Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi ở mọi lúc mọi nơi trong trường Mầm non
lượt xem 0
download
Nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi ở mọi lúc mọi nơi trong trường Mầm non” nhằm cung cấp được nhiều vốn từ cho trẻ, giúp trẻ có khả năng phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất và trao đổi thêm kinh nghiệm cho các đồng nghiệp của mình.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi ở mọi lúc mọi nơi trong trường Mầm non
- MỤC LỤC STT NỘI DUNG Trang I Phần I: Đặt vấn đề 2 1 Lý do chọn đề tài 2 2 Mục đích nghiên cứu 2-3 3 Đối tượng nghiên cứu 3 4 Đối tượng khảo sát, thực nghiệm 3 5 Phương pháp nghiên cứu 3 6 Phạm vi thực hiện đề tài 3 II Phần II. Những biện pháp đổi mới để giải quyêt vấn đề 4 1 Cơ sở lí luận 4 2 Cơ sở thực tiễn 4-5 3 Thực trạng 5 3.1 Thuận lợi 5 3.2 Khó khăn 5 3.3 Khảo sát thực trạng đầu năm. 5 4 Những biện pháp thực hiện đề tài 6 5 Những biện pháp từng phần 6 5.1 Biện pháp 1: Học tập và tự bồi dưỡng chuyên môn. 6 5.2 Biện pháp 2: Sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp 6-8 5.3 Biện pháp 3: Sử dụng đồ dùng trực quan vào hoạt động học. 8-9 5.4 Biện pháp 4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các giờ hoạt 9-11 động. 5.5 Biện pháp 5: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua giao tiếp trong 11-12 khi chơi. 5.6 Biện pháp 6: Lựa chọn, sưu tầm bài thơ, câu chuyện phù hợp. 12-13 5.7 Biện pháp 7: Công tác tuyên truyền phối kết hợp với phụ 13 huynh. 6 Kết quả đạt được 13-14 III Phần III. Kết luận và khuyến nghị 14 1 Kết luận 14-15 2 Khuyến nghị 15 IV Phần IV. Minh chứng 16-26 Tài liệu tham khảo 27 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài:
- Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Nó là phương tiện để giao tiếp, giúp dễ dàng thể hiện tình cảm và chia sẻ kinh nghiệm sống giữa con người với nhau. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp để phát triển tư duy, nhận thức của trẻ, là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập, vui chơi. Ngôn ngữ được tích hợp trong tất cả các hoạt động giáo dục trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ ở trẻ 24-36 tháng có số lượng từ tăng nhanh, trẻ không những chỉ hiểu nghĩa của các từ biểu thị sự vật, hành động cụ thể mà còn hiểu nghĩa của các từ biểu thị tính chất, màu sắc, thời gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa, sử dụng các từ còn chưa chính xác, số lượng từ còn ít. Với thực tế trẻ ở lớp tôi thì vốn từ của trẻ chưa phong phú, trẻ còn nói ngọng, phát âm chưa đúng. Việc phát triển và làm giàu vốn từ, dạy trẻ phát âm đúng, có kĩ năng trả lời một số câu hỏi, hiểu được yêu cầu đơn giản bằng lời nói của người lớn là điều quan trọng và cần thiết đối với trẻ 24-36 tháng. Là một cô giáo mầm non trực tiếp dạy trẻ 24-36 tháng, tôi luôn có suy nghĩ làm sao để giúp các con có nhiều vốn từ, nói rõ ràng đủ câu. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua các hoạt động khác nhau và dạy trẻ ở mọi lúc, mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ nhằm phát triển tư duy. Cũng chính vì thế, tôi đã mạnh dạn thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi ở mọi lúc mọi nơi trong trường Mầm non” nhằm cung cấp được nhiều vốn từ cho trẻ, giúp trẻ có khả năng phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất và trao đổi thêm kinh nghiệm cho các đồng nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu: Ngôn ngữ là phương tiện chủ đạo để trẻ phát triển ngôn ngữ và phát triển ở trẻ kỹ năng diễn đạt, đối với trẻ nhà trẻ nói được câu có từ 5-7 tiếng... để làm tiền đề cho sự phát triển toàn diện ở trẻ. Vì vậy cần phải có biện pháp để khai thác tối ưu khả năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các hoạt động. Đây
