Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn luyện nền nếp, thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng người dân tộc Bru Vân Kiều
lượt xem 4
download
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non được hoàn thành với một số biện pháp như: Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động ở mọi lúc mọi nơi. Làm tốt công tác tuyên truyền vận động phối kết hợp với phụ huynh. Nghiên cứu tham khảo tài liệu tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và thực hiện chương trình giáo dục trẻ 24- 36 tháng có hiệu quả.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn luyện nền nếp, thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng người dân tộc Bru Vân Kiều
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập Tự do Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN NỀN NẾP, THÓI QUEN CHO TRẺ 24 36 THÁNG NGƯỜI DÂN TỘC BRU VÂN KIỀU” Quảng Bình, tháng 4 năm 2020. 1
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập Tự do Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN NỀN NẾP, THÓI QUEN CHO TRẺ 24 36 THÁNG NGƯỜI DÂN TỘC BRU VÂN KIỀU” Họ và tên: Phạm Thị Thùy Linh Chức vụ: Giáo viên Tổ trưởng chuyên môn Đơn vị công tác: Trường mầm non Kim Thủy 2
- I. PHẦN MỞ ĐẦU. 1.1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến, giải pháp: Bác Hồ chúng ta thường nói “Trẻ em như búp trên cành”: trẻ em như một cây non, cây non được sự chăm sóc tận tình của người lớn thì cây sẽ lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này trẻ thành người tốt, trẻ em là tương lai của đất nước, của dân tộc. Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng công tác chăm sóc giáo dục trẻ em. Chính vì vậy ngành học mầm non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc giáo dục trẻ, mà người giáo viên mầm non chính là người đặt nền tảng để ươm mầm tương lai cho đất nước sau này. Đến trường mầm non là lần đầu tiên trong đời trẻ xa bố mẹ, bước vào một môi trường hoàn toàn mới mẻ, cô giáo là người đầu tiên trẻ tiếp xúc và n hững cảm giác về trường học, về cô giáo, về bạn bè, giai đoạn này rất quan trọng vì đó là ấn tượng ban đầu rất sâu sắc đối với trẻ. Trường mầm non chính là ngôi nhà thứ hai của trẻ mà ở đó mỗi nhà giáo dục, mỗi một cô giáo chính là người mẹ thứ hai của trẻ, và cũng là người phải có nhiệm vụ rèn luện, giáo dục để bước đầu hình thành cho các cháu có một đức tính tốt thì sau này lớn lên sẽ trở thành một người công dân tốt. Là một giáo viên mầm non có bề dày kinh nghiệm hơn 10 năm công tác ở miền núi vùng sâu vùng xa, người dân phần đông là dân tộc Vân Kiều, bản thân tôi đã thấm nhuần được nỗi cơ cực, vất vả của cộng đồng dân cư nơi đây. Quanh năm ít có cơ hội giao lưu tiếp xúc hòa nhập cộng đồng và chỉ sử dụng ngôn ngữ Bru Vân Kiều. Mọi sinh hoạt hằng ngày cũng theo phong tục tập qu án riêng mình. Người BruVân Kiều thích các món nướng, cá hoặc ếch nhái thì chỉ nướng trên lửa, họ rất ít ăn canh. Họ ăn cơm tẻ thường ngày, có thói quen ăn bốc, uống nước lã, đi đâu cũng đầu trần chân đất, trẻ em mới sinh ra cho tới khi đủ tuổi đến trường được địu trên lưng cùng mẹ lên rẫy lên nương, ngủ cũng ngủ trên lưng mẹ. Đứa trẻ sinh ra như một trang giấy trắng, bố mẹ là người đầu tiên hình thành cho trẻ những thói quen trong cuộc sống. Nhưng những đứa trẻ dân tộc Bru Vân Kiều sinh ra trong một môi trường như vậy sẽ có nhiều thói quen không tốt. Lần đầu tiên trẻ được đến trường, được tiếp xúc với nhiều người mà giáo viên 3
- đa số là người dân tộc Kinh sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, để rèn cho các cháu được thói quen, nề nếp tốt thì đòi hỏi một quá trình với nhiều thời gian, công sức, nhiều kinh nghiệm cũng như sự chịu khó, kiên nhẫn của những người làm nhà giáo như chúng tôi. Bản thân tôi được phân công phụ trách dạy lớp nhà trẻ ở độ tuổi 24 36 tháng, ở tuổi này trẻ còn rất bé nhưng đặc điểm sinh lý trẻ phát triển rất mạnh, vì vậy trẻ dễ bị tổn thương về tâm lý. Do tre ch ̉ ưa tach r ́ ơi b̀ ố, me, gia đinh nên khi ̣ ̀ mơi nhâp tr ́ ̣ ương, l ̀ ơp tre se co thai đô s ́ ̉ ̃ ́ ́ ̣ ợ hai lo lăng khi phai xa bô, me, ng ̃ ́ ̉ ́ ̣ ươi thân, ̀ ̣ ứ đêu la lâm v moi th ̀ ̣ ̃ ơi tre, tre tranh ne ban, không châp nhân s ́ ̉ ̉ ́ ́ ̣ ́ ̣ ự giup đ ́ ỡ cua cac cô ̉ ́ ̉ ̀ ̉ ̣ ̣ giao, tre con la khoc, không ăn, không ngu, không tham gia vao cac hoat đông trong ́ ́ ̀ ́ lơp. Chinh vi thê tôi thây viêc cân giao duc cac chau đ ́ ́ ̀ ́ ́ ̣ ̀ ́ ̣ ́ ́ ưa cac chau vao ́ ́ ̀ thói quen nề nếp đê tham gia vao cac hoat đông trong ngay la môt viêc lam cân thiêt va hêt s ̉ ̀ ́ ̣ ̣ ̀ ̀ ̣ ̣ ̀ ̀ ́ ̀ ́ ưć quan trong ̣ . Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân. Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, trí lực, xu hướng, hứng thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu của bản thân. Khi trẻ đến lớp, mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một môi trường theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ có một tâm thế tốt khi đến lớp, một không khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình. Trẻ độ tuổi 24 36 tháng là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và phát triển nhân cách của con người. Giai đoạn này cơ thể trẻ hoàn toàn còn non nớt, rất nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt, trẻ rất dễ tổn thương về mặt tâm lý, nhu cầu về cảm giác an toàn rất lớn. Do đó, muốn rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ thì ngay từ những ngày đầu trẻ mới vào lớp cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được sự gần gũi, sự yêu thương của cô giáo, thấy mình được chấp nhận, được an toàn và là thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Vậy làm thế nào để nhanh chóng đưa trẻ vào nền nếp thói quen ngay từ những ngày đầu, khi mà trẻ lần đầu tiên rời xa cha mẹ để đến trường học cùng cô, cùng bạn. Theo tôi nghi đây không phai la vân đê trăn tr ̃ ̉ ̀ ́ ̀ ở cua riêng tôi ma la ̉ ̀ ̀ ̉ ́ ̉ ́ ̀ ̣ ̣ ̀ ̉ ́ cua tât ca cac đông nghiêp day khôi nha tre noi chung. ́ ̣ Nhân th ưc đ ́ ược tâm quan ̀ 4
- ̣ trong đo tôi đa suy nghi và tìm tòi nhi ́ ̃ ̃ ều biện pháp để thực hiện tốt nhiệm vụ reǹ ̣ ề nếp, thói quen cho trẻ. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Một số biện pháp luyên n ren luyên n ̀ ̣ ền nếp, thói quen cho tre 24 ̉ 36 thang ng ́ ười dân tộc Bru Vân Kiều” làm sáng kiến kinh nghiệm trong năm học này. Dưới góc độ khác nhau, đề tài giáo dục “Một số biện pháp ren luyên n ̀ ̣ ền nếp, thói quen cho tre 24 36 thang” đ ̉ ́ ược nhiều người, nhiều công trình nghiên cứu. Song trong những năm qua, đề tài “Một số biện pháp ren luyên n ̀ ̣ ền nếp, ̉ thói quen cho tre 24 36 thang ng ́ ười dân tộc Bru Vân Kiều” chưa có ai đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu. Năm học này tôi đã mạnh dạn thực hiện và mong muốn đóng góp được một số biện pháp hữu hiệu giúp chị em đồng nghiệp có thể vận dụng có hiệu quả tại lớp mình phụ trách. 1.2. Điểm mới, phạm vi áp dụng đề tài sáng kiến: * Điểm mới của đề tài, sáng kiến, giải pháp: Đối xử với trẻ bằng tình cảm yêu thương trìu mến của một người mẹ. Để trẻ hoạt động tích cực với nhiều đồ chơi mới sáng tạo đẹp mắt. Nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày. ̣ ̉ ́ ̉ Phân nhom theo đăc điêm tâm sinh ly cua tre ́ ̉ để có biện pháp thích hợp. ̣ Ren luyên nê nêp thoi quen th ̀ ̀ ́ ́ ường xuyên trong moi hoat đông ̣ ̣ ̣ ở moi luc ̣ ́ ̣ ơi . moi n Làm tốt công tac tuyên truyên vân đông phôi ́ ̀ ̣ ̣ ́ kết hợp vơi phu huynh ́ ̣ . Nghiên cưu tham khao ́ ̉ tài liệu tự bôi d ̀ ương nâng cao trinh đô chuyên môn ̃ ̀ ̣ ̀ ực hiên ch va th ̣ ương trinh giao duc tre ̀ ́ ̣ ̉ 24 36 thang co hiêu qua ́ ́ ̣ ̉. Đề tài nhằm giải quyết tình trạng hạn chế về thói quen, nền nếp của trẻ nhằm giúp trẻ có thói quen, nề nếp tốt trong sinh hoạt hằng ngày để trẻ vui vẻ, khỏe mạnh và phát triển một cách toàn diện. * Phạm vi áp dụng đề tài sáng kiến: Đề tài “Một số biện pháp ren luyên n ̀ ̣ ền nếp, thói quen cho tre 24 36 ̉ thang ng ́ ười dân tộc Bru Vân Kiều” có thể áp dụng cho giáo viên đang công tác tại các trường học ở các xã có con em dân tộc Bru Vân Kiều sinh sống và đây là 5
- đề tài thuộc lĩnh vực phát triển tình cảm kĩ năng xã hội cho trẻ nhà trẻ 24 36 tháng. Tuy nhiên, đề tài này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong quý độc giả, bạn bè đồng nghiệp và các đồng chí cán bộ quản lý, lãnh đạo ngành góp ý, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn. 2. PHẦN NỘI DUNG. 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu. Năm học 2019 2020 được sự quan tâm của Ban Giám hiệu nhà trường, tôi được phân công dạy lớp nhà trẻ 24 36 tháng, trong quá trình thực hiện đề tài này tôi gặp những thuận lợi, khó khăn như sau: * Thuận lợi: Ban Giám Hiệu nhà trường tích cực tham mưu với các cấp lãnh đạo để tạo điều kiện về cơ sở vật chất, các thiết bị giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu tổ chức các hoạt động cho trẻ. Bản thân tôi may mắn được chủ nhiệm lớp 24 36 tháng số lượng 12 cháu. Có 4 trẻ dân tộc Kinh, chiếm tỷ lệ 33,3%, trong đó có 2 trẻ sinh những tháng đầu năm đã nói được tiếng Việt; có 8 trẻ dân tộc Vân Kiều chiếm tỷ lệ 66,7% . Đây là điều kiện thuận lợi để trẻ dân tộc Vân Kiều có điều kiện giao tiếp với trẻ người Kinh từ đó giúp trẻ hiểu và tập nói tiếng Việt. Đa số trẻ tích cực hứng thú tham gia vào các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Đặc biệt trẻ thích tham gia các trò chơi dân gian, thơ, hát ... Nhờ đó giúp trẻ nhanh chóng được hình thành, rèn luyện và phát triển ngôn ngữ, vui chơi giao tiếp hòa nhập với nhau. Bản thân có trình độ chuyên môn Đại học sư phạm mầm non nhờ đó kiến thức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ; có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình trong công tác, luôn được đồng nghiệp, phụ huynh và nhân dân tín nhiệm. Bản thân tôi có ý thức và tích cực tự học tập, rèn luyện và bồi dưỡng năng lực sư phạm. Luôn được sự hướng dẫn chỉ đạo sát sao về chuyên môn và sự quan tâm tạo điều kiện về mọi mặt của Ban giám hiệu nhà trường. 6
- Nhà trường đã xây dựng kế hoạch và tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên kĩ năng, kĩ xảo về rèn luyện nền nếp, thói quen cho trẻ, từ đầu năm đến nay đã tổ chức nhiều tiết dạy thao giảng về lĩnh vực “Phát triển tình cảm kĩ năng xã hội”. Bản thân tôi trải qua hơn 10 năm công tác, đã có chứng chỉ tiếng BruVân Kiều, trực tiếp chăm sóc giáo dục nhiều độ tuổi khác nhau có nhiều trẻ em dân tộc BruVân Kiều nên đã học tập và tích lũy được một số ngôn ngữ của người dân nơi đây đồng thời nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý và những điều kiện thuận lợi và khó khăn của trẻ nơi vùng cao hẻo lánh này. Mặc dù, có nhiều thuận lợi song tôi vẫn gặp nhiều khó khăn sau đây. * Khó khăn: Trường thuộc vùng đặc biệt khó khăn của huyện Lệ Thủy, địa hình phức tạp, giao thông cách trở, đường sá đi lại khó khăn vừa xa xôi vừa vượt qua nhiều sông suối, dốc đèo nguy hiểm. Là lớp có lứa tuổi nhỏ nhất trường, trẻ đi học lần đầu chưa có ý thức, vẫn giữ thói quen thích gì được nấy như ở nhà, không có nề nếp, thói quen nào trong mọi hoạt động. Ví dụ: Trong giờ ăn trẻ chưa có nền nếp, còn có nhiều thói quen xấu như: Ăn còn rơi vãi nhiều, bốc thức ăn, gõ bát, uống nước canh hay còn ngậm cơm, kén chọn thức ăn... Một số trẻ trong lớp chưa nói được, một số trẻ hay bị ốm vặt nên việc rèn luyện cháu có nền nếp, thói quen vô cùng phức tạp. Với đặc điểm sinh lý của lứa tuổi ở giai đoạn phát triển lời nói do đó khả năng giao tiếp về ngôn ngữ của trẻ gặp rất nhiều khó khăn, cô giáo còn chưa hiều nhu cầu trẻ đang muốn gì? Trẻ đang sống trong môi trường gia đình, được ông bà, bố mẹ yêu thương chăm sóc. Khi đến trường là nơi hoàn toàn mới mẻ xa lạ với trẻ, do đó trẻ chưa quen với nền nếp, thói quen của lớp, trẻ khóc nhiều vì vậy mà giáo viên mất nhiều thời gian để dỗ dành trẻ. Hơn thế nữa vì là lớp các cháu nhỏ, cháu đông nên các hoạt động để rèn trẻ vào nề nếp càng trở nên khó khăn hơn và cần mất nhiều thời gian hơn. Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều cho là lứa tuổi bé việc rèn nề nếp cho trẻ chưa quan trọng nên ở nhà các cháu được nuông chiều thái quá 7
- muốn gì được nấy, nhiều phụ huynh cho con nghỉ học bừa bãi khiến việc rèn trẻ lại càng khó khăn hơn; và điều đó khiến trẻ trở nên ì ạch, ỉ lại, lười hoạt động. Khi đến lớp trẻ mang theo thói quen ở nhà nên không có tổ chức kỷ luật, nhiều trẻ đi lại lung tung, đến lớp không chào hỏi ai mặc dù đã được cha mẹ và cô giáo nhắc nhở. Mỗi sáng đến lớp trẻ luôn mang theo nhiều quà bánh, ngoài việc khiến trẻ biếng ăn, ăn không hết suất còn khiến cho lớp học mất vệ sinh vì trẻ xả rác bừa bãi. Đa phần các cháu chưa biết đi vệ sinh đúng nơi quy định, đại tiện, tiểu tiện trong quần, … . Đến giờ ăn cũng vậy, bên cạnh nhiều trẻ chưa biết xúc ăn khiến các cô rất vất vả lại có những cháu xúc ăn bừa bãi, đùa nghịch trong giờ ăn làm cho lớp học náo loạn… Trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng người dân ở đây thường sử dụng Tiếng mẹ đẻ rất tự nhiên và bản năng nên khi đến trường trẻ chủ yếu hiểu và sử dụng tiếng địa phương, trẻ hầu như không hiểu tiếng Việt tạo ra một rào cản khó khăn rất lớn cho cô và trẻ. Mặt khác, do điều kiện kinh tế còn rất khó khăn, đa số phụ huynh chưa tiếp xúc được với sự phát triển của văn hóa xã hội bên ngoài nên nhận thức của họ còn rất nhiều hạn chế, họ mặc cảm với “Cái nghèo”, cảm thấy tự ti, mặc cảm, chấp nhận cuộc sống hiện tại; do đó họ ít quan tâm, không chú trọng tới việc học tập và chăm sóc nuôi dạy các cháu. Các cháu ít có cơ hội để tiếp xúc với xã hội đang náo nhiệt bên ngoài nên khi những cái gì đó còn xa lạ với trẻ xuất hiện thì sự lo sợ, rụt rè luôn thường trực trong các cháu. Việc giao tiếp của các cháu ngoài học trên lớp, về nhà không được người thân quan tâm hướng dẫn nên dù đi đâu, tiếp xúc với ai trẻ cũng rụt rè, sợ hãi. Việc giúp trẻ rèn luyện thói quen, nền nếp tốt nhờ đến sự tận tâm của đội ngũ nhà giáo, song giáo viên lại là người từ các nơi xa xôi đến, tiếp xúc với trẻ chỉ có trên lớp nên thời gian còn hạn chế. Giáo viên ít có thời gian để tiếp cận với phụ huynh; gia đình các cháu ở xa, bố mẹ ít đưa đón trẻ đến trường nên khó tiếp xúc, gần gũi để cùng tháo gỡ những khó khăn đang mắc phải. Rèn luyện nền nếp, thói quen tốt cho trẻ 24 36 tháng người dân tộc Bru Vân Kiều không chỉ là trách nhiệm của người giáo viên, mà còn là người lớn, những người xung quanh trẻ, nhưng thực tế người dân ở tại địa phương khi 8
- đang còn thiếu đói phải lo chạy từng bữa ăn còn chưa đủ no thì việc quan tâm đến con cái có lẽ là rất ít. * Điều tra thực tiễn: Cụ thể vào đầu năm học khảo sát về nền nếp, thói quen của trẻ của lớp tôi tình hình thực tế kết quả như sau: Kết quả TS K- G TB Y TT Nội dung trẻ/ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ SL SL SL lớp % % % Trẻ thích và đi học 1 12 2 16,7% 3 25% 7 58,3% chuyên cần Trẻ có thói quen nền 2 12 2 16,7% 2 16,7% 8 66,6% nếp chào hỏi. Trẻ có thói quen ăn đúng bữa, biết ăn sạch 3 12 2 16,7% 2 16,7% 8 66,6% sẽ, cất bát đúng chỗ quy định Trẻ ngủ nền nếp, biết 4 12 2 16,7% 3 25% 7 58,3% lấy và cất gối giúp cô Trẻ có thói quen nền 5 12 2 16,7% 3 25% 7 58,3% nếp trong vui chơi Trẻ có thói quen vệ 6 12 2 16,7% 3 25% 7 58,3% sinh sạch sẽ Từ những thuận lợi, khó khăn trên đây và từ những kết quả điều tra thực tiễn với vai trò trách nhiệm của người giáo viên bản thân tôi suy nghĩ và tìm ra một số giải pháp nhằm ren luyên n ̀ ̣ ền nếp, thói quen tốt cho tre 24 ̉ 36 thang ́ người dân tộc Bru Vân Kiều. Sau đây là một số giải pháp cơ bản: 2.2. Các giải pháp: Giải pháp 1: Đối xử với trẻ bằng tình cảm yêu thương trìu mến của một người mẹ. Trẻ ở độ tuổi 24 36 tháng trẻ bắt đầu được đ ến lớp, trẻ bắt đầu rời khỏi bàn tay ấp ủ yêu thương của cha mẹ, ông bà để đến chỗ mà với trẻ tất cả 9
- đều lạ lẫm và mới mẻ: Trường mới, cô mới, bạn mới vì thế các cháu mang đến trường, đến lớp một tâm trạng vừa bỡ ngỡ lạ lẫm vừa lưu luyến nhớ gia đình, thậm chí có cháu còn sợ hãi khóc lóc... Vì ở độ tuổi này trẻ còn rất bé, sống nhiều về tình cảm nên rất cần sự âu yếm, nhẹ nhàng của cô nhất là những ngày đầu trẻ mới nhập lớp, cô phải làm sao để trẻ có thể cảm nhận được nguồn hạnh phúc, được an toàn, được quan tâm và được yêu mến có thể được coi là một thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Cô yêu thương trẻ để tạo được sự thân thiện từ trẻ. Cô thường xuyên trò chuyện, hỏi han trẻ, quan tâm đến mọi hành động, suy nghĩ của trẻ để nắm bắt tâm sinh lý trẻ từ đó cô có thể hiểu được trẻ hơn. Tình cảm của cô đối với trẻ giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ con, biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ tạo nên không khí cởi mở, quên mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ. Khi trẻ có cảm tình, có hứng thú cô có thể sử dụng nghệ thuật của mình để thu hút lôi cuốn trẻ vào các hoạt động một cách dễ dàng. Bằng tình cảm chân thành của cô giáo sẽ giúp cho trẻ thực sự yêu mến cô hơn, yêu mến các bạn trong lớp, trẻ sẽ cảm thấy thích đi học, nhớ cô, nhớ bạn, nhớ lớp. Hãy luôn gần gũi với trẻ và hiểu trẻ đang cần gì, đang muốn gì, hãy tạo cho trẻ cơ hội được học và chơi một cách thực sự. Từ đó cô mới có thể dễ dàng rèn luyện nề nếp cho trẻ, tạo cho trẻ những thói quen tốt trong sinh hoạt. Ví dụ: Những ngày đầu khi đón trẻ vào lớp, trẻ còn bỡ ngỡ, sợ hãi và khóc lóc, gào thét, cô có thể đến bên bế trẻ âu yếm rồi trò chuyện dỗ dành, cô đưa trẻ đến gần các bức tranh hỏi trẻ về nội dung bức tranh để trẻ quên đi nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ như: Bức tranh này vẽ gì? Con thấy bạn nhỏ trong bức tranh đang làm gì? Con thấy bạn có vui không? Con thấy không bạn được đến lớp được vui chơi múa hát bạn cười xinh thế kia mà…..Thông qua nội dung các bức tranh, với lời dẫn nhẹ nhàng đầy tình cảm cô đã kích thích lòng ham muốn của trẻ được đến lớp, được vui chơi, được múa hát, được có nhiều đồ chơi mới và có nhiều bạn mới. Thông qua các hoạt động trên lớp, bằng tình cảm chân thành cô sẽ chiếm được trái tim của trẻ trong từng bữa ăn, từng giấc ngủ, trẻ sẽ được rèn luyện để có những thói quen tốt, cứ như vậy trẻ sẽ thực sự yêu mến cô giáo, yêu quý các bạn và yêu mến lớp, tình cảm thân mật giữa cô và các bạn ngày càng gắn bó và gần gũi hơn. 10
- Giải pháp 2: Để trẻ hoạt động tích cực với nhiều đồ chơi mới sáng tạo. Giai đoạn trẻ 24 36 tháng, hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động với đồ vật, trẻ học mà chơi, chơi mà học. Vì vậy muốn đưa chất lượng của việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ tốt hơn giáo viên cần không ngừng và tích cực sưu tầm, làm và sử dụng đồ dùng đồ chơi sao cho đẹp, sáng tạo, hấp dẫn, nhưng phải đảm bảo an toàn, sử dụng hợp lý và phù hợp với nội dung với độ tuổi của trẻ để thu hút trẻ vào mọi hoạt động một cách thoải mái và tự tin hơn. Đồng thời tận dụng các khoảng không gian và vị trí trong và ngoài lớp học để trang trí các đồ chơi tự tạo do cô và trẻ làm được để trẻ nhìn ngắm hoặc trang trí lớp, qua đó khơi gợi niềm vui thích thú của trẻ khi đến lớp. Hãy để trẻ hoạt động một cách tích cực, ngoài việc cung cấp cho trẻ số đồ chơi cần và đủ, cô giáo cần sáng tạo thêm các góc mở để cô và trẻ cùng hòa nhập, cùng suy nghĩ và sáng tạo thêm nhiều đồ chơi mới, kích thích vào các giác quan khiến trẻ chủ động và tự tin hơn khi đến lớp. Ví dụ : Cháu mới nhập lớp đang còn khóc vì nhớ bố mẹ, ông bà, giáo viên hãy đưa trẻ đến các góc chơi, giới thiệu và trò chuyện với trẻ về đặc điểm và tác dụng các loại đồ dùng, đồ chơi trong lớp. Cô giáo có thể cùng trẻ gấp máy bay, gấp tàu và làm những dây xích nhiều màu sắc, điều này sẽ đem lại niềm vui trẻ được sáng tạo và sử dụng những sản phẩm tự tay bé làm, và sau đó là những bài học quí báu về sự quan tâm chia sẻ, tinh thần hợp tác và biết nghĩ đến người khác. Từ việc chú trọng đến đồ dùng, đồ chơi trang bị cho trẻ hoạt động trong ngày giúp trẻ hứng thú hơn, tăng phần tích hợp, tạo cho trẻ có giờ hoạt động tự tin và sinh động hơn, đó là yếu tố góp phần quyết định chất lượng và khả năng hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn. Giải pháp 3: Nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày. Trẻ giai đoạn 24 36 tháng tuổi với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ phát triển mạnh, trẻ hay tò mò và thích bắt chước, giáo viên phải luôn tôn trọng trẻ và hết sức công bằng, sử dụng khen, chê đúng mực. Khen và chê có tác dụng mạnh đến hành vi vâng lời của trẻ, nhưng không nên khen quá đáng mà chê trách chung chung khiến trẻ mất lòng tự ái. 11
- Ví dụ: Cô khen những trẻ đi học ngoan, đúng giờ, mặc quần áo, đầu tóc gọn gàng, sạch đẹp, biết chào cô khi đến lớp. Thông qua các bài hát, bài thơ, câu chuyện và mọi lúc mọi nơi, cũng có thể giúp trẻ có thói quen nền nếp tốt hơn hoặc cô không nên chê trẻ trước tập thể lớp mà nên gần gũi để góp ý nhỏ với trẻ về một số nề nếp chưa tốt hay trong lớp còn một vài cháu hay nhõng nhẽo không nghe lời cô do sự nuông chiều của ông bà, bố mẹ. Vào ngày cuối tuần cô giáo sẽ tuyên dương trước lớp các bạn ngoan, không khóc nhè, các bạn có ý thức tốt biết giữ gìn vệ sinh thân thể, biết cất đồ chơi vào đúng nơi qui định; đồng thời động viên những trẻ còn khóc chưa hòa nhập với lớp tuần sau cố gắng hơn. Từ sự giúp đỡ của cô giáo mà tính nhõng nhẽo của trẻ mất dần. Do được cô tạo điều kiện giúp đỡ, do được rèn luyện mà trẻ đã thực sự hoà nhập vào nền nếp, khuôn khổ của tập thể lớp một cách thoải mái, dễ dàng và tự tin. Giải pháp 4: Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp thích hợp Ngoài việc thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ là vấn đề trọng tâm, giáo viên cần tiến hành tổ chức để đưa các cháu đi vào nền nếp thói quen ở mọi lúc, mọi nơi. Vì thế mọi hoạt động trong ngày của trẻ cô giáo đều phải nghiên cứu, lập ra chương trình kế hoạch bồi dưỡng đối tượng theo sự phân nhóm và sắp xếp chỗ ngồi cho từng cháu một cách hợp lý: + Nhóm trẻ nhút nhát ngồi cạnh tốp trẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn. + Nhóm trẻ khá ngồi cạnh tốp trẻ trung bình. + Nhóm trẻ hiếu động, cá biệt hay nói chuyện ngồi cạnh tốp trẻ ngoan, ngồi cạnh cô giáo để dễ quan sát và tiện cho việc điều hành trẻ tốt hơn. Cô động viên khích lệ sự tiến bộ đối với những trẻ hiếu động, cá biệt khi thấy trẻ ngoan hơn. Đặc biệt phải thường xuyên uốn nắn và tập cho trẻ cách đi, đứng, xưng hô, cách trả lời cô khi cần thiết... bằng những hình thức trên giáo viên sẽ dần ổn định đưa trẻ vào nề nếp thói quen trong mọi hoạt động, ở mọi lúc mọi nơi. Đồng thời làm nảy sinh sự say mê hứng thú trong việc rèn luyện về nề nếp thói quen cho trẻ đạt kết quả cao hơn. Giải pháp 5: Rèn luyện nền nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi Mỗi ngày đến lớp trẻ đều đượ c tham gia với các nội dung hoạt động: giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học t ập, vui ch ơi, gi ờ đón, giờ trả... mọi sinh hoạt 12
- đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này để đưa các cháu vào nề nếp thói quen đâu phải là chuyện dễ và đơn giản. Thực tế các cháu còn rất bé, chưa có ý thức được như các anh chị lớn, điều này cũng là một thử thách cho cô giáo. Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên cô phải luôn nhẹ nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ để uốn nắn trẻ hoặc thông qua bài hát, bài thơ, câu chuyện, các trò chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen, cô cũng có thể sử dụng để trẻ phần nào liên hệ tới bản thân mà ngoan hơn và biết vâng lời cô giáo. Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ của cô trẻ đượ c uốn nắn kịp thời thường xuyên, liên tục do đó việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ trong mọi ho ạt động mọi lúc, mọi nơi mang lại hiệu qu ả cao hơn, các cháu ngoan và nề nếp hơn. Trong giờ h oạt động có chủ đích cô giáo kết hợp giáo dục rèn luyện vệ sinh thân thể, giáo dục ý thức sử dụng đồ dùng đồ chơi… Trong giờ trả trẻ cô có thể kết hợp với phụ huynh nhắc nhở trẻ ăn và ngủ đúng giờ, không ăn quà vặt hay phải đi học đều thì sẽ đượ c thưở ng bé ngoan…. Ví dụ: Giáo viên có thể rèn luyện cho trẻ thói quen biết chào hỏi thông qua các bài hát như: Bé ngoan, lời chào buổi sáng, mẹ yêu không nào. Các bài thơ, câu chuyện: Lời chào, miệng xinh, cháu chào ông ạ! Qua bài thơ, bài hát rèn cho trẻ thói quen khi chơi xong biết cất dọn đồ chơi và để đúng nơi qui định như: Bài thơ “Cất đồ chơi”. Để rèn cho trẻ có thói quen tốt và ăn ngủ đúng giờ, giáo viên có thể sử dụng các bài thơ “Giờ ăn” hay bài thơ: “ Giờ ngủ” và bài hát “ Chúc bé ngủ ngon”. Rèn thói quen vệ sinh cho trẻ qua các bài thơ “ Khăn nhỏ” và bài thơ “Rửa tay sạch”. Giải pháp 6: Làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp với phụ huynh. Ngoài góc trao đổi với phụ huynh, hàng tháng cô giáo còn có trách nhiệm trực tiếp trao đổi với phụ huynh bằng nhiều hình thức: + Qua giờ đón trả trẻ. + Trong các cuộc họp cha mẹ học sinh. Với trách nhiệm của một cô giáo mầm non, người mẹ thứ hai của trẻ, cô giáo cần thường xuyên theo dõi và nắm tình hình mọi tính cách của trẻ ở mọi 13
- hoạt động trong ngày, tìm nguyên nhân để có biện pháp thích hợp kịp thời uốn nắn trẻ. Đồng thời trao đổi với cha mẹ trẻ để bồi dưỡng thêm cho trẻ khi ở gia đình. Giúp việc rèn luyện thói quen nền nếp của trẻ theo khoa học và đi đến thống nhất trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Ví dụ: Giáo viên động viên và khuyến khích phụ huynh cùng kết hợp với cô trong việc tập luyện cho trẻ trong từng bữa ăn, giấc ngủ để trẻ ăn đúng bữa và ngủ đúng giờ, nhắc nhở phụ huynh hãy tập cho con mình thói quen vệ sinh, thói quen tự phục vụ bản thân hay thói quen giữ gìn vệ sinh chung, vứt rác vào đúng nơi quy định. Khi gia đình và nhà trường cùng phối hợp với nhau trong việc rèn luyện cho trẻ điều đó sẽ khiến cho việc giáo dục đạt hiệu quả cao hơn. Gần gũi, quan tâm đến tâm tư nguyện của cha mẹ trẻ, tìm mọi cơ hội để chia sẻ, hợp tác với phụ huynh trong rèn luyện nền nếp, thói quen cho trẻ đồng thời đây cũng là cơ hội cho chúng ta học tiếng Bru Vân Kiều từ họ để giúp chúng ta dễ dàng hiểu và chăm sóc giáo dục trẻ tốt hơn. Giải pháp 7: Nghiên cưu tham khao tài li ́ ̉ ệu tự bôi d ̀ ương nâng cao trinh ̃ ̀ đô chuyên môn va th ̣ ̀ ực hiên ch ̣ ương trinh giao duc tre 24 36 thang co hiêu qua. ̀ ́ ̣ ̉ ́ ́ ̣ ̉ Muốn đưa chất lượng về việc rèn luyện nền nếp, thói quen cho trẻ đạt hiệu quả cao, xuất phát từ tình hình thực tế, dựa vào đặc điểm sinh lý của trẻ để đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo những tài liệu có nội dung về đề tài, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, của bản thân, nhận thức đúng đắn, hiểu được tầm quan trọng của vấn đề, nắm vững tình hình cụ thể của lớp, của trẻ. Tích cực tham khảo qua tài liệu, sách báo, internet, tạp chí giáo dục mầm non , cần chịu khó kiên trì và sáng tạo trong từng bài dạy, từng tiết học và sáng tạo trong việc làm nhiều đồ dùng đồ chơi cho trẻ… Xác định rõ những khó khăn và điều kiện thuận lợi của nhà trường, của lớp, của bản thân. Xây dựng kế hoạch giáo dục phải bám sát mục tiêu, lựa chọn nội dung phù hợp với điều kiện thực tế của trường lớp, của địa phương để có phương pháp chăm sóc giáo dục phù hợp nhằm thực hiện chương trình giáo dục 24 36 tháng một cách hiệu quả. Tự nghiên cứu tài liệu, sách báo, tìm hiểu cuộc sống cũng như ngôn ngữ tiếng Bru Vân Kiều của người dân bản địa để có thể giao tiếp với chính quyền địa phương, với phụ huynh và quan trọng nhất là giao tiếp với trẻ, để hiểu được mong muốn, nhu cầu của trẻ hằng ngày. Đó là sợi dây liên kết gần gũi 14
- nhất để mối quan hệ giữa cô và trẻ xích lại gần nhau, không còn một rào cản nào nữa. * Kết quả đạt được: * Đối với giáo viên: Giáo viên nắm được sự phát triển tâm sinh lý của trẻ. Giáo viên biết áp dụng được những kiến thức, kĩ năng vào thực tế lớp mình phụ trách. Giáo viên nâng cao kiến thức, kĩ năng khi lên lớp. * Đối với trẻ: Trẻ có nền nếp, thói quen tốt. Trẻ mạnh dạn tự tin khi giao tiếp ứng xử với những người xung quanh, khi tham gia các hoạt động. Trẻ nắm được các kiến thức kĩ năng trong mọi hoạt động. Trẻ khỏe mạnh, phát triển hài hòa về thể chất lẫn tinh thần. Chất lượng nền nếp, thói quen tốt tăng rõ nét so với đầu năm. Cụ thể bảng kết quả khảo sát cuối năm học đạt như sau: Kết quả TS K- G TB Y TT Nội dung trẻ/ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ SL SL SL lớp % % % Trẻ thích và đi học 1 12 9 75% 2 16,7% 1 08,3% chuyên cần Trẻ có thói quen 2 12 8 66,7% 3 25% 1 08,3% nền nếp chào hỏi. Trẻ có thói quen ăn đúng bữa, biết 3 ăn sạch sẽ, cất bát 12 8 66,7% 3 25% 1 08,3% đúng chỗ quy định 15
- Trẻ ngủ nền nếp, 4 biết lấy và cất gối 12 10 83,3% 2 16,7% 0 0% giúp cô Trẻ có thói quen 5 nền nếp trong vui 12 9 75% 2 16,7% 1 08,3% chơi Trẻ có thói quen 6 12 8 66,7% 3 25% 1 08,3% vệ sinh sạch sẽ Nhờ áp dụng “Một số giải pháp rèn luyện nền nếp, thói quen tốt cho trẻ 24 36 tháng người dân tộc Bru Vân Kiều” bằng sự giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường cùng chị em đồng nghiệp và sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của bản thân, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm sau: Giáo viên cần có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, chấp hành tốt chủ trương đường lối của Đảng; có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh giản dị, yêu nghề, mến trẻ, đối xử công bằng với trẻ, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có ý thức học hỏi chị em đồng nghiệp để vươn lên về mọi mặt. Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, nắm vững nội dung chương trình giáo dục trong đó có các nội dung về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ để xây dựng kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ và các biện pháp giáo dục phù hợp. Lựa chọn nội dung phù hợp với mục tiêu, yêu cầu giáo dục, phù hợp với đặc điểm nhận thức và khả năng của trẻ. Khuyến khích sự hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt động chăm sóc, giáo dục. Hoạt động phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội, hoạt động giao lưu, tham quan. Khi tổ chức các hoạt động cho trẻ giáo viên cần nghiên cứu kỹ các phương tiện, điều kiện, chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng cần thiết phù hợp để tiến hành các hoạt động đạt kết quả cao. Rèn luyện nền nếp cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, đặc biệt quan tâm đến trẻ chậm, trẻ cá biệt, không phân biệt giữa các trẻ. 16
- Có sự phối hợp chặt chặt chẽ giữa các giáo viên trong lớp, giáo viên trong cụm, trong tổ với phụ huynh và những người thân trong gia đình trẻ. 3. PHẦN KẾT LUẬN. 3.1. Ý nghĩa của đề tài, sáng kiến, giải pháp: Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho các cháu thiếu nhi tình thương yêu và quan tâm đặc biệt. Với Bác, trẻ em là những mầm non, những người chủ tương lai của đất nước. Thấm nhầm lời dạy của Người, giáo viên mầm non phải ra sức thi đua dạy tốt, học tốt, đem hết sức lực, tâm huyết, trí tuệ của mình cống hiến cho sự nghiệp “Trồng người” của đất nước. “Rèn luyện nền nếp, thói quen tốt cho trẻ 24 36 tháng người dân tộc Bru Vân Kiều” chỉ là một trong những nhiệm vụ của người giáo viên phải làm, nhưng cũng là sự quan tâm mà chúng ta đang hướng đến cộng đồng ở miền núi xa xôi, hẻo lánh nơi đó có những mầm non đang cần chúng ta quan tâm, những mầm non tương lai của đất nước, là góp phần thực hiện lời dạy của Người. Việc rèn luyện nền nếp, thói quen tốt cho trẻ 24 36 tháng người dân tộc Bru Vân Kiều có ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhằm hình thành và phát triển toàn diện về thể chất, nhận thức, tình cảm và quan hệ xã hội. 3.2. Những kiến nghị, đề xuất: * Đối với ban giám hiệu nhà trường: Tạo điều kiện để bản thân tôi được học tập thêm chị em đồng nghiệp, được giao lưu và đúc rút được nhiều kinh nghiệm góp phần nâng cao năng lực sư phạm và nâng cao hơn nữa chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Trên đây là “Một số giải pháp rèn luyện nền nếp, thói quen tốt cho trẻ 24 36 tháng người dân tộc Bru Vân Kiều” của bản thân tôi. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong Hội đồng khoa học các cấp bổ sung, góp ý để đề tài của tôi được hoàn thiện, được áp dụng có hiệu quả trong nhà trường và còn áp dụng cho tất cả các trường mầm non vùng khó khăn trong toàn huyện và toàn tỉnh./. Kim Thủy, tháng 5 năm 2020 17
- Người viết Phạm Thị Thùy Linh 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Sưu tầm và thiết kế một số trò chơi giúp trẻ 5 tuổi Làm quen chữ cái trong trường mầm non
22 p | 191 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non
12 p | 107 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Các bước xây dựng giáo án điện tử dạy trẻ lứa tuổi mầm non
20 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thông qua công tác chỉ đạo tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ tại trường mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng năm học 2020-2021
14 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp hình thành biểu tượng toán về số lượng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi C ở trường Mầm non 2/9
20 p | 162 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường mầm non
24 p | 39 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Kinh nghiệm chỉ đạo Giáo viên thực hiện Chương trình Giáo dục Mầm non
21 p | 122 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc tổ chức chuyên đề trong trường mầm non
20 p | 63 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên mầm non nâng cao nghiệp vụ sư phạm giáo dục mầm non
13 p | 59 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Xây dựng đội ngũ đoàn kết nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ trong trường Mầm non
16 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Yên Mỹ
6 p | 150 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ bảo vệ môi trường trong trường mầm non
23 p | 104 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Làm thế nào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non
13 p | 113 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non chất lượng cao
36 p | 100 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm xây dựng trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ II
24 p | 93 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non tại Trường MN Tân Mai
13 p | 132 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ năm tuổi ở trường mầm non
19 p | 102 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non
33 p | 66 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn