intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng đồ dùng trực quan trong sách giáo khoa để dạy phần lịch sử thế giới lớp 8 trung học cơ sở

Chia sẻ: Sinh Sinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

56
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiện nay cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, ngành giáo dục đã tiến hành đổi mới đồng bộ về nội dung, phương pháp dạy học. Đa số giáo viên phải tự mình nâng cao trình độ chuyên môn, tìm tòi đầu tư cho tiết dạy để từng bước nâng cao hiệu quả của bài học. Song nhìn chung việc khai thác sử dụng kênh hình, đặc biệt là sử dụng kênh hình để giảng dạy phần lịch sử thế giới lớp 8 vẫn là một vấn đề nan giải đối với nhiều giáo viên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng đồ dùng trực quan trong sách giáo khoa để dạy phần lịch sử thế giới lớp 8 trung học cơ sở

  1. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh Së GI¸O DôC Vµ §µO T¹O THANH HO¸ PHßNG GI¸O DôC §µO T¹O Hµ TRUNG              S¸ng kiÕn kinh nghiÖm      Tên đề tài   Sử dụng đồ dùng trực quan trong sách giáo khoa  để dạy phần lịch sử thế giới lớp 8 THCS Họ và tên tác giả:    Nguyễn Thị Hạnh      Chức vụ:  Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Hà Ninh SKKN thuộc môn:    Lịch sử Năm học 2010-2011 1 SKKN thu ộc năm h ọc: 2010 ­ 2011
  2. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh Tªn ®Ò tµi: Sö dông §å dïng trùc quan trong s¸ch gi¸o khoa  ®Ó d¹y phÇn lÞch sö thÕ giíi líp 8  Trung häc c¬ së A. ®Æt vÊn ®Ò I. Lời mở đầu:           Sử dụng đồ dùng trực quan là một ưu thế trong dạy học nói chung và dạy  học lịch sử nói riêng. Từ xa xưa đến nay trong lý luận cũng như thực tiễn không   ai có thể  phủ  nhận đượ c vai trò to lớn và tính  ưu việt của đồ  dùng trực quan,  đặc biệt đối với bộ môn lịch sử ở trường THCS.   Đồ  dùng trực quan đượ c sử  dụng tốt sẽ  góp phần khắc phục đượ c lối   truyền thụ   một chiều, áp đặt, thụ  động, rèn luyện đượ c khả  năng tư  duy sáng  tạo cho học sinh; đồng thời rèn luyện năng lực thực hành, phát huy tính năng  động của các em trong học tập. Điều đó hoàn toàn phù hợp với phươ ng châm  đổi mới của ngành giáo dục đã đặt ra. Đồ  dùng trực quan có nhiều loại, mỗi loại có  ưu thế  riêng và có phươ ng  pháp sử  dụng riêng. Song cho dù sử  dụng loại nào thì hiệu quả  của đồ  dùng  trực quan trong dạy học lịch sử  cũng do nhiều yếu tố  quyết  định như: Chất  lượng bài học, phương pháp sử dụng, kỹ năng, năng lực sư phạm của giáo viên. Năm học 2010-2011 2
  3. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh Vì vậy muốn nâng cao chất lượng giảng d ạy, ng ười giáo viên phải tìm tòi  sáng tạo nắm chắc và vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học đặc trưng của   bộ  môn đặc biệt là sử  dụng có hiệu quả  các loại đồ  dùng trực quan trong giờ  học lịch sử. Nếu sử  dụng tốt sẽ  t ạo điều kiện cho học sinh đễ  nắm bắt kiến  thức, nhớ  lâu, huy động được sự  tham gia hoạt động của nhiều giác quan, phát   triển được năng lực chú ý quan sát hứng thú. Ngượ c lại nếu quá lạm dụng thì   học sinh dễ bị phân tán sự chú ý, không tập trung vào những nội dung kiến thức   cơ bản. Do đó, có thể hạn chế hiệu quả của đồ dùng trực quan. Trong thực tế  giảng dạy lịch sử   ở  tr ường phổ  thông việc sử  dụng  đồ  dùng trực quan còn bị xem nhẹ. Một mặt do việc nh ận th ức vai trò vị trí của bộ  môn nên trong cách bố  trí  giáo viên dạy các khối ­ lớp có trình độ  không đồng   đều; hầu hết giáo viên dạy chính ban không đủ, còn nhiều giáo viên dạy chéo  ban, không có kiến thức bộ  môn, nên ngay giáo viên có người không hiểu hết   nội dung kiến thức trong từng kênh hình để  giảng dạy, do đó học sinh chỉ  xem   hình mà không khai thác nội dung ý nghĩa của nó.  Mặt khác, do lượng kiến thức trong m ột ti ết, bài lịch sử  khá nhiều mà  thời gian lại có hạn nên có những trường hợp giáo viên khai thác kênh hình một  cách qua loa, thậm chí bỏ qua nên chất lượng bài dạy lịch sử hạn chế.  Hiện nay cùng với công cuộc đổi mới của đất nướ c, ngành giáo dục đã  tiến hành đổi mới đồng bộ  về nội dung, phương pháp dạy học. Đa số  giáo viên  phải tự mình nâng cao trình độ chuyên môn, tìm tòi đầu tư cho  tiết dạy để từng   bướ c nâng cao hiệu quả  của bài học. Song nhìn chung việc khai thác sử  dụng   kênh hình, đặc biệt là sử dụng kênh hình để giảng dạy phần lịch sử thế gi ới l ớp   8 vẫn là một vấn đề nan giải đối với nhiều giáo viên. Từ  lý luận và thực tiễn trên, bằng những hiểu biết của bản thân và mong  muốn góp một phần nhỏ  bé của mình vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy  môn lịch sử  ở trường THCS, tôi đã chọn và thực hiện đề tài:  Sử dụng đồ dùng   trực quan trong sách giáo khoa để dạy phần lịch sử thế giới lớp 8 trung học cơ   sở   II. Thực trạng của vấn đề: 1. Thực trạng: Những năm gần đây trong trào lưu đổi mới phương pháp dạy học theo  hướ ng “Phát huy tính tích cực của học sinh”, nhi ều tr ường THCS đã đầu tư  cơ  Năm học 2010-2011 3
  4. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh sở  vật chất, trang thi ết b ị  để  phục vụ  giảng dạy, do đó, nguồn đồ  dùng trực  quan có đa dạng và phong phú hơn đặc biệt là các trườ ng  ở  thành phố, thị  trấn   và các trung tâm lớn. Mặt khác do yêu cầu ngày càng cao của giáo dục, hàng   năm   ngành   giáo   dục   thường   xuyên   mở   các   lớp   học   chuyên   đề,   bồi   dưỡ ng  chuyên môn cho giáo viên để  nâng cao chất lượng giảng dạy, ho ặc t ổ ch ức các   đợt thao giảng theo c ụm sinh ho ạt chuyên môn cấp huyện, cũng như  các môn  học khác, bộ  môn lịch sử   ở  trường THCS cũng có nhiều tiến bộ  đáng kể  trong  việc đổi mới phương pháp dạy và học. Một bộ phân không ít giáo viên đã tự tìm  tòi học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, đầu tư thích đáng cho việc giảng dạy,   đặc biệt chú trọng việc khai thác các loại hình đồ  dùng trực quan, mà trướ c hết  là hệ thống kênh hình trong SGK. Hiện nay, trong các trườ ng THCS đều có giáo viên đượ c đào tạo dạy môn  lịch sử, song số  giáo viên đào tạo chính ban lịch sử  rất ít chủ  yếu là giáo viên  đào tạo đa môn như: Văn ­ Sử  ­ GDCD hoặc Văn ­ Sử  ­ Địa. Với trình độ  đào   tạo như vậy, kiến thức về lịch sử thực sự ch ưa chuyên sâu. Hơn nữa, giáo viên   dù đào tạo đơn môn hay đa môn thì hầu hết mỗi trường chỉ  có 1 giáo viên, nên  giáo viên không có điều kiện để dự giờ thăm lớp để học hỏi kinh nghiệm giảng   dạy môn lịch sử. Chính vì lẽ  đó nên việc sử  dụng đồ  dùng hầu hết chỉ  truyền   thụ   những kiến thức có sẵn trong SGK, thậm chí bê y nguyên, hoặc có khi quá  sơ  sài. Nên việc sử  dụng đồ  dùng trực quan nói chung và kênh hình nói riêng  hầu như  là không có, hoặc có thì chỉ  là qua loa chiếu lệ, nên không phát huy   đượ c thế mạnh của phương pháp trực quan. Một số trường hợp giáo viên dạy chính ban, có đầu tư cho phương pháp trực  quan, song đôi khi chưa đồng đều và thường xuyên, có những trường hợp do giáo   viên dạy nhiều giờ trong một buổi (3­ 4 tiết) nên có thể những tiết sau do mệt mỏi  dẫn đến việc sử dụng đồ dùng trực quan có phần hạn chế. Có những trường hợp  giáo viên chưa thực sự  tìm hiểu rõ nội dung kênh hình trong từng tiết bài nên khi  sử  dụng đồ  dùng trực quan chủ  yếu là để  minh họa kiến thức chứ  chưa sử  đụng  đồ dùng trực quan để khai thác kiến thức và thông qua việc sử dụng đồ dùng trực  quan để đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. Một đặc trưng của môn lịch sử lớp 8 phần thế giới là nhiều kiến thức phức  tạp, mới lạ, sự kiện đan xen nhau làm học sinh khó nhớ, do đó nếu giáo viên không   chú trọng khai thác hết nội dung các kênh hình để giảng dạy thì chất lượng của bộ  môn sẽ  không cao, học sinh sẽ  rơi vào tình trạng nhớ  mang máng, kiến thức lịch   Năm học 2010-2011 4
  5. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh sử đã học không bền vững. Có những trường hợp giáo viên không biết kết hợp các   phương pháp dạy học với những phương pháp trực quan nên sa vào trình bày kênh  hình quá mức, thậm chí lạm dụng, dẫn đến không hoàn thành bài giảng theo dự  định và cuối cùng dẫn tới hiện tượng “quá tải” và “cháy giáo án”. Tất cả  những  vấn đề trên đã và đang diễn ra ở các trường THCS. Nó đã từng ngày, từng giờ kìm   hãm sự phát triển tư duy của học sinh, làm giảm sút chất lượng giảng dạy của bộ  môn dẫn đến hậu quả  là môn lịch sử  không thể  hiện được vai trò và vị  trí đích  thực của mình trong nhà trường THCS và trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ.  Thực tế   ở trường THCS Hà Ninh trướ c do yếu tố  khách quan cũng như  đồ  dùng trực quan không có hoặc có mà ngại tìm vì nhiều lí do hoặc không mượ n  hướ ng dẫn sử  dụng kênh hình và chưa phân loại thống kê xây dựng kế  hoạch  sử dụng , nên nhiều bài giảng còn dạy chay hoặc khai thác kênh hình qua loa sơ  sài vì thế không phát huy được thế mạnh của phương pháp trực quan. Học sinh còn xem môn sử  là môn phụ  dài dòng, nhiều sự kiện khó nhớ  nên  nhiều em cũng không chú ý tập trung học ghi bài và học bài đầy đủ,không làm  bài tập,ngại ghi bài,ngại phát biểu ý kiến xây dựng bài. Đặc biệt những sự kiện   cần tìm tòi tra cứu tài liệu,tham khảo... thì các em thường bỏ qua hoặc xem nh ẹ,   làm qua loa. Vì vậy có ít nhiều  ảnh hưởng đến tâm lý của giáo viên và  ảnh   hưở ng đến chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh. 2. Kết quả­ hiệu qủa của thực tr ạng:          Từ thực trạng sử dụng đồ  dùng trực quan của giáo viên và ý thức học tập   của học sinh trong việc gi ảng d ạy và học tập bộ  môn lịch sử  lớp 8 Trườ ng  THCS Hà Ninh tôi thấy hiệu quả và chất lượ ng bộ môn chưa cao, học sinh khá  giỏi ít, còn nhiều học sinh yếu kém, học sinh ít có hứng thú học tập bộ môn.   Kết quả cụ thể điều tra chất lượng học kì I ­ lớp 8 trường THCS Hà Ninh   năm học 2008 ­ 2009: Giỏi Khá Trung bình Yếu L ớp Sĩ số sl % sl % sl % sl % 8A 36 2 5,5 5 13,8 25 69,4 4 11,3 8B 38 3 7,8 7 18,4 24 63,1 4 10,7 Cộn 74 5 6,7 12 16,2 49 66,2 8 10,9 g B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Năm học 2010-2011 5