- chính là cơ sở lý luận để tôi xây dựng các biện pháp cho đề tài sáng kiến kinh nghiệm. Chỉ ra thực trạng về chất lượng giáo dục ở trường mầm non. Đề xuất một số kinh nghiệm để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường mầm non nơi tôi đang công tác thuộc huyện Ba Vì. 3. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi ở mọi lúc mọi nơi trong trường Mầm non” ở trường mầm non nơi tôi đang công tác thuộc huyện Ba Vì. 4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm: Trẻ nhà trẻ 24-36 tháng D3 khảo sát chất lượng về mặt ngôn ngữ thông qua các hoạt động, qua việc khảo sát phát triển khả năng nghe và trả lời được câu hỏi của người đối thoại, nói được câu có từ 5-7 tiếng, biết bày tỏ nhu cầu của bản thân, đề nghị người khác đọc sách cho nghe, tự giở sách xem tranh. 5. Phương pháp nghiên cứu: Nhiệm vụ: Với vai trò là một giáo viên mầm non, tôi luôn thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt “Một ngày của bé”, quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ theo đúng kế hoạch, không bớt xén chương trình. Do vậy nhiệm vụ chính của tôi là làm sao tìm ra phương pháp phát triển ngôn ngữ và sử dụng hình thức một cách tốt nhất để cho trẻ được trải nghiệm, hứng thú thông qua các hoạt động, kích thích sự tò mò, sáng tạo của trẻ để góp phần hình thành nhân cách cho trẻ. Để hoàn thành nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp quan sát - Phương pháp điều tra Phương pháp dùng lời - Phương pháp đàm thoại Phương pháp động viên - khuyến khích Phương pháp so sánh, đối chiếu Phương pháp trực quan, gián tiếp Phương pháp thực hành Và để phục vụ cho quá trình nghiên cứu, đề tài còn sử dụng một số thủ pháp như: hệ thống, phân loại, phân tích, khái quát, tổng hợp. 6. Phạm vi thực hiện đề tài: Đề tài được thực hiện tại lớp nhà trẻ 24-36 tháng D3. Thời gian thực hiện: Từ tháng 9 năm 2020 đến tháng 4 năm 2021. PHẦN II. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận:
- Ngôn ngữ - thành tựu lớn nhất của con người – là một hệ thống tín hiệu đặc biệt. Nó là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của các thành viên trong xã hội loài người, nhờ có ngôn ngữ con người có thể trao đổi cho nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh nghiệm, bày tỏ với nhau những nguyện vọng và cùng nhau thực hiện những dự định tương lai. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ giúp cho tư duy của trẻ phát triển và còn là một phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện về nhân cách và đạo đức. Giáo dục mầm non là giáo dục trẻ phát triển hài hòa về thể chất, tình cảm, trí tuệ và thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng trong chương trình giáo dục trẻ toàn diện. Ngôn ngữ của trẻ tiến bộ nhanh hay chậm tùy thuộc vào điều kiện sống, quan hệ giao tiếp với người xung quanh, đây là giai đoạn trẻ học bắt chước người lớn, chính thời điểm này mà cô giáo sẽ dạy trẻ, uốn nắn trẻ cách nói đủ câu, cách phát âm rõ ràng… Nói đến ngôn ngữ là nói đến phương tiện nhận thức và giao tiếp hữu hiệu nhất của con người. Nhờ có ngôn ngữ, con người mới có phương tiện để nhận thức và thể hiện nhận thức của mình, để giao tiếp và hợp tác với nhau. Qua đó, biểu đạt ý nghĩa, tình cảm của mình với người khác, để người ta hiểu nhau hơn. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thực chất là phát triển hoạt động lời nói. Quá trình hình thành lời nói ở trẻ gắn bó rất chặt chẽ với hoạt động của tư duy. Sự mạch lạc trong lời nói của trẻ thực chất là sự mạch lạc của tư duy. Trên con đường phát triển ngôn ngữ giao tiếp của trẻ, giáo viên chính là người phát hiện, hình thành những kỹ năng ngôn ngữ, quan sát, đánh giá khả năng ngôn ngữ của trẻ. 2. Cơ sở thực tiễn: Trường mầm non nơi tôi đang công tác là một trong số ngôi trường của huyện có chất lượng chăm sóc giáo dục tương đối tốt. Trường được xây dựng khang trang, có khung cảnh sư phạm môi trường sạch đẹp, luôn được sự quan tâm của phòng Giáo dục và đào tạo được đầu tư trang thiết bị dạy học khá đầy đủ, có nhiều đồ chơi ngoài trời phân khu hợp lý và luôn đảm bảo là ngôi trường xanh - sạch - đẹp. Với quy mô toàn trường có 18 nhóm lớp và có 62 đồng chí giáo viên, nhân viên. Năm học 2020 - 2021, tôi được ban giám hiệu phân công chủ nhiệm lớp 24-36 tháng cùng với một cô giáo trẻ tuổi. Vào đầu năm học tôi nhận thấy thực trạng của lớp tôi như sau: 3. Thực trạng.
