intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kĩ năng “ước lượng thương” cho học sinh Tiểu học

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:14

22
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc hướng dẫn và rèn kĩ năng “ước lượng thương trong phép chia cho số có nhiều chữ số” cho học sinh là việc làm cần thiết và vô cùng quan trọng trong quá trình dạy học Toán. Nếu nắm được cách ước lượng thương và có kĩ năng ước lượng thương thì phép chia này đối với học sinh không còn là một khó khăn nữa và cũng nhờ thế mà các em dễ dàng giải các bài toán liên quan đến phép tính này không tốn nhiều thời gian, tạo thuận lợi và hứng thú cho học sinh say mê học Toán, yêu thích môn Toán.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kĩ năng “ước lượng thương” cho học sinh Tiểu học

  1. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc.                                                                                                                                                                      Phần 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1.Lí do chọn đề tài           Trong thực tế dạy – học Toán ở  chương trình Tiểu học, tôi nhận  thấy việc thực hiện phép tính “Chia cho số  có nhiều chữ số” là vấn đề  mà học sinh đang gặp phải khó khăn nhiều nhất ( Có những học sinh đã  học lên đến lớp 5 mà vẫn chưa thực hiện được phép chia này – thật là   một vấn đề nan giải! ) và việc dạy cho học sinh  làm thế nào để có biện   pháp  tính, kĩ năng tính, sự thuần thục khi thực hiện phép tính ...Đó cũng  chính là điều mà bản thân tôi nói riêng cũng như  các đồng nghiệp giáo  viên nói chung đang quan tâm.          Tôi thiết nghĩ :  Quả thực  “ Phép chia cho số có nhiều chữ số là   một trong những phép tính khó nhất  ở  Tiểu học. Điểm mấu chốt trong   biện pháp tính này là vấn đề ước lượng các chữ số của thương, tạm gọi   tắt là “ước lượng thương” vậy            Việc rèn kĩ năng ước lượng thương là cả một quá trình , bắt đầu   từ  lớp Ba, lên lớp Bốn và lớp Năm.(  ở  lớp 3, việc giới thiệu và rèn kĩ  năng  ước lượng thương được thực hiện trong bài “Chia  cho số  có hai   chữ  số” . Lên lớp 4, phần “Chia cho số  có nhiều chữ  số” .Và lớp 5 lại   được lặp lại qua  phần “Chia số thập phân”.  Thực chất của vấn đề là “   Tìm cách nhẩm nhanh thương của phép chia một  số n  hoặc (n+1) chữ  số cho một số có n chữ số (với n = 2 hoặc 3). Nếu nắm được cách ước  lượng thương và có kĩ năng    ước   lượng thương thì phép chia này đối   với học sinh không còn là một khó khăn nữa và cũng nhờ thế mà các em  dễ  dàng giải các bài toán liên quan đến phép tính này không  tốn nhiều  thời gian, tạo thuận lợi và hứng thú cho học sinh say mê học Toán ,  yêu  thích môn Toán.                       Vì vậy cho nên việc hướng dẫn và rèn kĩ năng “ước lượng   thương trong phép chia cho số có nhiều chữ số” cho học sinh là việc làm  cần thiết và vô cùng quan trọng trong quá trình dạy học Toán. Cũng  chính vì lí do đó mà tôi quyết định chọn đề tài này. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ­ Học sinh lớp 3;4;5 trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc , với  chương  trình mới. Đặc biệt là học sinh lớp 3 năm học 2005­2006 và học sinh lớp   5 năm học 2006­ 2007 do tôi chủ nhiệm và trực tiếp giảng dạy. 3. Phương pháp nghiên cứu  2 thùc hiÖn: NguyÔn ThÞ Anh Thu – Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ GV 1 ngäc .
