intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn luyện nền nếp, thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng người dân tộc Bru Vân Kiều

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

29
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non được hoàn thành với một số biện pháp như: Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động ở mọi lúc mọi nơi. Làm tốt công tác tuyên truyền vận động phối kết hợp với phụ huynh. Nghiên cứu tham khảo tài liệu tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và thực hiện chương trình giáo dục trẻ 24- 36 tháng có hiệu quả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn luyện nền nếp, thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng người dân tộc Bru Vân Kiều

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN NỀN NẾP, THÓI QUEN  CHO TRẺ 24­ 36 THÁNG NGƯỜI DÂN TỘC BRU VÂN KIỀU”  Quảng Bình, tháng 4 năm 2020.                                                                                                                                               1            
  2. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN NỀN NẾP, THÓI QUEN  CHO TRẺ 24­ 36 THÁNG NGƯỜI DÂN TỘC BRU VÂN KIỀU”                                                         Họ và tên: Phạm Thị Thùy Linh                            Chức vụ: Giáo viên ­ Tổ trưởng chuyên môn         Đơn vị công tác: Trường mầm non Kim Thủy                                                                                                                                               2            
  3.           I. PHẦN MỞ ĐẦU.   1.1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến, giải pháp: Bác Hồ chúng ta thường nói “Trẻ em như búp trên cành”: trẻ em như một  cây non, cây non được sự chăm sóc tận tình của người lớn thì cây sẽ lên tốt, dạy  trẻ tốt thì sau này trẻ thành người tốt, trẻ em là tương lai của đất nước, của dân  tộc.  Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng công tác chăm sóc giáo dục trẻ  em.  Chính vì vậy ngành học mầm non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc ­ giáo dục   trẻ, mà người giáo viên mầm non chính là người đặt nền tảng  để  ươm mầm  tương lai cho đất nước sau này. Đến trường mầm non là lần đầu tiên trong đời trẻ xa bố mẹ, bước vào một  môi trường hoàn toàn mới mẻ, cô giáo là người đầu tiên trẻ  tiếp xúc và n hững  cảm giác về trường học, về cô giáo, về bạn bè, giai đoạn này rất quan trọng vì  đó là ấn tượng ban đầu rất sâu sắc đối với trẻ. Trường mầm non chính là ngôi  nhà thứ hai của trẻ mà ở  đó mỗi nhà giáo dục, mỗi một cô giáo chính là người  mẹ  thứ  hai của trẻ, và cũng là người phải có nhiệm vụ  rèn luện, giáo dục để  bước đầu hình thành cho các cháu có một đức tính tốt thì sau này lớn lên sẽ  trở  thành một người công dân tốt. Là một giáo viên mầm non  có bề  dày kinh nghiệm  hơn  10 năm công tác ở  miền núi vùng sâu vùng xa, người dân phần đông là dân tộc Vân Kiều, bản thân tôi   đã thấm nhuần được nỗi cơ  cực, vất vả  của cộng đồng dân cư  nơi đây. Quanh  năm ít có cơ hội giao lưu tiếp xúc hòa nhập cộng đồng và chỉ sử dụng ngôn ngữ  Bru Vân Kiều. Mọi sinh hoạt hằng ngày cũng theo phong tục tập qu án riêng  mình. Người   Bru­Vân   Kiều   thích   các   món   nướng,  cá   hoặc   ếch   nhái  thì   chỉ  nướng trên lửa, họ  rất ít ăn canh. Họ  ăn cơm tẻ  thường ngày, có thói quen ăn  bốc, uống nước lã, đi đâu cũng đầu trần chân đất, trẻ em mới sinh ra cho tới khi  đủ  tuổi đến trường được địu trên lưng cùng mẹ  lên rẫy lên nương, ngủ  cũng  ngủ trên lưng mẹ. Đứa trẻ  sinh ra như  một trang giấy trắng, bố  mẹ  là người đầu tiên  hình  thành cho trẻ những thói quen trong cuộc sống. Nhưng những đứa trẻ dân tộc Bru  Vân Kiều sinh ra trong một môi trường như vậy sẽ có nhiều thói quen không tốt.  Lần đầu tiên trẻ được đến trường, được tiếp xúc với nhiều người mà giáo viên                                                                                                                                                3            
  4. đa số  là người dân tộc Kinh sử  dụng ngôn ngữ  tiếng Việt, để  rèn cho các cháu  được thói quen, nề nếp tốt thì đòi hỏi một quá trình với nhiều thời gian, công sức,  nhiều kinh nghiệm cũng như  sự  chịu khó, kiên nhẫn của những người làm nhà  giáo như chúng tôi.  Bản thân tôi  được phân công phụ  trách  dạy lớp nhà  trẻ   ở  độ  tuổi 24 ­ 36  tháng, ở tuổi này trẻ còn rất bé nhưng đặc điểm sinh lý trẻ phát triển rất mạnh, vì   vậy trẻ dễ bị tổn thương về tâm lý. Do tre ch ̉ ưa tach r ́ ơi b̀ ố, me, gia đinh nên khi ̣ ̀   mơi nhâp tr ́ ̣ ương, l ̀ ơp tre se co thai đô s ́ ̉ ̃ ́ ́ ̣ ợ hai lo lăng khi phai xa bô, me, ng ̃ ́ ̉ ́ ̣ ươi thân, ̀   ̣ ứ đêu la lâm v moi th ̀ ̣ ̃ ơi tre, tre tranh ne ban, không châp nhân s ́ ̉ ̉ ́ ́ ̣ ́ ̣ ự giup đ ́ ỡ cua cac cô ̉ ́   ̉ ̀ ̉ ̣ ̣ giao, tre con la khoc, không ăn, không ngu, không tham gia vao cac hoat đông trong ́ ́ ̀ ́   lơp. Chinh vi thê tôi thây viêc cân giao duc cac chau đ ́ ́ ̀ ́ ́ ̣ ̀ ́ ̣ ́ ́ ưa cac chau vao  ́ ́ ̀ thói quen nề  nếp đê tham gia vao cac hoat đông trong ngay la môt viêc lam cân thiêt va hêt s ̉ ̀ ́ ̣ ̣ ̀ ̀ ̣ ̣ ̀ ̀ ́ ̀ ́ ưć   quan trong ̣ .  Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ  thì có bấy nhiêu sự  khác biệt cá nhân.   Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, trí lực, xu hướng, hứng   thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu của  bản thân. Khi trẻ  đến lớp, mỗi trẻ  là một cơ  thể  duy nhất, do đó trẻ  sẽ  hành động  trong một môi trường theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ  có một tâm thế  tốt khi đến lớp, một không khí tình cảm yêu thương, tôn trọng  trẻ. Điều này giúp trẻ  nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của  mình. Trẻ  độ  tuổi  24 ­ 36 tháng là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và  phát triển nhân cách của con người. Giai đoạn này cơ thể trẻ hoàn toàn còn non  nớt, rất nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ  phát triển  rất nhanh về  mọi mặt, trẻ  rất dễ tổn thương về mặt tâm lý, nhu cầu về  cảm  giác an toàn rất lớn. Do đó, muốn rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ thì ngay từ  những ngày đầu trẻ mới vào lớp cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được sự  gần gũi, sự  yêu thương của cô giáo, thấy mình được chấp nhận, được an toàn  và là thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập.          Vậy làm thế  nào để  nhanh chóng đưa trẻ  vào nền nếp thói quen ngay từ  những ngày đầu, khi mà trẻ lần đầu tiên rời xa cha mẹ để đến trường học cùng  cô, cùng bạn. Theo tôi nghi đây không phai la vân đê trăn tr ̃ ̉ ̀ ́ ̀ ở cua riêng tôi ma la ̉ ̀ ̀  ̉ ́ ̉ ́ ̀ ̣ ̣ ̀ ̉ ́ cua tât ca cac đông nghiêp day khôi nha tre noi chung. ́ ̣   Nhân th ưc đ ́ ược tâm quan ̀                                                                                                                                                 4            
  5. ̣ trong đo tôi đa suy nghi và tìm tòi nhi ́ ̃ ̃ ều biện pháp để thực hiện tốt nhiệm vụ reǹ   ̣ ề nếp, thói quen cho trẻ.  Đó là lý do tôi chọn đề tài “Một số biện pháp   luyên n ren luyên n ̀ ̣ ền  nếp, thói quen  cho tre 24 ̉  ­  36 thang ng ́ ười dân tộc Bru Vân   Kiều” làm sáng kiến kinh nghiệm trong năm học này.   Dưới góc độ  khác nhau, đề  tài giáo dục “Một số   biện pháp ren luyên n ̀ ̣ ền  nếp, thói quen cho tre 24 ­ 36 thang” đ ̉ ́ ược nhiều người, nhiều công trình nghiên   cứu. Song trong những năm qua, đề  tài “Một số  biện pháp ren luyên n ̀ ̣ ền nếp,  ̉ thói quen cho tre 24 ­ 36 thang ng ́ ười dân tộc Bru Vân Kiều” chưa có ai đi sâu   nghiên cứu, tìm hiểu. Năm học này tôi đã mạnh dạn thực hiện và mong muốn  đóng góp được một số biện pháp hữu hiệu giúp chị em đồng nghiệp có thể vận  dụng có hiệu quả tại lớp mình phụ trách.  1.2. Điểm mới, phạm vi áp dụng đề tài sáng kiến:   * Điểm mới của đề tài, sáng kiến, giải pháp:    Đối xử với trẻ bằng tình cảm yêu thương trìu mến của một người mẹ.   Để trẻ hoạt động tích cực với nhiều đồ chơi mới sáng tạo đẹp mắt. Nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày. ̣ ̉ ́ ̉ Phân nhom theo đăc điêm tâm sinh ly cua tre ́ ̉ để có biện pháp thích hợp. ̣          Ren luyên nê nêp thoi quen th ̀ ̀ ́ ́ ường xuyên trong moi hoat đông ̣ ̣ ̣  ở moi luc ̣ ́  ̣ ơi . moi n Làm tốt công tac tuyên truyên vân đông phôi  ́ ̀ ̣ ̣ ́ kết hợp vơi phu huynh ́ ̣ . Nghiên cưu tham khao ́ ̉  tài liệu tự bôi d ̀ ương nâng cao trinh đô chuyên môn ̃ ̀ ̣   ̀ ực hiên ch va th ̣ ương trinh giao duc tre  ̀ ́ ̣ ̉ 24­ 36 thang co hiêu qua ́ ́ ̣ ̉. Đề tài nhằm giải quyết tình trạng hạn chế về thói quen, nền nếp của trẻ  nhằm giúp trẻ có thói quen, nề nếp tốt trong sinh hoạt hằng ngày để trẻ vui vẻ,  khỏe mạnh và phát triển một cách toàn diện. * Phạm vi áp dụng đề tài sáng kiến:   Đề  tài “Một số  biện  pháp ren luyên n ̀ ̣ ền  nếp, thói quen cho tre 24 ­ 36 ̉   thang ng ́ ười dân tộc Bru Vân Kiều” có thể áp dụng cho giáo viên đang công tác   tại các trường học ở các xã có con em dân tộc Bru Vân Kiều sinh sống  và đây là                                                                                                                                                5            
  6. đề  tài thuộc lĩnh vực phát triển tình cảm kĩ năng xã hội cho trẻ  nhà trẻ  24­ 36   tháng. Tuy nhiên, đề tài này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất  mong quý độc giả, bạn bè đồng nghiệp và các đồng chí cán bộ  quản lý, lãnh   đạo ngành góp ý, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn. 2. PHẦN NỘI DUNG. 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu. Năm học 2019­ 2020 được sự  quan tâm của Ban Giám hiệu nhà trường,  tôi được phân công dạy lớp nhà trẻ 24­ 36 tháng, trong quá trình thực hiện đề tài   này tôi gặp những thuận lợi, khó khăn như sau:          * Thuận lợi: Ban Giám Hiệu nhà trường tích cực tham mưu với các cấp lãnh đạo để  tạo điều kiện về cơ sở vật chất, các thiết bị giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu tổ  chức các hoạt động cho trẻ. Bản thân tôi may mắn được chủ  nhiệm lớp 24­ 36 tháng số  lượng  12  cháu. Có  4 trẻ  dân tộc Kinh, chiếm tỷ  lệ  33,3%, trong đó có 2 trẻ sinh những  tháng đầu năm đã nói được tiếng Việt; có 8 trẻ dân tộc Vân Kiều chiếm tỷ  lệ  66,7% . Đây là điều kiện thuận lợi để  trẻ  dân tộc Vân Kiều có điều kiện giao  tiếp với trẻ người Kinh từ đó giúp trẻ hiểu và tập nói tiếng Việt.            Đa số  trẻ  tích cực hứng thú tham gia vào các hoạt động chăm sóc, nuôi  dưỡng, giáo dục. Đặc biệt trẻ  thích tham gia các trò chơi dân gian, thơ, hát  ...  Nhờ đó giúp trẻ nhanh chóng được hình thành, rèn luyện và phát triển ngôn ngữ,   vui chơi giao tiếp hòa nhập với nhau.              Bản thân có trình độ chuyên môn Đại học sư phạm mầm non nhờ đó kiến  thức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ; có lập trường tư  tưởng chính trị  vững   vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình trong công tác,  luôn được đồng nghiệp, phụ huynh và nhân dân tín nhiệm.               Bản thân tôi có ý thức và tích cực tự  học tập, rèn luyện và bồi dưỡng  năng lực sư phạm.          Luôn được sự hướng dẫn chỉ đạo sát sao về chuyên môn và sự quan tâm   tạo điều kiện về mọi mặt của Ban giám hiệu nhà trường.                                                                                                                                               6            
  7.          Nhà trường đã xây dựng kế hoạch và tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên kĩ  năng, kĩ xảo về rèn luyện nền nếp, thói quen cho trẻ, từ đầu năm đến nay đã tổ  chức nhiều tiết dạy thao giảng về  lĩnh vực “Phát triển tình cảm­ kĩ năng xã  hội”.          Bản thân tôi trải qua hơn 10 năm công tác, đã có chứng chỉ tiếng Bru­Vân  Kiều, trực tiếp chăm sóc­ giáo dục nhiều độ tuổi khác nhau có nhiều trẻ em dân  tộc Bru­Vân Kiều nên đã học tập và tích lũy được một số ngôn ngữ của người   dân nơi đây đồng thời nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý và những điều kiện thuận   lợi và khó khăn của trẻ nơi vùng cao hẻo lánh này.          Mặc dù, có nhiều thuận lợi song tôi vẫn gặp nhiều khó khăn sau đây.  * Khó khăn: Trường thuộc vùng đặc biệt khó khăn của huyện Lệ  Thủy, địa hình phức  tạp, giao thông cách trở, đường sá đi lại khó khăn vừa xa xôi vừa vượt qua  nhiều sông suối, dốc đèo nguy hiểm.    Là  lớp có lứa tuổi nhỏ  nhất trường, trẻ  đi  học lần đầu chưa có ý thức,  vẫn giữ thói quen thích gì được nấy như ở nhà, không có nề nếp, thói quen nào  trong mọi hoạt động.        Ví dụ: Trong giờ ăn trẻ chưa có nền nếp, còn có nhiều thói quen xấu như:  Ăn còn rơi vãi nhiều, bốc thức ăn, gõ bát, uống nước canh hay còn ngậm cơm,  kén chọn thức ăn... Một số  trẻ  trong lớp chưa nói được, một số  trẻ  hay bị   ốm vặt nên việc  rèn luyện cháu có nền nếp, thói quen vô cùng phức tạp. Với đặc điểm sinh lý của lứa tuổi  ở giai đoạn phát triển lời nói do đó khả  năng giao tiếp về  ngôn ngữ  của trẻ  gặp rất nhiều khó khăn, cô giáo còn chưa  hiều nhu cầu trẻ đang muốn gì?        Trẻ đang sống trong môi trường gia đình, được ông bà, bố  mẹ yêu thương  chăm sóc. Khi đến trường là nơi hoàn toàn mới mẻ xa lạ với trẻ, do đó trẻ chưa  quen với nền nếp, thói quen của lớp, trẻ  khóc nhiều vì vậy mà giáo viên mất  nhiều thời gian để  dỗ dành trẻ. Hơn thế nữa vì là lớp các cháu nhỏ, cháu đông  nên các  hoạt động để rèn trẻ vào nề nếp càng trở nên khó khăn hơn và cần mất  nhiều thời gian hơn. Một số  phụ  huynh nhận thức chưa đồng đều cho là lứa tuổi bé việc rèn  nề nếp cho trẻ chưa quan trọng nên ở nhà các cháu được nuông chiều thái quá                                                                                                                                                7            
  8. muốn gì được nấy, nhiều phụ  huynh cho con nghỉ học bừa bãi khiến việc rèn   trẻ lại càng khó khăn hơn; và điều đó khiến trẻ trở nên ì ạch, ỉ  lại,  lười hoạt   động. Khi đến lớp trẻ mang theo thói quen ở nhà nên không có tổ chức kỷ luật,  nhiều trẻ  đi lại lung tung, đến lớp không chào hỏi ai mặc dù đã được cha mẹ  và cô giáo nhắc nhở. Mỗi sáng đến lớp  trẻ  luôn mang theo  nhiều  quà bánh,  ngoài việc khiến trẻ   biếng ăn, ăn không hết suất còn khiến cho lớp học mất   vệ  sinh vì trẻ xả  rác bừa bãi. Đa phần các cháu chưa biết đi vệ sinh đúng nơi  quy định, đại tiện, tiểu tiện trong quần, … . Đến giờ  ăn cũng vậy, bên cạnh  nhiều trẻ  chưa biết xúc ăn khiến các cô rất vất vả  lại có những cháu xúc ăn  bừa bãi, đùa nghịch trong giờ ăn làm cho lớp học náo loạn…  Trong sinh hoạt gia  đình, cộng đồng người dân  ở  đây thường sử  dụng  Tiếng mẹ đẻ rất tự nhiên và bản năng nên khi đến trường trẻ chủ yếu hiểu và  sử  dụng tiếng địa phương, trẻ  hầu như  không hiểu tiếng Việt tạo ra một rào   cản khó khăn rất lớn cho cô và trẻ. Mặt khác, do điều kiện kinh tế  còn rất khó khăn,  đa số  phụ  huynh chưa  tiếp xúc được với sự  phát triển của văn hóa ­ xã hội bên ngoài nên nhận thức  của họ  còn rất nhiều hạn chế, họ mặc cảm với “Cái nghèo”, cảm thấy tự  ti,  mặc cảm, chấp nhận cuộc sống hiện tại;  do đó họ ít quan tâm, không chú trọng  tới việc học tập và chăm sóc nuôi dạy các cháu.  Các cháu ít có cơ  hội để  tiếp xúc với xã hội đang náo nhiệt bên ngoài   nên khi những cái gì đó còn xa lạ  với trẻ  xuất hiện thì sự  lo sợ, rụt rè luôn   thường trực trong các cháu. Việc giao tiếp của các cháu ngoài học trên lớp, về  nhà không được người thân quan tâm hướng dẫn nên dù đi đâu, tiếp xúc với ai  trẻ cũng rụt rè, sợ hãi. Việc giúp trẻ  rèn luyện thói quen, nền nếp tốt nhờ  đến sự  tận tâm của  đội ngũ nhà giáo, song giáo viên lại là người từ các nơi xa xôi đến, tiếp xúc với   trẻ chỉ có trên lớp nên thời gian còn hạn chế. Giáo viên ít có thời gian để  tiếp cận với phụ  huynh; gia đình các cháu  ở  xa, bố mẹ ít đưa đón trẻ đến trường nên khó tiếp xúc, gần gũi để cùng tháo gỡ  những khó khăn đang mắc phải. Rèn luyện nền nếp, thói quen tốt cho trẻ 24­ 36 tháng người dân tộc Bru  Vân Kiều không chỉ  là trách nhiệm của người giáo viên, mà còn là người lớn,  những người xung quanh trẻ,  nhưng  thực tế  người dân  ở  tại địa phương  khi                                                                                                                                                8            
  9. đang còn thiếu đói phải lo chạy từng bữa ăn còn chưa đủ  no thì việc quan tâm  đến con cái có lẽ là rất ít. * Điều tra thực tiễn: Cụ thể vào đầu năm học khảo sát về nền nếp, thói quen của trẻ của lớp  tôi tình hình thực tế kết quả như sau: Kết quả TS K- G TB Y TT Nội dung trẻ/ Tỷ lệ  Tỷ lệ  Tỷ lệ SL SL SL lớp % % % Trẻ   thích   và   đi   học  1 12 2 16,7% 3 25% 7 58,3% chuyên cần Trẻ   có   thói   quen   nền  2 12 2 16,7% 2 16,7% 8 66,6% nếp chào hỏi.   Trẻ   có   thói   quen   ăn  đúng bữa, biết ăn sạch  3 12 2 16,7% 2 16,7% 8 66,6% sẽ,   cất   bát   đúng   chỗ  quy định  Trẻ ngủ nền nếp, biết  4 12 2 16,7% 3 25% 7 58,3% lấy và cất gối giúp cô Trẻ   có   thói   quen   nền  5 12 2 16,7% 3 25% 7 58,3% nếp  trong vui chơi Trẻ   có   thói   quen   vệ  6 12 2 16,7% 3 25% 7 58,3% sinh sạch sẽ           Từ  những thuận lợi, khó khăn trên đây và từ  những kết quả  điều tra thực   tiễn với vai trò trách nhiệm của người giáo viên bản thân tôi suy nghĩ và tìm ra  một số  giải pháp nhằm ren luyên n ̀ ̣ ền nếp, thói quen tốt cho tre 24  ̉ ­ 36 thang ́   người dân tộc Bru Vân Kiều. Sau đây là một số giải pháp cơ bản: 2.2. Các giải pháp: Giải pháp 1: Đối xử  với trẻ  bằng tình cảm yêu thương trìu mến của   một người mẹ. Trẻ   ở  độ  tuổi 24 ­ 36 tháng trẻ  bắt đầu được đ ến  lớp, trẻ  bắt đầu rời  khỏi bàn tay ấp ủ yêu thương của cha mẹ, ông bà để đến chỗ mà với trẻ tất cả                                                                                                                                                9            