- Trong năm học 2020-2021 tôi được nhà trường phân công dạy lớp nhà trẻ 24-36 tháng D3, lớp tôi có 20 học sinh, trong đó có 10 trẻ nam và 10 trẻ nữ. Quá trình thực hiện đề tài bản thân tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn sau: 3.1. Thuận lợi Trường có đội ngũ giáo viên khá đông, với nhiều độ tuổi khác nhau. 100% giáo viên có trình độ chuẩn và trên chuẩn trở lên. Ban giám hiệu chỉ đạo sát sao việc chăm sóc, giáo dục trẻ đặc biệt là ở lứa tuổi nhà trẻ 24-36 tháng cần quan tâm và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Lớp được chia theo đúng độ tuổi quy định. Đồ dùng phục vụ cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ được trang bị khá đầy đủ. Luôn được sự quan tâm, chỉ đạo, giám sát của ban giám hiệu nhà trường. Giáo viên được bồi dưỡng thường xuyên và tham gia học tập tại các lớp chuyên đề do sở và phòng tổ chức. Giáo viên nhiệt tình, sáng tạo làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Bên cạnh đó, các bậc phụ huynh hầu hết đều trẻ tuổi nên rất dễ để tìm sự cảm thông và chia sẻ kiến thức, kinh nghiêm nuôi dạy các cháu. 3.2. Khó khăn: Đồ dùng trực quan còn ít chưa đa dạng phong phú, thẩm mỹ chưa đạt, giá trị sử dụng chưa cao. Đặc biệt là đồ cho trẻ sử dụng còn ít. Đa số trẻ là con nông dân, nhận thức của một số phụ huynh học sinh còn chưa đồng đều, còn một số phụ huynh cho rằng trẻ còn bé không cần học chỉ cần cho trẻ ăn, ngủ điều độ và đảm bảo an toàn là được. Vì trẻ bắt đầu đi học còn khóc nhiều chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt của lớp nên còn bỡ ngỡ. Mỗi trẻ lại có những sở thích và cá tính khác nhau. Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa nhớ hết trật tự của các âm khi sắp xếp thành câu vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói. Trẻ mới đi lớp nên chưa có nề nếp học tập, chưa mạnh dạn tự tin. Ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, trẻ phát âm chưa rõ, chưa đạt vốn từ theo yêu cầu của độ tuổi, chưa diễn đạt được ý muốn hiểu biết của mình với người khác. 3.3. Khảo sát thực trạng đầu năm: Để tiến hành tổ chức các giải pháp của đề tài, tôi xác định các mục tiêu giải quyết của các giải pháp qua các nội dung khảo sát chất lượng của trẻ phát triển ngôn ngữ ở mọi lúc mọi nơi (Minh chứng trong bảng 1 phần bảng đánh giá)
- 4. Những biện pháp thực hiện đề tài Biện pháp 1: Tự học tập và bồi dưỡng chuyên môn. Biện pháp 2: Sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp. Biện pháp 3: Sử dụng đồ dùng trực quan vào hoạt động học. Biện pháp 4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các giờ hoạt động. Biện pháp 5: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua giao tiếp trong khi chơi. Biện pháp 6: Lựa chọn, sưu tầm bài thơ, câu chuyện phù hợp. Biện pháp 7: Công tác tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh. 5. Những biện pháp từng phần: 5.1. Biện pháp 1: Tự học tập và tự bồi dưỡng chuyên môn. Chất lượng chuyên môn phụ thuộc rất lớn vào bản thân mỗi giáo viên. Do vậy việc bồi dưỡng về nhận thức và chuyên môn của bản thân mỗi giáo viên là một việc làm vô cùng cần thiết giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn trang bị cho giáo viên những hiểu biết, các kiến thức về chuyên môn giúp giáo viên chủ động, tự tin trong quá trình tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Từ nhận thức về ý nghĩa của việc tự học tự bồi dưỡng, nên bản thân tôi luôn tham gia đầy đủ các buổi bồi dưỡng chuyên môn do Phòng GD&ĐT tổ chức, các buổi sinh hoạt chuyên môn tại nhà trường, lắng nghe và ghi chép một cách nghiêm túc, mạnh dạn trao đổi với giảng viên những vấn đề còn chưa rõ, chưa hiểu, những vấn đề mà tôi quan tâm về đổi mới phương pháp giảng dạy. Tham gia đầy đủ các chuyên đề, các buổi dạy thực nghiệm do trường, do Phòng tổ chức. (Minh chứng: Hình ảnh 1.1). Thực hiện tốt quy chế chuyên môn, tăng cường dự giờ để học hỏi kinh nghiệm, phương pháp của đồng nghiệp. (Minh chứng: Hình ảnh 1.2) Tham gia bồi dưỡng trong các buổi sinh hoạt chuyên môn. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn cùng nhau thảo luận thống nhất phương pháp, nội dung, hình thức tổ chức, cách thức lồng ghép nội dung rèn kỹ năng cho trẻ. (Minh chứng: Hình ảnh 1.3). Kết quả: Việc tự học tập và bồi dưỡng chuyên môn giúp tôi có thêm những kiến thức mới - hay, để bổ sung vào kho kỹ năng sư phạm của bản thân. 5.2. Biện pháp 2: Sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp. Ở mỗi hoạt động của trẻ tôi đã bám sát vào mục đích yêu cầu về kiến thức, kĩ năng trẻ cần đạt của từng hoạt động để tôi đưa ra hệ thống câu hỏi phù hợp với trẻ. Ở lứa tuổi này câu hỏi đưa ra cần ngắn gọn, dễ hiểu đối với trẻ. Là những câu hỏi mở để phát triển tư duy sáng tạo của trẻ.