  2. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc. ­ Điều tra , phân tích , tổng hợp tìm nguyên nhân ­ Dùng biện pháp cụ thể áp dụng cho học sinh rèn luyện 4. Thời gian nghiên cứu và áp dụng ­ Năm học 2005­ 2006; 2006­ 2007                                                                                                                                                           Phần 2                 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I.Thực trạng làm tính chia 1. Đối với học sinh ­ Rất khó khăn khi thực hiện với các phép chia , có một số học sinh  chưa chia được do chưa học thuộc các bảng nhân , chia và nhân nhẩm  chưa nhanh. ­ Việc thực hiện chia cho số ó nhiều chữ số  đang gặp khó khăn rất   nhiều(ngay cả với học sinh lớp 5)  2. Về phía giáo viên ­ Nhiều khi chưa thực sự  chú ý đến   một số  thủ  thuật trong dạy   Toán, chưa mạnh dạn áp dụng một số  sáng kiến của mình vào vào dạy  Toán  vì  ngại với chương trình mới ­ Đôi khi chưa thực sự  tìm tòi, sáng tạo trong việc vận dụng các   phương pháp dạy học để  tìm ra cách   thích hợp nhất trong dạy   thực   hiện chia cho số có nhiều chữ số. 3. Nguyên nhân: ­ Học sinh chưa nắm được cách ước  lượng thương, chưa có kĩ năng  ước lượng thương . Bên cạnh đó, các em cũng chưa biết được cách làm  tròn số thông qua một số thủ thuật thường dùng chẳng hạn như   che bớt   chữ số. ­ Đối với giáo viên , việc hướng dẫn học sinh  tìm cách ước  lượng  thương đôi khi không được chú ý một cách tỉ mẫn ,chưa mạnh dạn đưa  một số sáng kiến của mình vào dạy học Toán , chưa thực sự chú ý linh   hoạt sáng tạo trong sử dụng  phối hợp các phương pháp dạy học. 4. Khảo sát học sinh :       ­ Đầu năm học 2005­2006 , với học sinh lớp 3B, khi chưa được dạy  chia cho số  có hai chữ  số  và giới thiệu cách  ước lượng thương thì có  100% học sinh chưa nắm được cách “ước lượng thương”  ­ Năm học 2006­ 2007, với học sinh lớp 5A, mặc dù đã được học   “chia cho số  có nhiều chữ  số   ở  các lớp 3;4 song kĩ năng    ước lượng   thương còn kém thậm chí phần lớn học sinh chưa biết cách “ước lượng  2 thùc hiÖn: NguyÔn ThÞ Anh Thu – Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ GV 2 ngäc .
  3. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc. thương” như thế nào ? Có khoảng 30% học sinh không thực hiện được  phép chia này, 20% học sinh thực hiện chia được song  còn  quá chậm vì  chưa có kĩ năng  ước lượng thương , số còn lại tạm  ổn song cũng chưa  thành thạo trong biện pháp tính. Quả vậy , để học sinh thực hiện phép tính này một cách dễ dàng và  có những bài giải toán nhanh thì việc hướng dẫn cho học sinh cách “ước   lượng thương” và rèn cho học sinh kĩ năng “ước lượng thương” trong  phép chia và đặc biệt là phép chia cho số  có nhiều chữ  số  đối với học   sinh là rất cần thiết và  vô cùng quan trọng. Để  làm được điều này thì  giáo viên phải thực sự  tâm huyết với nghề  , tìm tòi phương pháp thích   hợp trong dạy toán và cần nhiều thời gian , kết hợp với sự kiên trì , tính  cần mẫn dịu dàng hướng dẫn , biết khích lệ đúng lúc và khơi dậy lòng   say mê chăm chỉ  miệt mài của học sinh trong học toán  ở  lớp cũng như  luyện tập toán  ở  nhà, chứ    không dễ  dàng gì đạt được kết quả  mong   muốn trong một sớm một chiều. Bởi vậy , cho nên khi tiến hành công   việc, bản thân tôi cũng gặp không ít khó khăn, trở  ngại. Tuy nhiên, với  tâm huyết của mình về  vấn đề  này, tôi đã từng bước cố  gắng khắc   phục. II. Một số giải pháp             Qua thời gian tiến hành công việc thu được một số  kết quả  khả  quan, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số  vấn đề  sau để  hướng dẫn   học sinh Tiểu học rèn kĩ năng “ước lượng thương” được tốt . Đây là  kinh nghiệm của tôi nhưng cũng có thể đây cũng là kinh nghiệm của một  số  người có thể  đã áp dụng, tuy  nhiên với  thực trạng của học sinh thì  tôi  bạo nghĩ : việc mình mạnh dạn đưa ra sáng kiến của mình (có thể  mọi người đã biết hoặc chưa biết) cũng không thừa. Điều quan trọng là  chúng ta có cơ  hội để  cùng thảo luận với nhau nhiều để  tìm cách dạy  Toán cho học sinh Tiểu học ngày mỗi tốt hơn. 1. Kiểm tra phân loại học sinh: ­ Bao nhiêu em đã thực hiện tốt phép chia cho số có nhiều chữ số. ­ Bao nhiêu em đã có kĩ năng “ước lượng thương” trong phép chia   này và ứng  dụng  tốt vào giải toán có liên quan. ­ Bao nhiêu em chưa thực hiện phép chia được. Vì sao? ­ Bao nhiêu em thực hiện phép chia còn chậm, Nguyên nhân? 2. Quy định với học sinh: ­ Học thuộc các bảng nhân chia. ­ Biết cách nhân nhẩm , trừ nhẩm thành thạo. ­ Ngoài vở  BT Toán theo quy định của chương trình cần có vở  BT  Toán ô li dùng cho các tiết luyện tập buổi chiều và ở nhà. 2 thùc hiÖn: NguyÔn ThÞ Anh Thu – Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ GV 3 ngäc .