  10. đều lạ lẫm và mới mẻ: Trường mới, cô mới, bạn mới vì thế các cháu mang đến  trường, đến lớp một tâm trạng vừa bỡ ngỡ lạ lẫm vừa lưu luyến nhớ gia đình,  thậm chí có cháu còn sợ  hãi khóc lóc... Vì  ở  độ  tuổi này trẻ  còn rất bé, sống   nhiều về tình cảm nên rất cần sự âu yếm, nhẹ nhàng của cô nhất là những ngày  đầu trẻ  mới nhập lớp, cô phải làm sao để  trẻ  có thể  cảm nhận được nguồn   hạnh phúc, được an toàn, được quan tâm và được yêu mến có thể  được coi là  một thành viên trong cộng đồng mà trẻ  đang hoà nhập. Cô yêu thương trẻ  để  tạo được sự  thân thiện từ  trẻ. Cô thường xuyên trò chuyện, hỏi han trẻ, quan   tâm đến mọi hành động, suy nghĩ của trẻ để nắm bắt tâm sinh lý trẻ từ đó cô có  thể  hiểu được trẻ  hơn. Tình cảm của cô đối với trẻ  giàu cảm xúc thân thiết,   yêu thương như  quan hệ  mẹ  con, biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ  tạo nên  không khí cởi mở, quên mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ. Khi   trẻ có cảm tình, có hứng thú cô có thể sử dụng nghệ thuật của mình để  thu hút   lôi cuốn trẻ vào các hoạt động một cách dễ dàng.  Bằng tình cảm chân thành của cô giáo sẽ giúp cho trẻ thực sự yêu mến cô   hơn, yêu mến các bạn trong lớp, trẻ sẽ cảm thấy thích đi học, nhớ cô, nhớ bạn,  nhớ  lớp. Hãy luôn gần gũi với trẻ  và hiểu trẻ  đang cần gì, đang muốn gì, hãy  tạo cho trẻ cơ hội được học và chơi một cách thực sự. Từ đó cô mới có thể dễ  dàng rèn luyện nề nếp cho trẻ, tạo cho trẻ những thói quen tốt trong sinh hoạt. Ví dụ:  Những ngày đầu khi đón trẻ vào lớp, trẻ còn bỡ ngỡ, sợ hãi và khóc  lóc, gào thét, cô có thể đến bên bế trẻ âu yếm rồi trò chuyện dỗ dành, cô đưa trẻ  đến gần các bức tranh hỏi trẻ về nội dung bức tranh để trẻ quên đi nỗi nhớ nhà,  nhớ cha mẹ như: Bức tranh này vẽ gì? Con thấy bạn nhỏ trong bức tranh đang làm  gì? Con thấy bạn có vui không? Con thấy không bạn được đến lớp được vui chơi   múa hát bạn cười xinh thế kia mà…..Thông qua nội dung các bức tranh, với lời  dẫn nhẹ nhàng đầy tình cảm cô đã kích thích lòng ham muốn của trẻ được đến   lớp, được vui chơi, được múa hát, được có nhiều đồ  chơi mới và có nhiều bạn   mới. Thông qua các hoạt động trên lớp, bằng tình cảm chân thành cô sẽ  chiếm   được trái tim của trẻ trong từng bữa ăn, từng giấc ngủ, trẻ  sẽ  được rèn luyện  để có những thói quen tốt, cứ như vậy trẻ sẽ thực sự yêu mến cô giáo, yêu quý  các bạn và yêu mến lớp, tình cảm thân mật giữa cô và các bạn ngày càng gắn bó   và gần gũi hơn.                                                                                                                                                10          
  11. Giải pháp  2:  Để  trẻ  hoạt động tích cực với nhiều đồ  chơi mới sáng   tạo. Giai đoạn trẻ 24 ­ 36 tháng, hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động với đồ  vật, trẻ  học mà chơi, chơi mà học. Vì vậy muốn đưa chất lượng của việc rèn  luyện nề nếp thói quen cho trẻ tốt hơn giáo viên cần  không ngừng và tích cực  sưu tầm, làm và sử  dụng đồ  dùng đồ  chơi sao cho đẹp, sáng tạo, hấp dẫn,  nhưng phải đảm bảo an toàn, sử  dụng hợp lý và phù hợp với nội dung với độ  tuổi của trẻ để thu hút trẻ vào mọi hoạt động một cách thoải mái và tự tin hơn.  Đồng thời tận dụng các khoảng không gian và vị  trí trong và ngoài lớp học để  trang trí các đồ chơi tự tạo do cô và trẻ làm được để trẻ nhìn ngắm hoặc trang   trí lớp, qua đó khơi gợi niềm vui thích thú của trẻ khi đến lớp. Hãy để trẻ hoạt  động một cách tích cực, ngoài việc cung cấp cho trẻ  số  đồ  chơi cần và đủ, cô   giáo cần sáng tạo thêm các góc mở để cô và trẻ cùng hòa nhập, cùng suy nghĩ và  sáng tạo thêm nhiều đồ  chơi mới, kích thích vào các giác quan khiến trẻ  chủ  động và tự tin hơn khi đến lớp.  Ví dụ :   Cháu mới nhập lớp đang còn khóc vì nhớ bố mẹ, ông bà, giáo viên   hãy đưa trẻ đến các góc chơi, giới thiệu và trò chuyện với trẻ  về  đặc điểm và  tác dụng các loại đồ  dùng, đồ chơi trong lớp. Cô giáo có thể cùng trẻ gấp máy  bay, gấp tàu và làm những dây xích nhiều màu sắc, điều này sẽ  đem lại niềm   vui trẻ  được sáng tạo và sử  dụng những sản phẩm tự  tay bé làm, và sau đó là   những bài học quí báu về  sự  quan tâm chia sẻ, tinh thần hợp tác và biết nghĩ  đến người khác. Từ việc chú trọng đến đồ dùng, đồ  chơi trang bị cho trẻ hoạt động trong  ngày giúp trẻ hứng thú hơn, tăng phần tích hợp, tạo cho trẻ có giờ hoạt động tự  tin và sinh động hơn, đó là yếu tố góp phần quyết định chất lượng và khả năng  hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn. Giải pháp 3: Nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày. Trẻ giai đoạn 24 ­36 tháng tuổi với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ phát triển   mạnh, trẻ hay tò mò và thích bắt chước, giáo viên phải luôn tôn trọng trẻ và hết  sức công bằng, sử  dụng khen, chê đúng mực. Khen và chê có tác dụng mạnh  đến  hành vi vâng lời của trẻ, nhưng không nên khen quá đáng mà chê trách chung  chung khiến trẻ mất lòng tự ái.                                                                                                                                               11          
  12.       Ví dụ: Cô khen những trẻ  đi học ngoan, đúng giờ, mặc quần áo, đầu tóc   gọn gàng, sạch đẹp, biết chào cô khi đến lớp. Thông qua các bài hát, bài thơ, câu   chuyện và mọi lúc mọi nơi, cũng có thể  giúp trẻ  có thói quen nền nếp tốt hơn  hoặc cô không nên chê trẻ trước tập thể  lớp mà nên gần gũi để  góp ý nhỏ  với  trẻ về một số nề nếp chưa tốt hay trong lớp còn một vài cháu hay nhõng nhẽo  không nghe lời cô do sự nuông chiều của ông bà, bố mẹ. Vào ngày cuối tuần cô   giáo sẽ  tuyên dương trước lớp các bạn ngoan, không khóc nhè, các bạn có ý   thức tốt biết giữ  gìn vệ  sinh thân thể, biết cất đồ  chơi vào đúng nơi qui định;  đồng thời động viên những trẻ  còn khóc chưa hòa nhập với lớp tuần sau cố  gắng hơn. Từ  sự giúp đỡ của cô giáo mà tính nhõng nhẽo của trẻ mất dần. Do   được cô tạo điều kiện giúp đỡ, do được rèn luyện mà trẻ đã thực sự  hoà nhập   vào nền nếp, khuôn khổ của tập thể lớp một cách thoải mái, dễ dàng và tự tin. Giải pháp 4: Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp thích   hợp Ngoài việc thực hiện chương trình chăm sóc ­ giáo dục trẻ là vấn đề trọng  tâm, giáo viên cần tiến hành tổ chức để đưa các cháu đi vào nền nếp thói quen ở  mọi lúc, mọi nơi. Vì thế  mọi hoạt động trong ngày của trẻ  cô giáo đều phải  nghiên cứu, lập ra chương trình kế  hoạch bồi dưỡng đối tượng theo sự  phân  nhóm và sắp xếp chỗ ngồi cho từng cháu một cách hợp lý: + Nhóm trẻ nhút nhát ngồi cạnh tốp trẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn. + Nhóm trẻ khá ngồi cạnh tốp trẻ trung bình. + Nhóm trẻ  hiếu động, cá biệt hay nói chuyện ngồi cạnh tốp trẻ  ngoan,  ngồi cạnh cô giáo để dễ quan sát và tiện cho việc điều hành trẻ tốt hơn. Cô động viên khích lệ sự tiến bộ đối với những trẻ hiếu động, cá biệt khi  thấy trẻ ngoan hơn. Đặc biệt phải thường xuyên uốn nắn và tập cho trẻ cách đi,  đứng, xưng hô, cách trả  lời cô khi cần thiết... bằng những hình thức trên giáo  viên sẽ dần ổn định đưa trẻ vào nề nếp thói quen trong mọi hoạt động, ở  mọi   lúc mọi nơi. Đồng thời làm nảy sinh sự  say mê hứng thú trong việc rèn luyện  về nề nếp thói quen cho trẻ đạt kết quả cao hơn. Giải pháp  5:   Rèn luyện nền  nếp thói quen thường xuyên trong mọi   hoạt động, mọi lúc mọi nơi Mỗi ngày đến lớp trẻ  đều đượ c tham gia với các nội dung hoạt động:  giờ  ăn, giờ  ngủ, vệ  sinh, học t ập, vui ch ơi, gi ờ đón, giờ  trả... mọi sinh hoạt                                                                                                                                                 12          
  13. đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này để đưa các   cháu vào nề  nếp thói quen đâu phải là chuyện dễ  và đơn giản. Thực tế  các  cháu còn rất bé, chưa có ý thức được như các anh chị lớn, điều này cũng là một  thử  thách cho cô giáo. Muốn tạo cho trẻ  có được thói quen thường xuyên cô  phải luôn nhẹ  nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ  để  uốn nắn trẻ  hoặc thông  qua bài hát, bài thơ, câu chuyện, các trò chơi có nội dung nói về  nề  nếp thói  quen, cô cũng có thể  sử  dụng để  trẻ  phần nào liên hệ  tới bản thân  mà ngoan  hơn và biết vâng lời cô giáo. Nhờ  sự  tạo điều kiện giúp đỡ  của cô trẻ  đượ c  uốn nắn kịp thời thường xuyên, liên tục do đó việc rèn luyện nề  nếp thói   quen của trẻ  trong mọi ho ạt động mọi lúc, mọi nơi mang lại hiệu qu ả  cao   hơn, các cháu ngoan và nề nếp hơn. Trong giờ h oạt động có chủ đích cô giáo  kết hợp giáo dục rèn luyện vệ  sinh thân thể, giáo dục ý thức sử  dụng đồ  dùng đồ  chơi… Trong giờ trả trẻ cô có thể  kết hợp với phụ  huynh nhắc nhở  trẻ  ăn và ngủ  đúng giờ, không ăn quà vặt hay phải đi học đều thì sẽ  đượ c   thưở ng bé ngoan…. Ví dụ:  Giáo viên có thể rèn luyện cho trẻ  thói quen biết chào hỏi thông  qua các bài hát như: Bé ngoan, lời chào buổi sáng, mẹ  yêu không nào. Các bài  thơ, câu chuyện: Lời chào, miệng xinh, cháu chào ông ạ! ­ Qua bài thơ, bài hát rèn cho trẻ thói quen khi chơi xong biết cất dọn đồ  chơi và để đúng nơi qui định như: Bài thơ “Cất đồ chơi”. ­ Để rèn cho trẻ có thói quen tốt và ăn ngủ  đúng giờ, giáo viên có thể  sử  dụng các bài thơ  “Giờ  ăn” hay bài thơ: “ Giờ  ngủ” và bài hát “ Chúc bé ngủ  ngon”. ­ Rèn thói quen vệ  sinh cho trẻ  qua các bài thơ  “ Khăn nhỏ” và bài thơ  “Rửa tay sạch”. Giải pháp  6: Làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp   với phụ huynh. Ngoài góc trao đổi với phụ huynh, hàng tháng cô giáo còn có trách nhiệm  trực tiếp trao đổi với phụ huynh bằng nhiều hình thức: + Qua giờ đón trả trẻ. + Trong các cuộc họp cha mẹ học sinh. Với trách nhiệm của một cô giáo mầm non, người mẹ thứ hai của trẻ, cô   giáo cần thường xuyên theo dõi và nắm tình hình mọi tính cách của trẻ   ở  mọi                                                                                                                                                13          
  14. hoạt động trong ngày, tìm nguyên nhân để  có biện pháp thích hợp kịp thời uốn   nắn trẻ. Đồng thời trao đổi với cha mẹ trẻ để bồi dưỡng thêm cho trẻ khi ở gia   đình. Giúp việc rèn luyện thói quen nền  nếp của trẻ  theo khoa học và đi đến  thống nhất trong việc chăm sóc ­ giáo dục trẻ. Ví dụ: Giáo viên động viên và khuyến khích phụ huynh cùng kết hợp với  cô trong việc tập luyện cho trẻ trong từng bữa ăn, giấc ngủ để trẻ ăn đúng bữa  và ngủ đúng giờ, nhắc nhở phụ huynh hãy tập cho con mình thói quen vệ  sinh,   thói quen tự phục vụ bản thân hay thói quen giữ  gìn vệ sinh chung, vứt rác vào  đúng nơi quy định. Khi gia đình và nhà trường cùng phối hợp với nhau trong   việc rèn luyện cho trẻ  điều đó sẽ  khiến cho việc giáo dục đạt hiệu quả  cao   hơn. Gần gũi, quan tâm đến tâm tư nguyện của cha mẹ trẻ, tìm mọi cơ hội để  chia sẻ, hợp tác với phụ huynh trong rèn luyện nền nếp, thói quen cho trẻ đồng  thời đây cũng là cơ  hội cho chúng ta học tiếng Bru Vân Kiều từ  họ  để  giúp  chúng ta dễ dàng hiểu và chăm sóc ­ giáo dục trẻ tốt hơn.     Giải pháp 7: Nghiên cưu tham khao tài li ́ ̉ ệu tự bôi d ̀ ương nâng cao trinh ̃ ̀   đô chuyên môn va th ̣ ̀ ực hiên ch ̣ ương trinh giao duc tre 24­ 36 thang co hiêu qua. ̀ ́ ̣ ̉ ́ ́ ̣ ̉ Muốn đưa chất lượng về  việc rèn luyện nền  nếp, thói quen cho trẻ  đạt  hiệu quả  cao, xuất phát từ  tình hình thực tế, dựa vào đặc điểm sinh lý của trẻ  để  đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo những tài liệu có nội dung về  đề  tài,  học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, của bản thân, nhận thức đúng đắn, hiểu   được tầm quan trọng của vấn đề, nắm vững tình hình cụ  thể  của lớp, của trẻ.   Tích cực tham khảo qua tài liệu, sách báo, internet, tạp chí giáo dục mầm non , cần chịu khó kiên trì và sáng tạo trong từng bài dạy, từng tiết học và sáng tạo   trong việc làm nhiều đồ dùng đồ chơi cho trẻ… Xác định rõ những khó khăn và  điều kiện thuận lợi của nhà trường, của lớp, của bản thân.  Xây dựng kế  hoạch giáo dục phải bám sát mục tiêu, lựa chọn nội dung   phù hợp với điều kiện thực tế của trường lớp, của địa phương để  có phương  pháp chăm sóc giáo dục phù hợp nhằm thực hiện chương trình giáo dục 24­ 36   tháng một cách hiệu quả. Tự  nghiên cứu tài liệu, sách báo, tìm hiểu cuộc sống cũng như  ngôn ngữ  tiếng Bru Vân Kiều của người dân bản địa để có thể giao tiếp với chính quyền  địa phương, với phụ  huynh và quan trọng nhất là giao tiếp với trẻ, để  hiểu   được mong muốn, nhu cầu của trẻ  hằng ngày. Đó là sợi dây liên kết gần gũi                                                                                                                                                14          
  15. nhất để  mối quan hệ  giữa cô và trẻ  xích lại gần nhau, không còn một rào cản  nào nữa. * Kết quả đạt được: * Đối với giáo viên: ­ Giáo viên nắm được sự phát triển tâm sinh lý của trẻ. ­ Giáo viên biết áp dụng được những kiến thức, kĩ năng vào thực tế  lớp  mình phụ trách. ­ Giáo viên nâng cao kiến thức, kĩ năng khi lên lớp. * Đối với trẻ: ­ Trẻ có nền nếp, thói quen tốt. ­ Trẻ mạnh dạn tự tin khi giao tiếp  ứng xử với những người xung quanh,   khi tham gia các hoạt động. ­ Trẻ nắm được các kiến thức kĩ năng trong mọi hoạt động. ­ Trẻ khỏe mạnh, phát triển hài hòa về thể chất lẫn tinh thần. ­ Chất lượng nền nếp, thói quen tốt tăng rõ nét so với đầu năm. Cụ thể bảng kết quả khảo sát cuối năm học đạt như sau:                             Kết quả TS K- G TB Y TT Nội dung trẻ/ Tỷ lệ  Tỷ lệ  Tỷ lệ SL SL SL lớp % % % Trẻ thích và đi học  1 12 9 75% 2 16,7% 1 08,3% chuyên cần Trẻ   có   thói   quen  2 12 8 66,7% 3 25% 1 08,3% nền nếp chào hỏi.   Trẻ   có   thói   quen  ăn   đúng   bữa,   biết  3 ăn sạch sẽ, cất bát  12 8 66,7% 3 25% 1 08,3% đúng chỗ quy định                                                                                                                                               15          
  16.  Trẻ  ngủ  nền nếp,  4 biết lấy và cất gối  12 10 83,3% 2 16,7% 0 0% giúp cô Trẻ   có   thói   quen  5 nền  nếp   trong vui  12 9 75% 2 16,7% 1 08,3% chơi Trẻ   có   thói   quen  6 12 8 66,7% 3 25% 1 08,3% vệ sinh sạch sẽ Nhờ  áp dụng “Một số giải pháp rèn luyện nền nếp, thói quen tốt cho trẻ  24­ 36 tháng người dân tộc Bru Vân Kiều” bằng sự giúp đỡ  của Ban giám hiệu  nhà trường cùng chị  em đồng nghiệp và sự  nỗ  lực phấn đấu không ngừng của  bản thân, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm sau:  Giáo viên cần có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, chấp hành tốt  chủ trương đường lối của Đảng; có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh  giản dị, yêu nghề, mến trẻ, đối xử  công bằng với trẻ, có trình độ  chuyên môn  nghiệp vụ  vững vàng, có ý thức học hỏi chị  em đồng nghiệp để  vươn lên về  mọi mặt. Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, nắm vững nội dung chương   trình giáo dục trong đó có các nội dung về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ  để  xây dựng kế  hoạch chăm sóc giáo dục trẻ  và các biện pháp giáo dục phù  hợp. Lựa chọn nội dung phù hợp với mục tiêu, yêu cầu giáo dục, phù hợp với  đặc điểm nhận thức và khả  năng của trẻ. Khuyến khích sự  hứng thú, tích cực   tham gia vào các hoạt động chăm sóc, giáo dục. Hoạt động phát triển tình cảm  và kĩ năng xã hội, hoạt động giao lưu, tham quan.   Khi   tổ   chức   các   hoạt   động   cho   trẻ   giáo   viên   cần   nghiên   cứu   kỹ   các  phương tiện, điều kiện, chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng cần thiết phù hợp để tiến  hành các hoạt động đạt kết quả cao. Rèn luyện nền nếp cho trẻ  ở mọi lúc mọi nơi, đặc biệt quan tâm đến trẻ  chậm, trẻ cá biệt, không phân biệt giữa các trẻ.                                                                                                                                               16          
  17. Có sự phối hợp chặt chặt chẽ giữa các giáo viên trong lớp, giáo viên trong  cụm, trong tổ với phụ huynh và những người thân trong gia đình trẻ. 3. PHẦN KẾT LUẬN. 3.1. Ý nghĩa của đề tài, sáng kiến, giải pháp: Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. Sinh thời Chủ  tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho các cháu thiếu nhi tình thương yêu và quan tâm   đặc biệt. Với Bác, trẻ em là những mầm non, những người chủ tương lai của đất  nước.  Thấm nhầm lời dạy của Người, giáo viên mầm non phải ra sức thi đua  dạy tốt, học tốt, đem hết sức lực, tâm huyết, trí tuệ của mình cống hiến cho sự  nghiệp “Trồng người” của đất nước.          “Rèn luyện nền nếp, thói quen tốt cho trẻ 24­ 36 tháng người dân tộc Bru  Vân Kiều” chỉ  là một trong những nhiệm vụ  của người giáo viên phải làm,  nhưng cũng là sự quan tâm mà chúng ta đang hướng đến cộng đồng ở miền núi  xa xôi, hẻo lánh nơi đó có những mầm non đang cần chúng ta quan tâm, những  mầm non tương lai của đất nước, là góp phần thực hiện lời dạy của Người. Việc rèn luyện nền nếp, thói quen tốt cho trẻ 24­ 36 tháng người dân tộc  Bru Vân Kiều có ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhằm hình thành và phát triển toàn  diện về thể chất, nhận thức, tình cảm và quan hệ xã hội.        3.2. Những kiến nghị, đề xuất:        * Đối với ban giám hiệu nhà trường: Tạo điều kiện để bản thân tôi được  học tập thêm chị  em đồng nghiệp, được giao lưu và đúc rút được nhiều kinh   nghiệm góp phần nâng cao năng lực sư phạm và nâng cao hơn nữa chất lượng  chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Trên đây là “Một số giải pháp rèn luyện nền nếp, thói quen tốt cho trẻ 24­   36 tháng người dân tộc Bru Vân Kiều” của bản thân tôi. Tuy nhiên trong quá  trình triển khai thực hiện không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong Hội  đồng khoa học các cấp bổ sung, góp ý để đề tài của tôi được hoàn thiện, được   áp dụng có hiệu quả  trong nhà trường  và còn áp dụng cho tất cả  các trường  mầm non vùng khó khăn trong toàn huyện và toàn tỉnh./.                                                                       Kim Thủy, tháng 5 năm 2020                                                                                                                                               17          
  18.             Người viết Phạm Thị Thùy Linh                                                                                                                                                 18          
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2