- Ví dụ 1: Ở hoạt động nhận biết to – nhỏ. Tôi đưa ra những câu hỏi để cho trẻ nhận biết quả bóng to – quả bóng nhỏ. (Minh chứng: Hình ảnh 2.1) Trong rổ cô có gì đây? Quả bóng này màu gì? Còn quả bóng này có màu gì? Quả bóng nào to – Quả bóng nào nhỏ? Sau đó tôi sẽ gọi nhiều trẻ trả lời để ôn lại màu sắc và cách phân biệt to nhỏ, khắc sâu biểu tượng về độ lớn cho trẻ, đồng thời phát triển ngôn ngữ, phát triển vốn từ cho trẻ. Sau mỗi lần trẻ trả lời tôi thường khen, động viên trẻ kịp thời và sửa sai khi trẻ phát âm sai. Ví dụ 2: Khi cho trẻ xâu vòng tôi đưa ra câu hỏi đàm thoại với trẻ (Minh chứng: Hình ảnh 2.2) Con đang làm gì vậy? Con xâu vòng như thế nào? Con xâu vòng tặng ai? Cô hỏi trẻ để trẻ nhớ lại cách xâu vòng vào dây, tay trái cầm hột hạt, tay phải cầm dây xỏ vào lỗ của hột hạt, xâu xong đến hạt tiếp theo => Tạo sự khéo léo của đôi bàn tay, phát triển vận động tinh và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Ví dụ 3: Với hoạt động kể chuyện "Thỏ con không vâng lời". (Minh chứng: Hình ảnh 2.3) Tôi đã sử dụng hệ thống câu hỏi đàm thoại để trẻ nhớ tên chuyện, tên nhân vật và hiểu nội dung câu chuyện. Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì? Trong câu chuyện có những nhân vật nào? Thỏ mẹ dặn Thỏ con điều gì? Ai đã rủ Thỏ con đi chơi? Thỏ con có nhớ đường về nhà không? Ai đã đưa Thỏ con về nhà? Về đến nhà Thỏ con đã nói gì với mẹ? Thông qua các câu hỏi đàm thoại trẻ hiểu nội dung, tình tiết của câu chuyện, trẻ nhớ tên câu chuyện, tên các nhân vật trong chuyện, qua đó rèn thêm ngôn ngữ mạch lác và phát triển vốn từ cho trẻ. Ví dụ 4: Ở hoạt động nhận biết tập nói "Con mèo". (Minh chứng: Hình ảnh 2.4) Tôi đưa ra hệ thống câu hỏi phù hợp với nhận thức của trẻ ở độ tuổi này. Câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, bám sát vào đặc điểm nổi bật của con mèo. Đây là con gì? Tai mèo đâu?