  6. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh I. Các giải pháp: 1. Giải pháp 1:  Thống kê và xây dựng kế hoạch sử dụng các loại đồ  dùng trực  quan trong chương trình lịch sử thế giới lớp 8.        Đồ dùng dạy học lịch sử thế gi ới lớp 8 có rất nhiều loại như: + Hình vẽ, tranh ảnh. + Chân dung các nhân vật lịch sử.  + Lược đồ, bản đồ.  + Bảng thống kê, sơ đồ... Vì vậy giáo viên phải thống kê, phân nhóm các loại đồ  dùng trực quan để  từ đó xây dựng kế hoạch sử dụng. 2. Giải pháp 2: Sử  dụng đồ  dùng trực quan trong chương trình lich sử  thế  giới  lớp 8:         Đồ  dùng trực quan trong gi ảng d ạy l ịch s ử là vô cùng cần thiết và không  thể thiếu đượ c. Song phương pháp sử  dụng như thế nào để  có tác dụng và hiệu   quả cao, tránh qua loa sơ sài hoặc lạm dụng thì lại càng quan trọng vầ cần thiết  hơn. Bởi sử  dụng đồ  dùng trực quan là phương tiện có hiệu quả  để  khai thác  kiến thức, hình thành khái niệm, và đi từ  trực quan sinh động đến tư  duy trừu   tượ ng, từ đó góp phần thúc đẩy đổi mới phươ ng pháp dạy học. II. Các biện pháp tổ chức thực hiện: 1. Biện pháp 1: Thống kê và xây dựng kế hoạch sử dụng các loại đồ  dùng trực quan  a. Thống kê các loại đồ dùng: Có nhiều loại đồ dùng trực quan khác nhau,  mỗi loại có cách sử  dụng và hiệu quả  khác nhau nhưng đều có tác dụng nâng  cao chất lượng dạy học lich s ử. Vì vậy đầu năm học tôi đã thống kê và phân   loại các loại đồ  dùng trực quan trong ch ương trình lịch sử  thế  giới lớp 8. Cụ  thể: + 48 hình vẽ, tranh ảnh. + 18 chân dung các nhân vật lịch sử.  + 14 lược đồ, bản đồ.  + 02 bảng thống kê, 01sơ đồ... b. Kế hoạch sử dụng : Từ việc thống kê các loại đồ  dùng, tôi đã xây dựng   kế hoạch cho việc sử d ụng đồ dùng đó cụ thể: * Đối với loại hình vẽ tranh ảnh. Năm học 2010-2011 6
  7. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh Hình vẽ, tranh  ảnh trong ph ần l ịch s ử th ế gi ới l ớp 8  ở phòng thiết bị  thư  viện của nhà trườ ng không có. Vì vậy để  có đồ  dùng trực quan giảng dạy tôi   phải sưu tầm hình vẽ, tranh ảnh trên mạng và có hai phươ ng án sử dụng. + Nếu không dạy bằng giáo án điện tử hoặc máy chiếu hắt thì sẽ  in ra đề  can dán vào bảng phụ để trình bày. + Dạy bằng giáo án điện tử  hoặc máy chiếu hắt thì lấy trực tiếp trên  mạng về. * Đối với chân dung các nhân vật lịch sử.  Chân dung các nhân vật lịch sử trong phòng thiết bị thư viện chỉ có 3 chân  dung của: Các Mác, Ăngghen, Lê Nin. Vì vậy số  còn lại tôi phải sưu tầm trên  mạng về làm tư liệu giảng dạy. * Đối với lược đồ, bản đồ Trong phòng thiết bị chỉ có 10 lượ c đồ, bản đồ, số  còn lại giao cho nhóm   học sinh vẽ, giáo viên chọn lựa sử dụng làm đồ dùng trực quan. Sau thống kê là tìm tòi nghiên cứu tư  liệu có liên quan đến đồ  dùng như  vào mạng, đọc sách báo, hướng dẫn sử  dụng kênh hình, chuẩn bị  hệ  thống câu   hỏi để khai thác có hiệu quả cho đồ dùng trực quan ấy. 1. Biện pháp 2: Các biện pháp sử dụng có hiệu quả đồ dùng trực quan.  a. Biện pháp sử  dụng hình vẽ, tranh  ảnh trong sách giáo khoa để  dạy   lịch sử lớp 8 THCS.    Hình vẽ  tranh  ảnh trong SGK là một phần của đồ  dùng trực quan trong  dạy học lịch sử. Nó có ý nghĩa to lớn không chỉ  là nguồn kiến thức cơ  bản mà   còn có tác dụng giáo dục tư  tưởng, tính cách phát triển tư  duy và năng lực thực  hành cho học sinh.T ừ vi ệc quan sát học sinh sẽ đi tới những tư duy trừu tượng.        Tuy vậy, bản thân tranh  ảnh không thể gây đượ c sự  quan sát tích cực của  học sinh trong những tình huống có vấn đề, trong những nhu cầu cần thi ết ph ải   giải đáp, trả lời một vấn đề cụ thể.  Ví dụ: Khi dạy bài “ Công xã Pari 1871” giáo viên cần đưa ra tình huống có vấn đề để khơi dậy cho học sinh sự ham muốn tìm hiểu và khai thác sự kiện lịch sử. GV đặt câu hỏi:   Tại sao công xã Pari là nhà nướ c kiểu mới?. Sau đó   mới cho học sinh tiếp cận với sơ đồ  bộ  máy nhà nướ c có trong SGK để  các em  quan sát, phân tích chức năng của các tiểu ban, so sánh với các nhà nướ c TBCN  và phong kiến, từ  đó các em có thể  rút ra kết luận về  bản chất của nhà nướ c  công xã Pari là nhà nướ c đại diện cho quyền lợi c ủa nhân dân lao động. Năm học 2010-2011 7
  8. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh .  Như vậy, trước câu hỏi mang tính chất nhận thức kết hợp với vi ệc qua   sát phân tích sơ đồ, tư duy của học sinh sẽ d ần phát triển khi gặp những tình  huống có vấn đề. Mặt khác thông qua quan sát miêu tả tranh ảnh giáo viên sẽ  giúp học sinh  rèn luyện kỹ năng diễn đạt, lựa chọn ngôn ngữ, từ đó có khả  năng sử dụng ngôn ngữ phong phú, trong sáng và xúc tích.  Qua việc quan sát tranh  ảnh giáo viên rèn luyện cho các em thói quen và  khả  năng quan sát các vật thể  một cách khoa học có xem xét, phân tích, giải  thích để đi đến những nét khái quát rút ra những kết luận lịch sử.  Nhờ đó mà tư  duy được rèn luyện, khả  năng phát huy trí thông minh, sáng tạo của học sinh   ngày càng được nâng lên. Như vậy: Việc sử dụng tranh  ảnh v ừa khai thác nội dung lịch sử thể hiện   qua hình  ảnh bổ  sung cho bài giảng, vừa phát huy năng lực tư  duy cho học sinh   kích thích trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho các em. b. Biện pháp sử  dụng chân dung các nhân vật lịch sử  trong dạy h ọc   lịch sử lớp 8­ Phần cận đại Năm học 2010-2011 8
  9. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh Ngoài việc sử  dụng tranh  ảnh trong d ạy h ọc l ịch s ử  thì kênh hình còn   đượ c biểu hiện qua chân dung các nhân vật lịch sử  đượ c in  ấn trong SGK làm  tài liệu cho giảng d ạy. Chân dung các nhân vật lịch sử có ý nghĩa rất lớn trong việc dạy và học tập  lịch sử ở trường THCS: học sinh rất thích xem chân dung các nhân vật lịch sử, đó  là các nhà cách mạng, các anh hùng dân tộc, các lãnh tụ, các nhà khoa học, các nhà   hoạt động văn học nghệ  thuật.  học sinh  sau khi xem chân dung, không chỉ  chú  trọng việc mô tả bề ngoài (áo, quần, hình dáng...) mà còn chú ý phân tích nội dung,  tính cách hành vi của nhân vật được thể hiện ở trong tranh ảnh. Khi sử dụng chân   dung trong dạy học cần phải chú ý đến mục đích giáo dục, giáo dưỡng và phát  triển tư duy. Đối với các anh hùng dân tộc, lãnh tụ cách mạng, giáo viên cần phải  làm nổi bật tính cách của nhân vật  ấy thông qua việc miêu tả  hình thức bề  ngoài  hay nêu khái quát ngắn gọn tiểu sử  của nhân vật  ấy (đặc biệt là thời thơ   ấu) để  làm cho học sinh hứng thú, kích thích tò mò, phát triển năng lực nhận thức qua đó  các em có ý thức rèn luyện mình. Trong khi sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử  dù chính diện hay phản diện giáo viên phải phân tích và định hướng cho học sinh  tự đánh giá vai trò tính cách của các nhân vật lịch sử. Ví dụ: Khi dạy bài 8 “  Sự  phát triển của kĩ thuật, khoa học, văn hóa và   nghệ  thuật thế kỉ XVIII ­ XIX ”  ở  phần II:  có 3 bức chân dung của I. Niutơn, V.   Môda và đại văn hào L.Tônxtôi. Với 3 bức chân dung này, giáo viên sử  dụng để  khắc họa cho học sinh nh ững phát minh vĩ đại về  KHTN và KHXH thông qua  cuộc đời và sự nghiệp của 3 bậc vĩ nhân  Để sử dụng chân dung có  hiệu quả GV cần nêu câu hỏi gợi mở:  Em đã biết gì về I. Niutơn, V. Môda và đại văn hào L.Tônxtôi?  Các bậc vĩ nhân này đã có những cống hiến gì cho nhân loại?  Em có nhận xét gì về giá trị của những cống hiến đó? HS có thể  dựa vào những hiểu biết của mình để  trình bày một số  nét về  cuộc đời và sự nghiệp của các nhân vật lịch sử trên (có thể không đầy đủ)  GV khuyến khích và bổ sung ­ giới thi ệu cu ộc đời và sự nghiệp của 3 bậc  vĩ nhân:    H. 38: Niutơn (1643 ­ 1727) sinh ra trong gia đình quý tộc nước Anh, mồ  côi cha từ nhỏ mẹ đi bước nữa, sống với người bác họ. Từ nhỏ Niutơn đã tỏ  ra   chán các môn học trong sách vở  chỉ  mải mê sáng chế  ra các đồ  chơi khác lạ.  Năm học 2010-2011 9
  10. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh Niutơn đặc biệt thích môn toán. Năm 12 tuổi mới đi học và thườ ng bị  bạn bè  bắt nạt, ông nghĩ chỉ  có học giỏi mới trả  thù đượ c cánh bạn bè. Năm 17 tuổi  ông vào học tại trường đại học Kem­Bơ­Rít. Chỉ  2 năm sau đã nắm vững các  nguyên lí cơ bản mà các nguyên lí cơ bản mà các nhà toán học, cơ học, thiên văn  học đươ ng thời đạt đượ c.     Năm 27 tuối ông là giáo sư  toán của trường Đại học và trở  thành chủ  tịch   hội khoa học hoàng gia Anh. Ông đã khái quát các kết quả  nghiên cứu của Cô­ pec­nich, Kép­lê, Ga­li­lê và của mình, ông đã tìm ra định luật “vạn vật hấp   dẫn”. Một lần Niutơn trông thấy quả  táo rụng trên cây xuống  ông nghĩ  đễn  Năm học 2010-2011 10