  4. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc. 3. Giáo viên: ­ Chuẩn bị  vật liệu để  hướng dẫn học sinh thực hành và luyện tập   dựa vào nội dung của chương trình mới và từng bài học , phù hợp, vừa   sức với từng đối tượng học sinh trong lớp. ­ Chuẩn bị  phương pháp và kế  hoạch hướng dẫn học sinh: Lời nói  phải rõ ràng , dễ  hiểu , các bước ngắn gọn. Cần chú trọng với các bài  tập hướng dẫn thực hành, chú ý kết hợp giữa thực hành và luyện tập. ­ Cẩn thận , mẫu mực trong việc chấm chữa bài làm của học sinh,  giải đáp thắc mắc chi tiết và kịp thời. 4. Hướng dẫn học sinh “ước lượng thương”       Như  tôi đã nói  ở  trên, việc rèn kĩ năng  ước  lượng thương là cả  một quá trình.Thực tế  của vấn đề  này là tìm cách nhẩm nhanh thương  của phép chia. Để  làm việc này , ta thường cho học sinh làm tròn số bị  chia và số chia để dự đoán chữ số ấy . Sau đó nhân lại để thử.Nếu tích  vượt quá số bị chia thì phải rút bớt chữ số đã dự đoán ở thương, nếu tích  còn kém số bị chia quá nhiều thì phải tăng chữ số ấy . Như vậy , muốn   ước lượng thương cho tốt, học sinh phải thuộc các bảng nhân chia và  biết nhân nhẩm trừ  nhẩm nhanh. Bên cạnh đó, các em cũng phải biết   cách làm tròn số thông qua một số thủ thuật thường dùng là che bớt chữ  số. Cách làm như sau: a) Làm tròn giảm : Nếu số  chia tận cùng là 1;2 hoặc 3 thì ta làm tròn giảm(tức là bớt đi   1;2 hoặc 3 đơn  vị  ở số chia) . Trong thực hành, ta chỉ việc che bớt chữ  số tận cùng đó đi(và cũng phải che bớt chữ số tận cùng của số bị chia)     Ví dụ 1 :      Muốn ước lượng 92 : 23 = ?  Ta làm tròn 92  90 ; 23  20 , rồi nhẩm  90 chia 20 được 4 , sau đó thử lại : 23 x 4 = 92 để có kết quả 92 : 23 = 4   Trên thực tế  việc làm tròn : 92   90 ; 23   20 (A) được tiến hành  bằng thủ thuật cùng che bớt hai chữ số 2 và 3 ở hàng đơn vị để có 9 chia   2 được 4 chứ ít khi viết rõ như ở (A)      Ví dụ 2 :  Có thể ước lượng thương 568 : 72 = ? như sau : ­ ở số chia ta che 2 đi ­ ở số bị chia ta che 8 đi ­ Vì 56 : 7 được 8, nên ta ước lượng thương là 8 ­ Thử  : 72 x 8 = 576  > 568 Vậy thương  ước lượng (8) h ơi th ừa ta   giảm xuống 7 và thử lại: 72 x 7 = 504; 568 – 504 = 64 
  5. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc.      Nếu số chia tận cùng là 7;8 hoặc 9 thì ta làm tròn tăng( tức là thêm 3;2   hoặc 1 đơn vị vào số chia)Trong thực hành , ta chỉ việc chia che bớt chữ  số  tận cùng đó đi và thêm 1 vào chữ  số  liền trước ( và che bớt chữ  số  tận cùng của số bị chia)     Ví dụ 1 : Muốn  ước lượng 86 : 17 = ?  Ta làm tròn 17 theo cách che   bớt chữ số 7 như ở ví dụ 1a, nhưng vì 7 khá gần nên ta phải tăng chữ số  1  ở  hàng chục thêm 1 đơn vị  để   được 2 , còn đối với số  bị  chia 86 ta   vẫn làm tròn giảm thành 80 bằng cách che bớt chữ số 6 ở hàng đơn vị Kết quả ước lượng 8 : 2 = 4 Thử lại:17 x 4 =68 
  6. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc. chia luôn cho làm tròn giảm  bằng  cách che bớt chữ số ( cho dù chữ số  bị che có lớn hơn 5) Việc này nói chung không ảnh hưởng mấy đến kết  quả ước lượng. Chẳng hạn : trong ví dụ  2(a) nếu ta làm tròn số bị  chia   thành 560 ( trên thực tế  là che bớt  8 ) thì kết quả   ước lượng lần  thứ  nhất cũng là 8 , vẫn giống như  kết quả   ước lượng thương khi ta làm  tròn “đúng” số 568 thành 570. 5. Hướng dẫn học sinh thực hành­ luyện tập : ­ Sau khi các em đã nắm được cách  ước lượng thương, bên cạnh  những bài củng cố  sau mỗi ví dụ  đã hướng dẫn ngay tại tiết dạy theo   chương trình vào buổi học chính khóa. Tôi đã cho các em tiếp tục luyện  tập bằng những bài tập luyện tập thêm  vào những tiết dạy ngoại khóa  buổi chiều , cũng như   ở  nhà.Trong khi các em luyện tập, tôi luôn theo  dõi sát sao và giúp đỡ kịp thời cho những em yếu , chấm và chữa bài cụ  thể  cho cả  lớp cùng theo dõi. Sau đó cho các em yếu thực hiện lại với  bài tập ví dụ mới ngay tại lớp. ­ Tôi thường chú ý ra bài luyện tập với số lượng và mức độ phù hợp  cho từng đối tượng học sinh giỏi ,khá, trung bình, yếu và có kiểm tra sửa  chữa và khen ngợi động viên kịp thời để  tạo sự  hứng thú học tập với   phép tính này.                                                                                                                 Phần 3 KẾT QUẢ ­ BÀI HỌC KINH NGHIỆM          * Sau khi thực hiện và áp dụng các biện pháp trên , kết quả  đạt  được : Các em đã ham thích môn Toán nói chung và say sưa với các phép   tính chia cho số có nhiều chữ số nói riêng  , thực hiện chia một cách dễ  dàng không còn lo sợ khi làm toán  có liên quan đến phép tính được xem  là khó này nữa. ­ Đối với học sinh lớp 3B  năm học 2005­2006 do tôi chủ  nhiệm và  trực tiếp  giảng dạy,  sau khi đã được giới thiệu cách làm này thì đa số  các em đã thực hiện được phép tính chia và còn thực hiện rất nhanh ,   thành thạo trong khi  ước lương  thương . Cuối năm , có 75% có kĩ năng  ước lương và thực hiện phép chia rất tốt, 20% học sinh thực hiện chia   được song chưa thành thạo lắm , chỉ có  5% học sinh còn lúng túng trong  khi thực hiện chia. ­ Đối với học sinh lớp 5A năm học 2006 – 2007 do tôi chủ nhiệm và  dạy thì vào   cuối kì I, kĩ năng  ước lượng thương của các em đã được  nâng cao (học sinh khá, giỏi) . Số học sinh trung bình, yếu đầu năm  do  không chia được nay được thực hiện tốt phép chia này, nhiều em trong  số  đó không còn sợ  phép tính chia nữa ( Quốc Cường, Đức, Hải,Quý,   2 thùc hiÖn: NguyÔn ThÞ Anh Thu – Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ GV 6 ngäc .
  7. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc. Uyên, Duy...) .Đa số các em đã vận dụng vào giải toán nhanh và rất tốt.   Có nhiều em tham dự  thi giỏi Toán cấp Thị  và cấp Tỉnh đạt giải cao.  (Cấp Thị  tiêu biểu có các em : Hải Lâm , Bình, Huỳnh giải nhất; Nhật  Anh giải nhì. Cấp Tỉnh : các em dự thi đều có giải , trong đó có em Hải   Lâm đạt giải nhất). Nhìn chung , 100% học sinh đều thực hiện   được  phép chia cho số có nhiều chữ số.Trong đó 80% học sinh có kĩ năng ước  lượng thương và thực hiện phép tính chia rất nhanh, 15% học sinh thực   hiện chia tốt song chưa nhanh lắm , chỉ  còn lại 5% học sinh chia còn   chậm nhưng vẫn chia được theo cách  đã được hướng dẫn  ước lượng   thương này.         * Với những việc làm trên và kết quả đạt được, tôi đã rút ra được   bài học kinh nghiệm : ­ Khi dạy học sinh học Toán với phép tính chia, đặc biệt là chia cho   số  có nhiều chữ  số. Điều mà giáo viên cần nắm cho được là chủ  chốt  của phép tính này chính là cách  ước lượng thương và cần có phương  pháp hướng dẫn học sinh ước lượng thương. Khi đã nắm được điều này  thì giáo viên không còn cảm thấy băn khoăn khi dạy và học sinh cũng  không còn thấy lo lắng với phép tính này cũng như  việc học toán nói  chung nữa. Bên cạnh đó, giáo viên cần có kế hoạch dạy học cụ thể với  bài dạy liên quan đến phép tính chia (chia cho số có nhiều chữ số) đã nêu   ở các lớp 3;4;5. kiên trì , nhiệt tình để dẫn dắt  hướng dẫn học sinh thực   hiện phép chia với bài mới cũng như luyện tập, yêu cầu động viên  học  sinh cố  gắng học thuộc các bảng nhân chia , rèn cách nhân nhẩm trừ  nhẩm thành thạo để  tạo sự  thuận lợi trong khi thực hiện  ước lượng   thương với phép chia.Giáo viên cần cho học sinh luyện tập nhiều để các  em nắm chắc cách  ước lương   thưong mỗi dạng làm tròn số  theo quy  tắc làm tròn số.        Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi trong dạy toán để  hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng ước lương thương trong phép chia. Tôi  đã áp dụng có hiệu quả và sẽ áp dụng tiếp trong những năm tới. Vậy tôi  mạnh  dạn đưa ra để  đồng nghiệp cùng thảo luận và có thể  tham khảo vận  dụng, cũng có thể  có điều gì chưa hoàn thiện mong đồng nghiệp cùng  trao đổi để  tôi có thêm những kinh nghiệm trong giảng dạy nhằm nâng  cao chất lượng hiệu quả  của giờ dạy toán giúp học sinh có những giờ  học toán hứng thú say mê. Tôi hy vọng và chờ  đón sự  góp ý chân thành   2 thùc hiÖn: NguyÔn ThÞ Anh Thu – Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ GV 7 ngäc .
  8. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc. của phụ  trách chuyên môn , lãnh đạo trường và đồng nghiệp. Xin chân  thành cảm ơn.                                             Đông Hà, ngày 5   tháng 11   năm  2007                                                Người thực hiện                                                                                                                                                                                                                                                                                                               Nguyễn Thị Anh Thu 2 thùc hiÖn: NguyÔn ThÞ Anh Thu – Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ GV 8 ngäc .
  9. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc. MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÈN KĨ  NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5 I. Phần mở đầu :      Tiểu học là cấp học nền tảng, đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành   và phát triển nhân cách con người một cách toàn diện. Nó đặt nền tảng  vững chắc cho bậc học phổ  thông nói riêng và toàn bộ  hệ  thống giáo  dục quốc dân nói chung.      Muốn cho thế hệ trẻ hôm nay trở  thành những chủ  nhân tương lai “  Tài đức song toàn” của non sông đất Việt thì  ngay từ bậc học tiểu học   các em cần được rèn luyện tốt. Các em không chỉ  được cung cấp kiến  thức mà  còn  phải được hình thành những phẩm chất cao đẹp. Bậc  tiểu học nói riêng  và các bậc học nói chung, môn Tiếng Việt với tư cách là tiếng mẹ  đẻ,  nó vừa là đối tượng đồng thời cũng là công cụ  để  học sinh lĩnh hội các   môn học khác.     Nhiệm vụ của môn Tiếng Việt đó là hình thành và phát triển cho học   sinh bốn kĩ năng : Nghe ­ Nói ­ Đọc – Viết. Vì vậy việc dạy tập đọc  ngay từ tiểu học rất quan trọng. Phân môn Tập đọc ở trường tiểu học có  nhiệm vụ hình thành cho học sinh bốn kĩ năng : Nghe­ Nói ­ Đọc – Viết  và cuối cùng đó là sự  thông hiểu văn bản. Mà muốn đạt được cái  đích   đó thì đòi hỏi  người đọc phải hiểu , đọc đến đâu hiểu ngay đến đó và  nắm bắt được ý tưởng , tâm tư ,nguyện vọng , tình cảm của tác giả  đã   gửi gắm vào trong tác phẩm.      Đọc chính là học, con người biết đọc chỉ  có thể  tự  học và học mãi  mãi. Điều đó cho ta thấy việc dạy “Đọc” có ý nghĩa quan trọng như thế  nào.        Tuy nhiên, hiện nay chất lượng dạy vấn đề  “đọc hiểu” trong phân  môn Tập đọc  ở  tiểu học vẫn chưa cao. Trong tiết tập đọc, nhiều khi   giáo viên còn chưa chú trọng đến khâu đọc hiểu lắm. Một số  giáo viên  nhận thức , cảm thụ văn bản còn hời hợt , nămg lực cảm thụ  văn bản   của học sinh còn hạn chế, câu hỏi  ở  SGK chủ  yếu là câu hỏi tái hiện  nên   chưa   phát   huy   được   tính   sáng   tạo,   tích   cực   hoạt   động   của   học   sinh...nên phần nào làm cho học sinh khó thông hiểu văn bản một cách  sâu sắc. Xuất phát từ  tầm quan trọng của phân môn Tập đọc nói chung   và  vấn đề  dạy “đọc hiểu” nói riêng vì vậy mà tôi viết những dòng này  2 thùc hiÖn: NguyÔn ThÞ Anh Thu – Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ GV 9 ngäc .
  10. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc. mong muốn góp phần rất nhỏ  năng lực của mình   vào việc nâng cao  hiệu quả “ Đọc hiểu” trong giờ Tập đọc. II. Thực trạng dạy đọc hiểu ở trường Tiểu học:       Qua thực tế giảng dạy cũng như  việc dự  giờ  của các đồng nghiệp,  tôi   nhận   thấy   phương   pháp  giảng  từ,   phương  pháp  liên   kết,   chuyển  đoạn đã được sử  dụng trong khâu tìm hiểu bài để giúp các em cảm thụ  văn bản chưa  tốt và thực tế  cho thấy chất lượng “ đọc hiểu” của các  em hiện nay còn nhiều hạn chế , đa số các em chỉ biết giải thích từ bằng   định nghĩa hoặc trả lời câu hỏi tái hiện một cách máy móc là nhìn vào bài  trả lời , chưa phát huy trí tưởng tượng và sáng tạo của mình.Một số em  rất ít có ý thức cảm thụ văn bản, hiểu bài , hiểu được tâm tư  tình cảm   của tác giả đã gửi gắm trong tác phẩm. III. Một số nguyên nhân: 1. Về phía giáo viên: ­ Năng lực cảm thụ  văn học của mỗi giáo  viên không đồng đều, thậm  chí có một số giáo viên năng lực cảm thụ văn học còn hạn chế. Do đó ít  nhiều ảnh hưởng đến việc hướng dẫn cho học sinh trong khâu đọc hiểu. ­ Do quan niệm của một số giáo viên cho rằng : Đối với học sinh tiểu   học, chỉ cần các em đọc thành tiếng lưu loát , trôi chảy, đúng từ là được   rồi , không cần phải hiểu sâu sắc văn bản.       Hoặc do giáo viên coi nhẹ phần tìm hiểu bài, phân tích đề  bài , nội   dung, sử dụng phương pháp cũ, không đổi mới để phát huy tính tích cực  tự giác của học sinh. 2. Về phía học sinh: ­ Do các em chưa chuẩn  bị bài ở nhà, khả năng cảm thụ chưa sâu, vốn  sống thực tế chưa nhiều nên việc khai thác nội dung còn lúng túng. IV. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 5: ­ Dạy đọc hiểu ở lớp 5 nói riêng và ở tiểu học nói chung là hình thành và  phát triển các kĩ năng để tiến hành hoạt động nhận diện ngôn ngữ , giải  nghĩa và hồi đáp nhằm cảm thụ  văn học. Qua chương trình văn học,  bằng kĩ năng đọc đúng , đọc diễn cảm , đọc hiểu các em  sẽ nhận được   cái hay , cái đẹp của cuộc sống qua tác phẩm...      Để giúp học sinh hiểu được văn bản một cách sâu sắc  nhằm nâng  cao chất lượng dạy đọc hiểu trong tiết Tập đọc, giáo viên cần lưu ý  một số biện pháp sau: 1. Đối với học sinh: ­ Với những em học sinh yếu trong khâu đọc thì giáo viên không nên  yêu cầu quá cao trong khâu đọc hiểu, nên có hình thức gợi mở giúp các   2 thùc hiÖn: NguyÔn ThÞ Anh Thu – Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ GV 10 ngäc .
  11. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc. em tìm hiểu từ : từ, từng ý , từng đoạn; gợi mở vấn đề  ngắn gọn , dễ  hiểu... ­ Với những học sinh có năng lực cảm thụ  văn bản tốt, giáo viên cần  quan tâm để  bồi dưỡng các em thành những hạt nhân của lớp. Cần   dành thời gian để  cả  lớp cùng thảo luận, tìm hiểu ý chí vươn lên cần   học tập,  nguồn cảm xúc từ cuộc sống ...ứng  dụng vào bài học. 2.Đối với giáo viên: ­ Giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh hiểu bài đọc từ  việc hiểu   nghĩa của từ, giáo viên phải chọn từ  trung tâm để  giải nghĩa cho học  sinh. Việc dạy từ không chỉ giúp cho học sinh hiểu đúng nghĩa của từ mà  còn giúp các em hiểu tác phẩm và nhận ra cái tài của nhà văn, nhà thơ. ­ Giáo viên cần tập cho học sinh biết cách tìm ra từ  ngữ  phản ánh hàm  súc , cô đọng, chính xác. ­ Ngoài những câu hỏi trong SGK, giáo viên cần chuẩn bị một số câu hỏi  khác nhằm phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh, đó phải la   những câu hỏi “ chìa khóa” nhằm kích thích tính tò mò , trí tưởng tượng  và óc sáng tạo của học sinh. Những câu hỏi thông minh đặt đúng  chỗ có  thể   làm cho trẻ  nhìn thấy nhiều điều thú vị   tiềm  ẩn sau vỏ  âm thanh   của ngôn ngữ:      Ví dụ  : Khi dạy bài “ Hạt gạo làng ta”,để làm cho học sinh thực sự  cảm nhận hết sự  vất vả  , gian nan của người dân lao động ; tình cảm  của tác giả gửi vào trong đó, GV có thể đưa ra một số câu hỏi sau: 1) Trong khổ  thơ  1, tác giả  nghĩ về  hạt gạo quê hương  như  thế  nào? 2) Em có suy nghĩ gì về hạt gạo của quê hương em? 3) Từ nào trong khổ thơ 1 được lặp lại nhiều lần ? Tác dụng của  việc lặp từ ấy ? - Khâu hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài rất quan trọng trong việc  giúp học sinh thực hiện tốt khâu “ đọc hiểu’. Song phần luyện đọc  góp phần không nhỏ  trong việc giúp học sinh cảm thụ  sâu sắc văn  bản. Bởi vậy, nguời giáo viên phải làm sao có giọng đọc hay, chuẩn,  đúng, mạch lạc và diễn cảm để  đọc mẫu và dạy học sinh. Để  đạt  được điều này giáo viên cần phải nắm đặc trưng của từng thể loại   văn bản, cần chọn ngữ  điệu thích hợp với từng bài đọc. Nếu giáo  viên luyện đọc cho học sinh có hiệu quả  tức  là  đã  góp phần giúp  các em   thực hiện tốt khâu đọc hiểu. Vì có đọc hiểu tốt học sinh   mới đọc diễn cảm và thể  hiện đúng tình cảm của tác giả  gửi gắm  trong tác phẩm. Ví dụ : Bài “ Hạt gạo làng ta”  2 thùc hiÖn: NguyÔn ThÞ Anh Thu – Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ GV 11 ngäc .
  12. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc.    Từ cách đọc đúng và đọc diễn cảm : nhấn giọng ở các điệp từ , điệp  ngữ, cách ngắt nghỉ ở mỗi dòng thơ, khổ thơ cùng với việc hiểu các từ  ngữ : vị phù sa, ngọt , bùi , đắng cay, giọt mồ hôi sa,ngoi, trút, hạt vàng   làng ta, băng đạn vàng như lúa đồng... học sinh hiểu được nỗi khó khăn  vất vả  của người nông dân để  làm ra hạt gạo trong những năm kháng  chiến chống Mĩ cứu nước , đồng thời học sinh cũng thấy giá trị của hạt  gạo , sự gắn bó của tác giả với quê hương . Hơn thế nữa , đó là qua bài  thơ  nhằm giáo dục học sinh biết quý trọng hạt gạo, quý trọng súc lao  động và  yêu lao động. Cụ thể cách đọc như sau:         Khổ thơ 1 : đọc thong thả, nhấn mạnh từ được lặp lại nhiều lần.   Cuối              dòng 2,4,6 đọc vắt luôn sang dòng sau:                                                                     Có vị phù sa                                          Của sông Kinh Thày         Khổ thơ 2 : đọc nhanh hơn, nhấn mạnh từ ngữ : có bão , có mưa,  giọt mồ hôi sa ... để diễn tả nỗi khó nhọc vất vả của người nông  dân.Cuối dòng 4,6,8 cũng đọc vắt luôn sang dòng sau.        Khổ thơ 3 : nhấn mạnh từ những năm được lặp lại nhiều lần . Cuối  các                    dòng 2,4,6,8 đọc vát luôn sang dòng sau.       Khổ thơ 4 : ba dòng trên đọc liền mạch. Hai dòng cuối đọc thong thả  và ngắt :                                               Em vui/ em hát                                                Hạt /vàng / làng / ta        Nếu ở mỗi bài tập đọc, giáo viên đều hướng dẫn cho học sinh cách  đọc cụ thể và các em nắm được thì sẽ rất đễ dàng trong việc hiểu nội  dung của bài. Đọc hay, hiểu tốt đó là cái đích cuối cùng mà giờ Tập  đọc  cần đạt và phải đạt. Làm được điều đó , tức là giờ dạy đã thành công. V. Một số lưu ý đối với giáo viên: ­ Ngoài một số biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 5 đã nêu  ở trên, muốn thực hiện tốt hơn nữa việc đọc hiểu , để từ đó các em có  hứng thú học tập , nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập đọc, phát  triển năng lực cảm thụ văn học  của  học sinh, giáo viên cần lưu ý : + Phải thâm nhập kĩ văn bản, hiểu  ý đồ  của SGK. + Thiết kế hệ thống câu hỏi phù hợp với trình độ học sinh của lớp. + Lựa chọn phương pháp giảng từ có hiệu quả. + Sử dụng đồ dùng dạy học một cách hợp lí.  +Giọng đọc của giáo viên là giọng đọc “mẫu” cho nên phải chú ý đến  cách đọc của từng bài +Phải có vốn sống , vốn hiểu biết nhất định về xã hội , có năng lực cảm  thụ văn học tốt .Bởi vậy cho nên cần có ý thức tự học cao... + Hướng dẫn học sinh cách đọc và chuẩn bị bài đọc chu đáo ... 2 thùc hiÖn: NguyÔn ThÞ Anh Thu – Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ GV 12 ngäc .
  13. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc. + Luôn xác  định rằng : Học sinh là nhân vật trung tâm . Người giáo viên  giỏi là người biết dạy cho học sinh cách học tốt  nhất. VI. Phần kết luận và đề xuất: 1. Kết luận.    ­ Dạy học vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Để quá  trình dạy học đạt hiệu quả phải có sự nỗ lực rất lớn từ mỗi giáo viên và  mỗi học sinh.    ­ Học sinh muốn tiếp thu khoa học phải qua con đường nghe và đọc.  Tập đọc là phân môn quan trọng – dạy tốt môn học này không chỉ rèn  luyện cho các em kĩ năng đọc mà còn cung cấp, phát triển vốn từ phong  phú cho các em , tạo điều kịên cho các em học tốt các môn học khác. 2. Đề xuất :      ­ Các cấp lãnh đạo chuyên môn nên chăng tổ chức hằng năm một  cuộc thi “Đọc diễn cảm” dành cho giáo viên và học sinh.      ­ Kiểm tra đánh giá chất lượng đồ dùng dạy học tự làm bằng hình  thức tổ chức “Thi làm đồ dùng dạy học’’ trước khi đưa vào sử dụng . ( Nếu  có thể )         *  Với tấm lòng của một giáo viên trẻ đối với học sinh thân yêu và  tình yêu văn học, tôi muốn bài viết  nhỏ này được các đồng nghiệp và  cấp trên góp ý , trao đổi.            Xin chân thành cảm ơn!                                                                      Đông Hà, ngày 25 tháng 5  năm 2008                                                                                  Người viết                                                                                Nguyễn Thị Anh Thu 2 thùc hiÖn: NguyÔn ThÞ Anh Thu – Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ GV 13 ngäc .
  14. SKKN: RÌn kÜ n¨ng “íc lîng th¬ng ” cho häc sinh TiÓu häc. 2 thùc hiÖn: NguyÔn ThÞ Anh Thu – Trêng TiÓu häc NguyÔn B¸ GV 14 ngäc .
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2