- Đuôi mèo đâu các con? Con mèo thích ăn gì? Con mèo hay rình bắt con gì nhỉ? Trẻ tri giác, tư duy để trả lời câu hỏi cô đưa ra, qua đó trẻ năm được một số đặc điểm đặc trưng của con mèo => Phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Ví dụ 5: Giờ hoạt động góc: Góc bế em. (Minh chứng: Hình ảnh 2.5) Con đang làm gì? Em búp bê có ngoan không? Con cho em búp bê ăn món gì? Cô hỏi trẻ thao tác bế em, ru em ngủ, cho em búp bê ăn, rèn sự khéo léo của đôi bàn tay => Phát triển vốn từ cho trẻ. Kết quả: Qua việc thực hiện biện pháp này giúp tôi hiểu được khả năng riêng biệt của từng trẻ để từ đó đưa ra biện pháp giáo dục kịp thời, phù hợp. 5.3. Biện pháp 3: Sử dụng đồ dùng trực quan vào hoạt động học. Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học các hình ảnh, video, bài giảng điện tử, vật thật để trẻ quan sát, giúp trẻ cảm giác và tri giác trên cơ sở đó tạo ra các biểu tượng cụ thể cho trẻ, rèn luyện kĩ năng kĩ xảo. Vì đặc điểm tri giác của trẻ ở lứa tuổi này là tri giác trực tiếp nên tôi cho trẻ được quan sát vật thật, đồ chơi, tranh ảnh về môi trường xung quanh, về các chủ đề cụ thể đầu tiên đi từ đơn giản tới phức tạp, các đối tượng riêng lẻ, các đồ dùng đồ chơi quen thuộc với trẻ hàng ngày. Khi sử dụng đồ dùng trong các hoạt động tôi sử dụng triệt để, có tính khoa học, gọn nhẹ, tránh rườm rà đối với trẻ để trẻ dễ quan sát, dễ hiểu và nắm được các đặc điểm chính nổi bật của đối tượng quan sát. Khi cho trẻ quan sát tôi gợi ý, hướng dẫn trẻ quan sát, cùng với hệ thống câu hỏi tổng thể, chi tiết rồi về tổng thể để trẻ quan sát có hiệu quả. Ví dụ 1: Với chủ đề “Một số loại quả” (Minh chứng: Hình ảnh 3.1) Ở hoạt động nhận biết tập nói tôi cho trẻ quan sát một số loại quả như: Quả cam, quả xoài. Tôi cho trẻ được tri giác quả thật => Trẻ được sờ, được nếm vị của quả. Trẻ được phát triển các giác quan, xúc giác, cảm giác, vị giác. Trẻ được nói lên nhận xét của mình về đặc điểm của các loại quả, màu sắc, hình dáng, vị của quả. Ngoài ra tôi còn cho trẻ kể tên một số loại quả mà trẻ biết => qua đó làm phong phú thêm vốn từ cho trẻ. Ví dụ 2: Với chủ đề “Động vật” (Minh chứng: Hình ảnh 3.2) Khi cho trẻ quan sát con mèo tôi cho trẻ quan sát hình ảnh con vật, tôi hỏi trẻ: Tên con vật?
- Một số đặc điểm nổi bật của các con vật? (Màu sắc, mấy chân, tiếng kêu, môi trường sống ...). Tôi gọi nhiều cá nhân trẻ để trẻ được nói, được phát âm sau đó đến tập thể trẻ trả lời. Qua đó kích thích tư duy của trẻ để trẻ suy nghĩ trả lời các câu hỏi => rèn sự phát âm, cung cấp thêm vốn từ cho trẻ. Ví dụ 3: Với hoạt động nhận biết tập nói “Hoa hồng hoa cúc”. (Minh chứng: Hình ảnh 3.3) Tôi cho trẻ quan sát hoa thật, để trẻ được tri giác trực tiếp, được ngửi mùi hương thơm của hoa, màu sắc, cánh và lá hoa. Qua đó trẻ có nhận xét của mình về đặc điểm của loại hoa đó => Làm phong phú thêm vốn từ, hiểu biết thêm về thế giới xung quanh cho trẻ. Ví dụ 4: Ở hoạt động làm quen với văn học: (Minh chứng: Hình ảnh 3.4) Kể chuyện và đọc thơ cho trẻ nghe, tôi đã sử dụng bài giảng điện tử, hình ảnh minh họa, sa bàn, rối minh họa nội dung câu chuyện. Ở hoạt động đó trẻ được quan sát, tri giác tranh theo lời kể của cô => Làm cho trẻ thêm nhớ, khắc sâu nội dung câu chuyện, nhớ tên các nhân vật trong câu chuyện để trẻ dễ thuộc chuyện hơn. Kết quả: Thực hiện biện pháp này giúp trẻ tư duy trực quan một cách chính xác, dễ nhớ, dễ hiểu. 5.4. Biện pháp 4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các giờ hoạt động. * Giờ đón trẻ: Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường, tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ. Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Trò chuyện về gia đình của trẻ: (Minh chứng: Hình ảnh 4.1) Gia đình con có những ai? Trong gia đình ai yêu con nhất? Mẹ yêu con như thế nào? Buổi sáng ai đưa con đến lớp? Bố con đưa đi bằng phương tiện gì? Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn.