  11. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh nguyên nhân của sự  rơi và tìm ra sức hút của trái đất....Nhờ  định luật này mà  hàng loạt các vấn đề khoa học đượ c làm sáng tỏ và sâu sắc hơn. Ông sống cuộc đời đơn độc luôn trăn trở  trong những suy nghĩ sâu kín,  không chú ý đế  những người xung quanh và rất đãng trí. Với những cống hiến   vĩ đại trong lĩnh vực vật lý ông được cả thế giới biết đến là “Ngườ i sáng lập ra   vật lý học cổ điển” H.39: V.A. Môda (1756­1791) là nhà soạn nhạc thiên tài người áo sinh ra  trong gia đình nhạc sĩ nghèo  ở  thành phố  Đan­xbuôc miền nam áo. Ngay từ  nhỏ  Môda đã nổi tiếng là thần đồng âm nhạc. Khi lên 5 tuổi Môda đã tham gia biểu   diễn trong dàn nhạc giáo đườ ng Đan­xbuôc cùng với cha. Người áo đến nay vẫn   lưu truyền về  câu chuyện nổi tiếng của th ần đồng âm nhạc Môda khi 5 tuổi.   Nhân ngày sinh của con gái một người bạn thân cha Môda sai con đem bản nhạc  mới sáng tác của mình đến tặng cho cô bé, khi đi qua cầu Môda vô ý là rơi bản   nhạc, không thể  đi tiếp cũng không thể  quay trở  về  Môda ngẫu hứng viết một   bản nhạc khác thay cho bản nhạc của cha. Hôm sau cha cô bé đã cảm  ơn cha Môda về  bản nhạc tuyệt vời, ông đã   mời quan khách cùng thưởng thức bản nhạc do chính con gái ông biểu diễn.  Năm học 2010-2011 11
  12. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh Mọi người lặng đi và thán phục chính cha của Môda cũng bị cuốn hút bời những  âm thanh tươi vui hạnh phúc và giai điệu tuyệt vời của bản nhạc nhưng cha  Môda lại từ  chối không nhân bản nhạc do mình sáng tác mà nói rằng đó là bản   nhạc do con trai sáng tác, mọi người dồn mắt về Môda trầm trồ  khen ngợi. Còn  ngườ i cha của ông lặng người đi vì xúc động trướ c tài năng của con mình. Năm 12 tuổi Môda đã viết vở kịch nhạc cho nhà hát Ôpêra ở Viên. Năm 14   tuổi đã sáng tác thành công vở  Vua Mi­tơ­rđat xứ  Đông. Tên tuổi của Môda đã  vang khắp châu Âu, Môda được mời đi biểu diễn khắp nơi Đức, Italia, Hà Lan,  Anh...Tuy   nhiên   ông   vẫn   sống   trong   cảnh   nghèo   khổ   và   bệnh   tật.   Ông   có   6  ngườ i con mà có 4 người chết vì không đủ tiền thuốc chạy chữa khi ốm đau.   Môda mất sau cơn bệnh hiểm nghèo khi mới 36 tuổi ­  độ  tuổi rực rỡ  nhất của tài năng. Ông để  lại một di sản  âm nhạc đồ  sộ  vô giá với 326 tác  phẩm trong đó có 24 vở  Ôpera nổi tiếng, 50 bảng giao h ưởng cùng nhiều ca   khúc, hoà tấu và bài bát trữ  tình theo phong cách cổ  điển. Ông tìm tòi sự  trong   sáng thanh nhã trong giai  điệu và đạt tới sự  vĩ đại qua sự  đơn giản và kiều   diễm.  Môda  thật  là  một   “thiên tài  phát sáng”   như  nhận xét  của  Trai­côp­xki   (nhạc sĩ nhà soạn nhạc nổi tiếng của n ước Nga). Năm học 2010-2011 12
  13. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh H.40  Leptônxtôi  (1828­1910) Sinh ra trong m ột gia  đình quý tộc nhưng  mồ côi từ nhỏ phải sống với ng ười cô thời thơ ấu phải học tại nhà không đượ c  đến trường. 16 tuổi vào đại học. 19 tuổi ông bỏ  về  nhà quản lý trang  ấp và tự  học thêm, sau đó ông bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ lụât ở Xanh­pê­ tec­ bua. Năm 23 tuổi gia nhập quân đội trở  thành sĩ quan pháo binh và bắtđầu sự  nghiệp sáng tác văn học. Leptônxtôi để  lại cho hậu thế  những tác phẩm nổi  tiếng: Thời thơ ấu, thời niên thiếu, thời thanh niên... Đặc biệt là kiệt tác Chiến tranh và hoà bình và An­na­Ka­rê­ni­na. Ông từ  giã cõi đời ở tuổi 82 với 60 năm cầm bút. Ông để lại di sản văn học đồ  sộ  gồm  nhiều tiểu thuyết, truy ện, k ịch, văn chính luận, thư từ, nhật ký. Ông đượ c mệnh  danh là “ Con sư  tử của văn học Nga, nhà văn vĩ đại nhất thế  giới, nhà văn bậc  thầy của văn học hiện thực phê phán” Như vậy: sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử để  giảng dạy không chỉ  là dùng tranh  ảnh minh ho ạ mà quan trọng hơn cả giáo viên cần có những hiểu  biết nhất định về  cuộc đời và sự  nghiệp của các nhân vật; Biết sử  dụng những   câu chuyện, tiểu sử  và những cống hiến của các nhân vật thông qua việc diễn  đạt ngôn ngữ  trong sáng để  khơi dậy trong học sinh không chỉ  là bức tranh của   lịch sử  mà còn có tác dụng truyền cảm sâu sắc cho các em, vừa giúp các em có   trí tưở ng tượng vừa bồi  dưỡng tình cảm và lòng ngưỡng mộ đối với các nhân vật,  các bậc vĩ nhân trong lịch sử. c. Biện pháp sử dụng bản đồ giáo khoa trong dạy học lịch sử thế giới lớp   8­Trung học cơ sở. Trong hệ thống kênh hình của SGK lịch sử lớp 8 không chỉ  có các tranh ảnh   minh hoạ, tranh châm biếm, chân dung các nhân vật lịch sử mà còn có cá loại bản  đồ giáo khoa dùng để phục vụ giảng dạy của giáo viên ở trên lớp và việc học tập  của học sinh ở nhà trong việc chuẩn bị bài mới và làm bài tập. Trong một mức độ nào đó thì các phương tiện trực quan lớn như bản đồ, sơ  đồ  do các nhà xuất bản sản xuất vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thiết thực của   việc dạy và học lịch sử ở các trường THCS. Nên có nhiều tiết, bài lịch sử GV phải   linh hoạt sử dụng ngay các bản đồ giáo khoa được in trong sách để giảng dạy. Loại   hình bản đồ này còn hạn chế là nhỏ về kích thước, thường không có màu sắc, do đó  khó sử dụng chung cho cả lớp. Song hạn chế này giáo viên cũng dễ khắc phục bằng   cách có thể phóng to và tô màu vào để sử dụng chung cho cả lớp. Đồng thời hướng  Năm học 2010-2011 13
  14. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh dẫn cho học sinh cách đọc, sử dụng bản đồ này để nghiên cứu bài mới và làm bài  tập ở nhà. Trong những trường hợp cần thiết và có thể thì giáo viên hướng dẫn cho  học sinh cách vẽ các loại bản đồ đơn giản để rèn luyện kỹ năng cho các em, điều  đó cũng rất có lợi cho việc phát huy năng lực và tính tích cực trong học tập cho  học  sinh .Tuy vậy vấn đề  cơ  bản của giáo viên trên lớp khi sử  dụng kênh hình là bản   đồ, sơ đồ giáo khoa, giáo viên phải có kiến thức cơ bản tối thiểu để  dử  dụng bản  đồ thậm chí phải có cả kiến thức liên môn, hiểu biết rộng về địa lý, văn học có liên   quan đến bản đồ, sơ đồ mà mình đang sử dụng để tái tạo cho  học sinh những hình  ảnh lịch sử, diễn biến lịch sử  của một giai đoạn, hoặc một sự  kiện lịch sử  với   những nét đặc trưng cơ bản và điển  hình nhất. Việc sử dụng bản đồ giáo khoa cũng như các loại bản đồ khác đã khắc phục  được tình trạng lầm lẫn, hiện đại hoá lịch sử của HS. Trên bản đồ các sự kiện luôn  được thể hiện trong một không gian, thời gian, điạ điểm cùng một số yếu tố địa lý  nhất định, thậm chí qua bản đồ giáo khoa còn giúp học sinh hình dung lại được một  cách khái quát một châu lục, một khu vực địa lý (tự  nhiên­xã hội) của nhiều năm,  nhiều thế kỷ trước, mà thời điểm hiện đại đã có những biến đổi khác xa rất nhiều  với quá khứ.           Ví dụ: Khi dạy bài “Chủ nghĩa tư bản được xác lập trên phạm vi thế giới”   ở  phần II: Chủ  nghĩa tư  bản được xác lập trên phạm vi thế  giới để  trình bày   cho học sinh sự  lớn mạnh và thắng lợi của CNTB so với chế độ  phong kến đã   làm thay đổi căn bản cục diện các nước trên thế  giới qua H.19­Lược  đồ  khu  vực Mĩ la tinh đầu thế kỉ XIX. Để  sử  dụng lượ c đồ  này GV cần có sự  chuẩn bị  chu đáo (phóng to bản đồ) và nhắc nhở  học sinh nghiên cứu tìm hiểu qua bản  đồ. Giáo viên cần nắm vững nguyên tắc sử  dụng bản đồ  kỹ  năng sử  dụng và  phương tiện phải đảm bảo tính thẩm mỹ, tính khoa học, tránh cẩu thả qua loa.    Giáo viên trình bày phải nắm vững kiến thức cơ bản, liên môn để diễn đạt  lưu loát chính xác không nói chung chung. Cần tập trung vào những nội dung sau:   Trướ c hết phải lý giải đượ c: Tại sao gọi là Mỹ  la­tinh? Khu vực Mỹ  la­tinh là  một bộ  phận rất rộng lớn của Châu Mỹ  bao gồm vùng Bắc Mỹ, toàn bộ  Trung   Mỹ, Nam Mỹ  và tất cả  những hòn đảo lớn nhỏ   ở  quần đảo  Ăng ty. Diện tích  khoảng 21 triệu km2. Dân số ở TK XIX khoảng 200 tri ệu ng ười bao g ồm nhi ều   chủng tộc, trong đó có người Anhđiêng (da đỏ) là dân bản địa lâu đời, ngườ i da   Năm học 2010-2011 14
  15. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh trắng từ  châu Âu di cư  tới làm ăn, ngườ i da đen từ  châu Phi bị  bọn con buôn  châu Âu bắt đem sang bán làm nô lệ cho thực dân da trắng.+ Do  ảnh hưởng của  chủ  nghiã thực dân châu Âu kéo dài trên 3 thế  kỷ  (từ  TK XVI­XIX) nên đa số  các dân tộc  ở  đây nói tiếng Tây Ban Nha, riêng ngườ i Braxin nói tiếng Bồ  Đào  Nha, người Haiti nói tiếng Pháp và dân ở một số vùng khác nói tiếng Anh.  Nhìn chung tiếng nói của hơn 200 triệu dân trên lục địa này thuộc ngữ  hệ  latinh nên người ta gọi bộ  phận của châu Mỹ  này là Mỹ  la­tinh. GV gọi HS lên   trình bày vị trí địa lý của các nước theo 3 khu vực: Mỹ  la­tinh kéo dài từ  Mêhicô xuống Chilê, gồm 23 nước cộng hoà lớn nhỏ  và đượ c bố trí như sau:  1   nước   thuộc   Bắc   Mỹ   là   Mêhicô   +   6   nướ c   ở   Trung   Mỹ   là:   Goatêmala,  Hônđurat, Xanvađô, Nicaragoa, Coxtarica và Panama. + 5 nước thu ộc qu ần đảo  Ăngti là: Cuba, Haiti, Đôminic, Jamaica, Tôbagô + 11 nước thuộc Nam Mỹ  là:   Côlômbia,   Vênêduêla,   Ecuađo,   Peru,   Bôlôvia,   Paragoay,   Urugoay,   Chilê,  Achentina, Braxin và Guanna. Tiếp theo trình bày sự  xâm nhập của các nướ c tư  bản phươ ng Tây và cuộc   đấu tranh chống chủ  nghĩa thực dân của nhân dân Mỹ  la­tinh (TKXIX) GV cần   nêu đượ c thế mạnh kinh tế của các nướ c khu vực Mỹ la­tinh:   Năm học 2010-2011 15
  16. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh + Đây là khu vực có vị  trí chiến lược quan trọng, n ằm gi ữa hai vùng biển   lớn : Thái Bình Dương và Đại Tây Dươ ng là một khu vực  đẹp, có nhiều tài   nguyên, khoáng sản. Vì vậy ngay từ  trước thời cận đại một số  nướ c PK Châu  Âu có thươ ng nghiệp và hàng hải phát triển đã dòm ngó tới châu Mỹ nhằm xâm  chiếm thuộc địa vơ vét hàng hoá tài nguyên đem về chính quốc. + Đi đầu trong cuộc xâm chiếm thuộc địa này là Tây Ban Nha và Bồ  Đào  Nha, hai nước này đã cố  gắng du nhập chế  độ  PK và thiết lập hệ  thống thuộc  địa rộng lớn  ở Mỹ  la­tinh, bóc lột một cách tàn bạo từ  nô lệ  da đen mua ở  châu  Phi và nhân dân lao động (các màu da). Đến giữa TK XVI thế  lực của TB Anh   và Hà Lan mới trỗi dậy đã nhanh chóng xâm nhập Mỹ  la­tinh. Để  tranh dành  thuộc địa, các nướ c Anh, Pháp, Hà Lan đã dùng vũ trang tấn công nhiều khu vực   như  Braxin, Guanna của (Bồ Đào Nha) ; Pháp cướp đượ c Haiti và một số  nước  ở quần đảo Ăngti. Nhưng những cuộc chi ến tranh gi ữa các nước thực dân tranh  dành thuộc địa của nhau đã gieo rắc rất nhiều tai họa cho nhân dân Mỹ la­tinh. + Hơn 3 thế  kỷ  quằn quại dưới ách thống trị  của thực dân TBN, BĐN (từ  TK XVI đến XIX) nhân dân Mỹ  la­tinh đã không ngừng đấu tranh chống xâm  lượ c. Đặc biệt từ  đầu TK XIX dưới tác động của cách mạng TS Pháp và cách  mạng TS Mỹ, phong trào đã  lớn mạnh và đúng lúc TBN, BĐN suy yếu, các   nướ c thuộc địa của 2 nướ c này đã nỏi dậy dành độc lập khai sinh cho một loạt  các quốc gia TS mới  ở  Mỹ  la­tinh, xoá bỏ  một hậu phương lớn bao la của th ế  lực PK châu Âu. Cuộc đấu tranh của nhân dân Mỹ  la­tinh phản ánh điều gì ?   (Học sinh thảo luận và rút ra nhận xét) Việc sử  dụng bản đồ  trong SGK hoặc   bản đồ  được treo phóng to trên bảng là một yêu cầu cấp thiết trong dạy học   lịch sử  để  phát triển tư  duy cho học sinh HS. Khi s ử d ụng giáo viên nhất thiết   phải giới thiệu cụ  thể  cho các em các ký hiệu ghi trên bản đồ, đồng thời tập   cho các em quan sát, đọc bản đồ và tìm hiểu nội dung lịch sử đượ c thể hiện trên  bản đồ. Có như  vậy thì các em mới có thể  tự  mình khai thác đượ c những kiến  thức cơ  bản tiềm  ẩn trong b ản đồ  để  phục vụ  cho bài học và từ  đó khả  năng  quan sát được rèn luyện trở  thành kỹ  năng tự  học tập trên đồ  dùng trực quan  trong những tr ường h ợp các em tự nghiên cứu. Ví dụ: Khi dạy bài 6:    ở  phần II: TH33: L ược  đồ  các nướ c đế  quốc và  thuộc địa đầu TK XX GV sử  dụng lược đồ  treo tườ ng để  HS quan sát chung,  gọi 1 hoặc 2 em lên kể tên và vị  trí các nướ c đề  quốc và thuộc địa. Tiếp đó GV  đặt câu hỏi để học sinh suy nghĩ và trả lời: Năm học 2010-2011 16
  17. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh L- î c ®å c¸ c n- í c ®Õquèc vµ thuéc ®Þa ®Çu TK XX ? Tại sao các nước Đế quốc lại tăng cườ ng xâm lược thuộc địa ? ? Em nhận xét gì về sự phân chia thuộc địa giữa các nướ c Đế quốc ?  ? Hệ quả của sự phân chia đó ? ? Sau khi học sinh trả  l ời giáo viên hệ  thống lại và cho các em lập bảng  so sánh về tiềm năng thuộc địa của các nướ c Đế quốc qua 2 thời điểm 1870  và   1973 ?   Như  vậy nhờ  sự  phối hợp đồng bộ  phươ ng pháp thuyết trình, đàm thoại   với việc sử  dụng trực quan giáo viên có thể  huy động tối đa khả  năng làm việc   của học sinh trên lớp: tai nghe, m ắt thấy, óc phân tích tổng hợp, trực tiếp thực   hành...để  hiệu quả  bài học đượ c nâng cao. Qua sự  phân tích và minh hoạ  trên  cho chúng ta thấy: sử  dụng đồ  dùng trực quan trong dạy học l ịch s ử  là một bộ  phận hữu cơ  của toàn bộ  hoạt động giáo dục của thầy và trò trên lớp. Nó phải   đượ c kết hợp chặt chẽ  với các phương pháp dạy học khác như: Nêu vấn đề,   phân tích, giải thích, miêu tả, tường thuật, so sánh, tổng hợp... đồng thời phải   đảm bảo những yêu cầu về  mặt sư  phạm. Công việc này không chiếm nhiều   thời gian, không làm loãng trọng tâm của bài giảng, không làm mất sự  tập trung  chú ý của học sinh.      Năm học 2010-2011 17
  18. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh C. KẾT LUẬN 1. Kết quả:         Sau một năm áp dụng đề  tài này vào thực tiễn giảng dạy môn lịch sử  thé   giới lớp 8 thì kết quả  và chất lượ ng bộ  môn lịch sử  lớp 8 kì I năm học 2009 –   2010 được nâng lên rõ rệt. Số  học sinh khá giỏi tăng, yếu kém giảm, học sinh  say mê, hứng thú học tập bộ  môn, phát biểu ý kiến xây dựng bài, ham học hỏi   tìm hiểu... Cô thÓ : Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu sl % sl % sl % sl % 8A 30 5 16.6 10 33.3 14 46.6 1 3.5 8B 32 6 18,7 10 31.2 15 46.8 1 3.3 Cộn 62 11 17.7 20 32.2 29 46.9 2 3.2 g Từ kết quả đạt đượ c trên, có thể  khẳng định một điều rằng đồ  dùng trực   quan trong dạy học lịch s ử  có vị  trí vô cùng quan trọng, trong quá trình giảng   dạy, giáo viên biết sử dụng dồ dùng trực quan một cách hợp lý, sáng tạo sẽ tạo   điều kiện cho học sinh ti ếp thu ki ến th ức l ịch s ử m ột cách vững chắc nâng cao   chất lượng bộ  môn. Với kinh nghiệm sử  dụng đồ  dùng trực quan của tôi trong   dạy phần lịch sử  thế  giới lớp 8, ch ất l ượng môn lịch sử   ở  trường THCS Hà  Ninh đã đượ c nâng lên rõ rệt: Số học sinh yếu kém giảm hẳn, học sinh khá giỏi   tăng lên là điều kiện, cơ  sở  quan tr ọng để  chọn nguồn đội tuyển học sinh giỏi   lớp 9 môn lịch sử  trong kỳ  thi năm học tiếp theo và quan trọng hơn là nâng cao  chất lượng giáo dục chung cho nhà trườ ng.  