường kích thích nhu cầu trải nghiệm và thử thách khả năng suy luận, phán đoán của trẻ, vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã chú trọng xây dựng môi trường khám phá khoa học cho trẻ tại lớp học, kết hợp với Ban giám hiệu nhà trường, cha mẹ học sinh xây dựng môi trường khám phá dưới sân trường như khu vui chơi: Cát, sỏi, nước, vườn rau của bé... *Môi trường trong lớp học: 11
  12. Tôi cùng giáo viên trong lớp bàn bạc về sự sắp xếp, bố trí vị trí các góc hoạt động trong lớp học phù hợp, đặc biệt chú ý tới góc khám phá, góc khám phá được bố trí tại cửa ra vào ngoài hàng lang, nơi có đủ ánh sáng, chỗ ngồi thoải mái để giúp trẻ tập trung khi làm thí nghiệm và làm hoạt động thử nghiệm và trang trí các hình ảnh có nội dung về khám phá để gây ấn tượng cho trẻ khi tham gia, thuận lợi cho giáo viên quan sát trẻ khi chơi, trang trí góc khám phá đẹp mắt, mảng tường trên là hình ảnh các bạn chơi các trò chơi khám phá phía dưới là một chiếc kệ nhỏ với các nguyên vật liệu đồ dùng dụng cụ được sắp xếp ngăn nắp dán nhãn rõ ràng để trẻ dễ thấy và thuận tiện khi hoạt động, các dồ dùng, nguyên vật liệu được bố trí theo từng chủ đề. VD: Chủ đề. Thế giới thực vật, tôi bày nhiều hộp hạt giống các loại, những bình nhỏ gieo hạt ở các giai đoạn khác nhau, thước đo, kính phóng đại, bộ sưu tập về các loại hoa, cây xanh, quả…sang chủ điểm động vật thì tôi bày những bình cá, ốc, cua…, vỏ các con vật như vỏ hến, vỏ ngao, vỏ sò huyết, bộ sưu tập các con vât, thức ăn của một số con vật…dưới sàn nhà là các kính lúp, nam châm, các chai nước, thước đo… Tranh ảnh thường xuyên thay đổi cho mới mẻ, đẹp mắt, kích thích, tạo hứng thú cho trẻ, dụng cụ, đồ chơi được sửa chữa, bổ sung, thay thế mới …Đáp ứng nhu cầu chơi của trẻ tại lớp 12
  13. (Góc khám phá trong và ngoài lớp) *Môi trường ngoài lớp học: - Ngoài những thiết bị đồ chơi ngoài trời đã được trang bị tôi đã chủ động tham mưu với nhà trường, kết hợp với giáo viên trong lớp, cha mẹ học sinh sưu tầm nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để tạo cho trẻ môi trường hoạt động phong phú, hấp dẫn với các đồ dùng , đồ chơi, các nguyên vật liệu khác nhau vì môi trường hoạt động phong phú là nguồn cảm hứng nhằm tạo cho trẻ thỏa mãn nhu cầu: vui chơi, giao tiếp, nhận thức, nhu cầu hoạt động cùng nhau… đồng thời tạo cho trẻ nhiều cơ hội vui chơi hoạt động theo sở thích, giúp trẻ hoạt động hứng thú hơn, tích cực hơn. Từ đó, khả năng độc lập sáng tạo ở trẻ phát triển, kỹ năng quan sát, phân tích so sánh … hoàn thiện hơn. Ngoài hành lang tôi thường chuẩn bị, bố trí những đồ dùng, vật liệu để trẻ làm được những thí nghiệm như vì sao vật chìm, vì sao vật nổi, vì sao cây xanh sống được…dưới sân trường khu vui chơi cát, sỏi, nước được bố trí ở nơi thoáng mát, sạch sẽ, nguồn nước được thay thường xuyên, sỏi sạch với nhiều viên sỏi với những mầu sắc khác nhau để thu hút sự tò mò ở trẻ, trên bãi sỏi tôi nhờ phụ huynh mang cho những lốp xe hỏng sau đó sơn mầu tạo thành 13
  14. bông hoa có nhiều cánh để thu hút, kích thích trẻ khám phá, bên bãi cát được các cô sàng lọc sạch sẽ, đảm bảo không có vật sắc nhọn, rác…lẫn cát đảm bảo an toàn cho trẻ khi chơi. Vườn rau của trường luôn sẵn sàng đón trẻ xuống tham quan, quan sát, nhận xét về các loại rau, trẻ được trải nghiệm bắt sâu, nhổ cỏ cho rau… 3.3. Sưu tầm tổ chức các trò chơi, các hoạt động trải nghiệm hiệu quả. Trò chơi là phương pháp được sử dụng rất nhiều để dạy trẻ mầm non khám phá khoa học. Bởi vì đây là cách giúp trẻ củng cố, bổ sung và mở rộng những hiểu biết của trẻ về những sự vật và hiện tượng xung quanh một cách tự nhiên nhất. Dùng trò chơi trong khám phá khoa học kích thích trí tò mò và giác quan của trẻ đến mức tối đa. Khoa học sẽ khơi gợi tính ham học hỏi, khám phá ở trẻ.Tuy nhiên, trẻ sẽ không thích chỉ đứng ngoài quan sát và lắng nghe. Không nên đi theo sau trẻ chỉ bảo chi tiết trẻ phải làm gì. Hãy để trẻ tự khám phá qua trò chơi. Điều này tốt hơn là dạy trẻ theo bài vở cứng nhắc. Bởi việc tự động não suy nghĩ trong quá trình tham gia trò chơi làm trẻ ghi dấu ấn sâu hơn. Quan trọng hơn, trẻ ở độ tuổi mầm non thích chơi hơn việc học. Để trẻ tự tìm tòi không những giúp trẻ nhớ được lâu hơn, mà còn có thể giúp trẻ phát triển tính kiên nhẫn. Thế giới xung quanh trẻ rất rộng lớn và nhiều điều kỳ diệu khơi dậy tính tò mò, niềm đam mê của trẻ song để khơi dậy tính tò mò niềm đam mê đó đòi hỏi người giáo viên cần phải sáng tạo lựa chọn hình thức tổ chức hợp lý đồng thời có nhiều trò chơi, hoạt động trải nghiệm mới lạ mang lại hiệu quả cao trong hoạt động khám phá khoa học. Vì trẻ mẫu giáo hoạt động chủ đạo là vui chơi (chơi mà học, học mà chơi) nên tôi và đồng nghiệp luôn chú tâm sưu tầm sáng tạo những trò chơi, đặc biệt là những trò chơi có nhiều hoạt động trải nghiệm, thí nghiệm phù hợp với tâm lý lứa tuổi, phù hợp với các chủ điểm đã được xây dựng đồng thời luôn đảm bảo an toàn cho trẻ. 14
  15. Trên thực tế khi tổ chức các hoạt động khám phá trẻ trải nghiệm củng cố các kiến thức đã được lĩnh hội qua tiết học có chủ đích như: Khám phá về những âm thanh kì diệu, sự kỳ diệu của nước, sự phát triển và lớn lên của cây, bảng pha màu giúp trẻ hiểu biết về các pha trộn về màu sắc từ 2 hay 3 màu tạo ra những màu mà trẻ yêu thích hoặc những hình ảnh mang tính giáo dục. Khi trẻ hoạt động cùng cô, trẻ thường tự đặt ra những câu hỏi với cô giáo với bạn bè như: Tại sao lọ thủy tinh lại kêu keng keng còn lọ nhựa lại kêu ộp bộp, Vì sao nước bốc hơi? Vì sao viên đá lại tan ra? Vì sao cốc nước chanh của con lại không chua bằng của bạn? Vì sao chong chóng quyay ?...Từ những câu hỏi trẻ đặt ra điều đó chứng tỏ trẻ có khả năng tư duy tốt khi tham gia hoạt động khám phá và bộc lộ bản thân vừa được hình thành và phát triển tâm lý, khi tiếp xúc với các sự vật hiện tượng xung quanh trẻ được lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội của loài người chứa trong các sự vật hiện tượng, các mối quan hệ của con người trẻ học được cách gọi tên, cách sử dụng, biết được các đặc điểm thuộc tính, mối quan hệ của các sự vật hiện tượng rộng phát triển mở rộng vốn từ của trẻ.…. Tóm lại tùy theo từng chủ điểm, từng nội dung khám phá, từng thời điểm trong ngày để lựa chọn hình thức các trò chơi, các hoạt động trải nghiệm phù hợp. Trong quá trình tổ chức thực hiện tôi cùng đồng nghiệp sưu tầm, sáng tạo một số trò chơi mang tính trải nghiệm, thực hành giúp trẻ vui thích, hứng thú: VD: Với bài dạy về “không khí” Tôi tổ chức các trò chơi. Trò chơi 1: “Bịt mũi” tôi và cả lớp cùng làm động tác bịt mũi, miệng mím lại và cho trẻ nói cảm nhận của mình khi bịt mũi, đa số các cháu trả lời: thấy rất khó chịu, không thở được. Vậy làm thế nào để thở được? Cháu Minh Quang trả lời: Con thưa cô muốn thở được phải bỏ tay ra, tôi nói: Chúng ta thở được là nhờ có không khí và tôi đặc ra vấn đề cho trẻ giải quyết như: Không khí có ở đâu? cháu Tiến Đạt thì nói con không biết, cháu Hà Anh thì nói không khí ở đây? Tôi hỏi vì sao con biết là ở đây có không khí thì cháu trả lời: Vì con thở được. Để xem bạn nói có đúng không, tôi cho trẻ đứng ở trong 15
  16. lớp, ngoài cửa, ngoài sân và hỏi trẻ có thở được không? Rồi tôi kết luận: Không khí có ở xung quanh chúng ta. Tôi tiếp tục đặt ra tình huống “Chúng ta có nhìn thấy không khí không?” “Có bắt được không khí không?” có cháu nói không bắt được, có cháu nói có bắt được, vậy làm thế nào để bắt được không khí? rất nhiều ý kiến khác nhau đưa ra: Lấy ly, lấy chai, lấy túi nilông.... để bắt không khí. Trò chơi 2: “Vợt không khí” Tôi phát cho mỗi trẻ một túi ni lông và yêu cầu trẻ vợt không khí vào túi rồi buộc lại và quan sát xem có hiện tượng gì xảy ra. Trẻ nói: Túi phồng to giống như quả bóng. Tôi hỏi: Vì sao túi lại phồng?... Tôi giải thích cho trẻ biết “Vì trong túi có không khí”. Để biết điều đó có chính xác không, tôi chia trẻ làm 2 nhóm. Nhóm 1 tôi cho trẻ dùng tăm chọc vào túi ni lông rồi áp vào má, hỏi trẻ cảm thấy thế nào? (mát, có gió...), Nhóm 2 tôi cho trẻ dùng tăm chọc túi nilông và thả xuống chậu nước và thấy hiện tượng gì xảy ra (bong bóng nổi lên) Vì sao? Vì trong túi nilông có không khí....... Cứ như vậy giờ thí nghiệm trở nên sôi động và trẻ rất vui, hứng thú say sưa tìm hiểu để rút ra được kết luận: Không khí có tất cả xung quanh chúng ta, không khí không có màu, không nhìn thấy được, nhờ không khí mà con người mới thở được ..... 16
  17. (Trẻ thả túi nilong bị chọc thủng vào nước) Như vậy là trẻ đã được trực tiếp quan sát, tự mình, trải nghiệm suy đoán, phân tích và tìm ra một kết luận mà mình cho là đúng và khi thí nghiệm thành công, tôi thấy trên khuôn mặt trẻ hiện rõ vẻ thích thú, phấn khởi vô cùng. Với thí nghiệm nhỏ này tôi thấy vui và trẻ lớp tôi đã thực sự chủ động khi làm công việc thí nghiệm, giúp trẻ tự tin, tự lập suy nghĩ , tự tìm ra kết quả nhanh nhất để hoàn thành công việc mình đang làm. Ví dụ: Hoạt động trải nghiệm: Vật chìm vật nổi Tôi chia trẻ thành 3 nhóm và chuẩn bị cho mỗi nhóm một chậu nước, và các đồ vật khác nhau: sỏi, viên bi, lá cây, bóng bay, bông hoa,…Đầu tiên tôi yêu cầu trẻ cầm, nắm, sờ các đồ vật tôi đó rồi tôi thảo luận với trẻ những vật nào nổi, vật nào chìm. Cháu Quang Minh bảo bông hoa chìm, nhưng cháu Ngọc Ánh lại bảo bông hoa nổi. Sau đó tôi ghi lại các ý kiến của trẻ để xem trẻ nào nói đúng, trẻ nào nói sai. Với tôi câu trả lời của trẻ đúng – sai không quan trọng bằng việc biết được trẻ suy nghĩ và tìm ra kết quả đó bằng cách 17
  18. nào. Để biết được trẻ nào đúng trẻ nào sai, tôi yêu cầu trẻ hãy lấy một số đồ vật thả vào chậu nước và quan sát xem vật nào nổi vật nào chìm? Tôi hỏi trẻ các con quan sát xem vật nào nổi lên mặt nước, trẻ trả lời : Xốp, thuyền giấy, quả bóng bay, hoa… Vì sao các vật đó lại nổi được? Rất nhiều ý kiến trả lời khác nhau, có trẻ trả lời là do xốp nhẹ, xốp không thấm nước, ….. Vậy các con hãy quan sát xem những vật nào chìm và vì sao? Bạn Hoa nói : “Con thưa cô, Con thấy hòn sỏi bị chìm vì hòn sỏi nặng hay “Con thấy hòn bi cũng chìm vì hòn bi hình tròn và nặng hơn bông hoa”… Với hình thức này tôi thấy trẻ được trải nghiệm, được thử đúng- sai và cuối cùng tự mình tìm ra được một kết quả nào đó trẻ sẽ cảm thấy sung sướng. (Trẻ đang làm thí nghiệm vật chìm vật nổi) 3.4. Dạy trẻ khám phá trong giờ hoạt động chung và khám phá ở mọi lúc mọi nơi. *Khám phá trong giờ hoạt động chung. 18
  19. Trong các hoạt động dạy trẻ khám phá khoa học tôi thường sử dụng vật thật để kích thích các giác quan của trẻ hoạt động, trẻ được trực tiếp quan sát, phân tích so sánh tự mình rút ra một kết luận theo ý hiểu của riêng mình. Điều đó thực sự làm trẻ thích thú và hứng thú tham gia vào hoạt động khám phá. Trong các giờ học khám phá khoa học tôi thường xuyên thay đổi hình thức khám phá miễn sao đến hết giờ học trẻ được khám phá, nhận xét những nét đặc điểm, đặc trưng, sự giống và khác nhau của đồ vật, hiện tượng đó, phải dành thời gian cho trẻ tự khám phá, tự trải nghiệm và chia sẻ, nêu lên ý kiến của mình, từ đó cô giáo khuyến khích, khích lệ trẻ phát triển những suy nghĩ, ý tưởng của trẻ bằng hệ thống câu hỏi mở, cho trẻ được trải nghiệm với các đồ dùng đồ chơi và các nguyên vật liệu khác nhau, được hoạt động và làm những công việc phục vụ cho bản thân trẻ vì những công việc đó sẽ là những bài học và trải nghiệm tốt cho trẻ về khám phá khoa học. Ví dụ: Ở chủ đề thế giới động vật với bài khám phá khoa học: Một số con vật sống dưới nước (con ốc, con cua). Vào đầu giờ học tôi sử dụng hình thức vào bài bằng cách cho trẻ đọc các bài ca dao, đồng dao, câu đố để thu hút, khắc sâu đối tượng khám phá cho trẻ như: Con cua mà có hai càng Đầu tai không có bò ngang cả đời Con cá mà có cái đuôi Hai vây ve vẩy nó bơi rất tài… Hay nói về con ốc tôi còn sử dụng câu đố để kích thích tư duy, óc phán đoán cho trẻ, làm phong phú vốn từ “Nhà hình xoắn ở dưới ao Chỉ có một cửa ra vào mà thôi Mang nhà đi khắp mọi nơi 19
  20. Không đi đóng cửa nghỉ ngơi một mình” Với mỗi đề tài tôi sử dụng bài hát dân ca, bài ca dao, đồng dao, câu đố phù hợp giống như đề tài động vật ở trên. Tiếp theo tôi gợi ý cho trẻ chọn bạn mình thích để quan sát, nhận xét đặc điểm của các con vật theo từng nhóm (Nhóm 1, Nhóm 2) (Nhóm 1: Quan sát, thảo luận về Con Cua) 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2