- Ngoài ra trong giờ đón trẻ, trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà, bố, mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời. (Minh chứng: Hình ảnh 4.2) * Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời: Hoạt động ngoài trời cũng rất quan trọng đối với trẻ, vì khi ra hoạt động ngoài trời trẻ được tiếp xúc với ánh mặt trời, không khí trong lành có lợi cho sức khỏe, trẻ được quan sát cảnh vật xung quanh, cây cối. Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như: Đu quay, cầu trượt, bập bênh… Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn trường => qua đó tích lũy kiến thức về biểu tượng cho trẻ. Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát cây bằng lăng. (Minh chứng: Hình ảnh 4.3) Trước tiên tôi hướng dẫn trẻ tri giác trực tiếp, tự nhận xét xem cây có những đặc điểm gì để trẻ nói lên suy nghĩ, nhận xét của mình nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ, sau đó tôi đàm thoại với trẻ: Đây là cây gì? Cây có những gì? Lá cây có màu gì? Thân cây đâu? Muốn cây tươi tốt chúng ta phải làm gì? Ví dụ: Cho trẻ quan sát cây hoa lá bỏng. (Minh chứng: Hình ảnh 4.4) Tôi cho trẻ quan sát cây, cho trẻ tự nói lên suy nghĩ của mình về cây, để nhiều trẻ được nói nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ, sau đó hỏi trẻ: Đây là cây hoa gì? Hoa có màu gì? Lá hoa như thế nào? Thân cây hoa thì sao? Chúng mình có được ngắt hoa không? Giáo dục: Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con không được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé! Ở hoạt động ngoài trời tôi còn cho trẻ xem thí nghiệm: Vật chìm vật nổi, nước đổi màu, … (Minh chứng: Hình ảnh 4.5) Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được vốn từ mới, ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn. Ở lứa tuổi này trẻ hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại. * Hoạt động chiều:
- Trong các buổi hoạt động chiều, tôi cho trẻ ôn lại các bài thơ, bài hát đã học để giúp trẻ ghi nhớ. Tôi cho trẻ được nói, trả lời câu hỏi của cô theo suy nghĩ của trẻ kích thích tư duy giúp trẻ hoàn thiện vốn từ, phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Kết quả: Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ không hỉ ở hoạt động học, mà thông qua các hoạt động trong ngày cũng có thể giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện, từ đó phát triển vốn từ cho trẻ. 5.5. Biện pháp 5: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua giao tiếp trong khi chơi. Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau. Ví dụ 1: Trò chơi trong góc “Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê và chơi bán hàng, khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày. Bác đã cho búp bê ăn chưa? (Chưa ạ) Khi ăn bác nhớ đeo yếm để bột không rơi ra áo của búp bê nhé! (Vâng ạ) Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé! Bột vẫn còn nóng lắm để mẹ thổi cho nguội đã ! (Giả vờ thổi cho nguội) Búp bê của mẹ ăn ngoan rồi mẹ cho búp bê đi chơi nhé!(Âu yếm búp bê) Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó của con người. (Minh chứng: Hình ảnh 5.1) Ví dụ 2: Trong góc “Hoạt động với đồ vật” ở chủ đề “Những con vật đáng yêu” bằng đồ dùng tự tạo cô cho trẻ xây dựng vườn thú và hỏi trẻ: (Minh chứng: Hình ảnh 5.2) Linh ơi, con đang làm gì vậy? ( Con đang xây vườn thú ạ) Làm thế nào để xây được vườn thú? (Con dùng gạch xây dựng ạ) Muốn vườn thú đẹp hơn thì con làm gì? ( Con cho các cây và hoa vào ạ) Khi xây xong con để sản phẩm của mình nhẹ nhàng nhé! ( Vâng ạ)
- Ví dụ 3: Ở góc “Bé yêu văn học”. Tôi cho trẻ tự lật mở trang sách, cho trẻ chơi với rối nhân vật. Ở đó trẻ nói chuyện với bạn, nói về một số nhân vật trong truyện. Cô đến trò chuyện cùng với trẻ, hỏi trẻ: Con đang làm gì? Đây là gì? Đây là con gì? Là nhân vật trong câu chuyện nào? Từ đó gợi mở giúp trẻ nhớ đến câu chuyện đã được học, kích thích phát triển tư duy, mở rộng vốn từ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. (Minh chứng: Hình ảnh 5.3) Ví dụ 4: Ở góc “Âm nhạc”. Tôi cho trẻ biểu diễn, hát những bài hát thuộc chủ đề để trẻ thỏa sức thể hiện bài hát theo khả năng của mình. Giúp trẻ mạnh dạn hơn, tự tin hơn, từ đó phát triển cho trẻ ngôn ngữ mạch lạc. (Minh chứng: Hình ảnh 5.4). Kết quả: Thông qua biện pháp này giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tự nhiên và liên tục. 5.6. Biện pháp 6: Lựa chọn, sưu tầm bài thơ, câu chuyện, đồng dao, trò chơi phù hợp. Ngoài các bài thơ, câu chuyện trong chương trình dạy trẻ, tôi luôn tìm tòi các sách báo, tài liệu, tranh ảnh, trên mạng internet để tìm ra những bài thơ, câu chuyện, đồng dao có nội dung phù hợp với lứa tuổi của trẻ, phù hợp với chủ đề, trẻ dễ thuộc, dễ nhớ, chứa đựng nhiều hình ảnh về con người, cảnh vật môi trường xung quanh. (Minh chứng: Hình ảnh 6). Tôi lựa chọn đưa vào một số hoạt động học, ngoài ra tôi cho trẻ học thêm vào các buổi chiều, giữa các giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ, sau giờ ăn, sau giờ ngủ dậy, giờ đón và trả trẻ. Trước khi cho trẻ học thuộc các bài thơ, kể cho trẻ nghe các câu chuyện tôi đã giảng giải cho trẻ hiểu nội dung của bài thơ câu chuyện đó, sau đó cho trẻ đọc nhiều lần. Trẻ rất hứng thú khi đọc thơ cùng cô, nghe cô kể chuyện. Qua đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, nói rõ ràng mạch lạc, làm phát triển thêm vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Bé ngoan Bé ngoan tới lớp Bảo bạn rửa ngay Không cướp đồ chơi Nghe lời cô dạy Cùng chia cho bạn Yêu thương bạn bè Có bánh có kẹo Chia sẻ buồn vui Cùng mời bạn ăn Phải hỏi thăm bạn Tay mà không sạch Mới là bé ngoan. (Sưu tầm)
- Kết quả: Biện pháp này thực hiện mục tiêu cung cấp vốn từ đa dạng, phong phú cho trẻ. 5.7. Biện pháp 7: Công tác tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh. Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt tôi đã xây dựng kế hoạch ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm về tình hình ngôn ngữ của các con và thông báo với phụ huynh về nội dung từng bài dạy trong các hoạt động cụ thể, nội dung các bài thơ, câu chuyện trong chương trình cũng như sưu tầm để phụ huynh kết hợp dạy con ở nhà. (Minh chứng: Hình ảnh 7.1) Phối kết hợp với phụ huynh cùng các cô làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo để phục vụ hoạt động học của trẻ. (Minh chứng: Hình ảnh 7.2) Tuyên truyền, vận động phụ huynh đóng góp nhiều chai lọ, sách báo cũ, nguyên vật liệu địa phương để có nhiều sản phẩm phục vụ cho hoạt động. (Minh chứng: Hình ảnh 7.3) Kết quả: Biện pháp này góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ để đạt mục tiêu chương trình. 6. Kết quả đạt được Qua việc lựa chọn và sử dụng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi ở mọi lúc mọi nơi trong trường mầm non. Đây là hoạt động thiết thực góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ và trong quá trình thực các biện pháp trên tôi đã thu được một số kết quả sau: (Minh chứng: Bảng 2 phần bản đánh giá) Trẻ hứng thú tham gia hoạt động học: Tăng từ 40% lên 100%. Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp: Tăng từ 35% lên 90%. Phát triển vốn từ cho trẻ: Tăng từ 30% lên 85%. Ngôn ngữ của trẻ mạch lạc hơn: Tăng từ 30% lên 90%. Trẻ nói được câu có từ 5-7 tiếng: tăng từ 35% lên 85%. Trẻ biết biểu đạt mong muốn của mình cho người lớn biết: Tăng từ 30% lên 80%. * Đối với bản thân: Tạo được môi trường giáo dục ở nhóm lớp tốt cho trẻ hoạt động. Tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm để tạo ra nhiều loại đồ dùng phong phú, đa dạng, sử dụng có hiệu quả trong việc tổ chức cho trẻ hoạt động. Chủ động, tự tin, sáng tạo hơn trong việc dạy trẻ phát âm đúng, đủ câu. Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo uy tín tiềm năng đối với phụ huynh và với trẻ, được phụ huynh tín nhiệm.