Qua phần phân tích lí luận và thực nghiệm trên tôi rút ra một số  kết luận   sau : Một là : Sử dụng đồ dùng trực quan trong d ạy học l ịch s ử là một phươ ng  pháp tối  ưu, cần thiết và bắt buộc đối với mỗi giáo viên. Muốn làm tốt và sử  dụng có hiệu quả thì giáo viên phải nắm vững lý luận và phươ ng pháp dạy học   kết hợp nhuần nhuyễn với các phươ ng pháp dạy học khác.  Hai là : Việc sử dụng kênh hình phải có sự  lựa chọn và chuẩn bị  chu đáo   cả  về  nội dung và hình thức, tạo không khí học tập chủ  động cho học sinh.   Không nên gượng ép, gây gò bó cho tiết học.  Năm học 2010-2011 18
  19. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh     Ba là : Cần hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu bài trên cơ  sở  tự  khai thác  kênh hình trong sách giáo khoa để  phát huy tính tự giác tính tích cực của các em  trong học tập lịch sử. Tuy nhiên cùng với việc tích cực sử  dụng đồ  dùng trực quan trong giảng d ạy,   bản thân tôi luôn áp dụng phương pháp dạy học tích cực, đổi mới kiểm tra đánh   giá và khích lệ tinh thần học t ập c ủa h ọc sinh. 2. Đề xuất, kiến nghị:      Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo: Nên tổ  chức cho giáo viên bộ  môn   lịch sử đượ c đi tham quan các di tích lịch sử địa phương, lịch sử dân tộc để  giáo  viên có thêm tư  liệu giảng dạy, đồng thời tăng cườ ng tổ  chức các buổi dự  giờ,   sinh hoạt chuyên môn theo cụm liên trườ ng dể  giáo viên môn lịch sử  có điều   kiện đượ c dự giờ, đượ c giao lưu học hỏi kinh nghi ệm gi ảng d ạy vv...         Đối với trường THCS Hà Ninh: Mua đầy đủ trang thiết bị và đồ  dùng dạy  học, tư  liệu tham khảo cho bộ  môn, mua thêm máy tính, đèn chiếu đa năng để  giáo viên có điều kiện sử dụng đồ dùng trực quan trên máy chiếu.          Khi tiến hành đề tài này tôi không có tham vọng đồ  dùng trực quan là một   biện pháp tối  ưu mà chỉ xem nó là một phươ ng tiện quan trọng cùng với những   phươ ng tiện dạy học khác góp phần đổi mới phươ ng pháp, nâng cao chất lượng   gáo dục bộ môn.         Trong quá trình tiến hành đề  tài mặc dù đã có nhiều cố  gắng tham khảo   tài liệu, ý kiến của đồng nghiệp. Song trình độ  và điều kiện thời gian có hạn  nên không tránh khỏi những sai sót. Rất mong sự góp ý chân thành của các thầy   cô và các bạn đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn!        Hà Ninh, ngày 14 tháng 3 năm 2011           Giáo viên                 Nguyễn Thị Hạnh Năm học 2010-2011 19
  20. GV Nguyễn Thị Hạnh Trường THCS Hà Ninh MỤC LỤC A. Phần mở đầu I. Lời mở  đầu...........................................................................................................1                 II. Thực  trạng...........................................................................................................2 1. Thực  trạng...........................................................................................................2 2. Kết quả, hiệu quả của thực  trạng.........................................................................3 B. Giải quyết vấn đề  I. Các giải pháp.......................................................................................................5 1. Giải pháp  1..........................................................................................................5 2. Giải pháp  2..........................................................................................................5 II. Các biện pháp tổ chức thực  hiện........................................................................5 1. Biện pháp 1.........................................................................................................6 2. Biện pháp 2.........................................................................................................7 C. Kết  luận...........................................................................................................16 1. Kết  quả..............................................................................................................16 Năm học 2010-2011 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2