- Mạnh dạn dám nghĩ dám làm, khắc phục mọi khó khăn để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, phát triển vốn từ. Bên cạnh đó, tuyên truyền để phụ huynh phối hợp cùng cô giáo trong việc thống nhất phương pháp giáo dục trẻ: Phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn từ cho trẻ. Tạo cơ hội để kích thích tư duy, để trẻ được trải nghiệm nhiều hơn. Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, thiết kế các hoạt động để trẻ được giao lưu, học hỏi. * Đối với trẻ: Trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động. Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Vốn từ của trẻ phong phú. Trẻ nói được câu có từ 5-7 tiếng, diễn đạt rõ ràng hơn. Ngôn ngữ của trẻ mạch lạc hơn, số trẻ nói ngọng còn ít. Trẻ biết biểu đạt mong muốn của mình cho người lớn biết. Trẻ biết đặt câu hỏi: Con gì đây? Cái gì đây? Ở các lĩnh vực trẻ cũng có những tiến bộ rõ rệt. Qua khảo sát đánh giá cuối năm, các chỉ số ở các lĩnh vực trẻ đạt cao hơn so với năm học trước. * Đối với phụ huynh Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường, lớp. Phụ huynh đã có thói quen phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc phát triên ngôn ngữ cho trẻ, số lượng phụ huynh dự họp cả hai kỳ đông hơn. Phụ huynh nhận thức đúng đắn về việc giáo dục và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Phụ huynh quan tâm, chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ chơi. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Qua một năm tiến hành các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng ở mọi lúc mọi nơi đã đóng góp hiệu quả cho mục đích của đề tài một cách đáng kể. Từ thực tế về kết quả đạt được qua việc tổ chức thực hiện các biện pháp trong sáng kiến kinh nghiệm, nhằm đạt được kết quả nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm sau: Giáo viên cần phải có tâm huyết với nghề, luôn có ý thức bồi dưỡng năng lực chuyên môn nghiệp vụ của bản thân để có khả năng thực hiện hiệu quả việc chăm sóc giáo dục trẻ. Giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo, lựa chọn thời điểm thích hợp để tổ chức hoạt động.
- Nhận thức được tầm quan trọng và có kỹ năng xây dựng môi trường giáo dục. Nắm vững phương pháp tổ chức các hoạt động trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 2. Khuyến nghị: Để nâng cao hiệu quả của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng trong trường mầm non theo hướng tích cực hóa, tôi có một số kiến nghị sau: Có sự định hướng chỉ đạo giáo viên các lớp 24-36 tháng tuổi thực hiện tốt việc chăm sóc giáo dục và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Huy động sự đóng góp hỗ trợ về cơ sở vật chất của các cấp, các ngành, hội cha mẹ học sinh. Tạo không khí thi đua trong tập thể giáo viên, giúp giáo viên không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Do đề tài được áp dụng trong phạm vi hẹp ở một nhóm trẻ, vì thế một số kinh nghiệm tôi đưa ra không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Qua đây tôi rất mong được các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp đọc, góp ý, xây dựng bổ sung thêm, giúp tôi có được bài học kinh nghiệm tốt hơn để áp dụng trong quá trình công tác của bản thân, đặc biệt nâng cao chất lượng của việc giáo dục lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ mầm non nói chung, trẻ 24-36 tháng tuổi nói riêng. Lời cam đoan: Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của tôi, tôi xin hứa không sao chép bất kỳ của ai, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng khoa học. Xin trân thành cảm ơn! Phú Sơn, Ngày Tháng Năm 2021 Người viết Phùng Thị Phượng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với toán
17 p | 1794 | 338
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý hồ sơ công tác chăm sóc bán trú trong trường mầm non Tuổi Hoa
16 p | 24 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ mầm non
11 p | 25 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ trong trường mầm non
19 p | 44 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa - Long Biên - Hà Nội
10 p | 28 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 50 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục luật lệ an toàn giao thông đường bộ cho trẻ Mẫu giáo 4 - 5 tuổi tại trường mầm non Tuổi Hoa
11 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp dạy trẻ 5-6 tuổi làm một số đồ dùng đồ chơi sáng tạo từ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương
19 p | 14 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp giáo viên tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non
16 p | 13 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 25 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi
12 p | 29 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi trong trường mầm non
18 p | 16 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phòng, tránh ngộ độc thực phẩm trong trường mầm non
12 p | 21 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3-4 tuổi hoạt động làm quen với toán ở trường mầm non
12 p | 18 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa
20 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ 3-4 tuổi cách phòng tránh tai nạn thương tích trong trường Mầm non Tuổi Hoa
14 p | 23 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi ở trường mầm non
16 p | 8 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn trong trường mầm non
16 p | 14 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn