Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học địa lí phần khái quát nền kt – xh thế giới để phát triển tư duy phê phán cho học sinh lớp 11
lượt xem 23
download
Tranh biếm họa là một công cụ dạy học đã được sử dụng ở nhiều quốc gia phát triển như Anh, Đức, Hoa Kì,… và nó đã được khẳng định là mang lại các giá trị to lớn vượt ra ngoài những mục tiêu mà nền giáo dục đặt ra.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học địa lí phần khái quát nền kt – xh thế giới để phát triển tư duy phê phán cho học sinh lớp 11
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến Ngày nay, khi cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật phát triển như vũ bão kéo theo những thay đổi lớn lao trong đời sống kinh tế xã hội, khi mà thế giới đang bước vào thời đại của toàn cầu hóa và phát triển bền vững thì ngành giáo dục và đào tạo đang đứng trước những thách thức và vận hội mới. Từ những năm 90, những đổi mới về mục tiêu, nội dung chương trình, sách giáo khoa đã được tiến hành và trên thực tế nó đã tạo ra những cơ sở rất quan trọng cho việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy – học địa lí nói riêng. Nhưng điều đáng tiếc là cho đến nay, việc đổi mới phương pháp dạy học còn diễn ra chậm chạp, chưa đáp ứng những yêu cầu của cải cách giáo dục và làm cho chất lượng dạy học vẫn chưa được nâng cao một cách đáng kể. Theo “Báo cáo giám sát toàn cầu về giáo dục cho mọi người mục tiêu có đạt được vào năm 2015” được UNESCO công bố ngày 3/11/2008, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ không đạt được sáu mục tiêu giáo dục cho mọi người đến năm 2015. Cũng theo báo cáo này, Việt Nam đang đứng thứ 79 về chỉ số phát triển giáo dục cho mọi người (EDI) trong tổng số 129 nước. Điều này đồng nghĩa chỉ số phát triển giáo dục của Việt Nam tụt thêm 9 bậc so với năm 2004. Như vậy, nhu cầu về đổi mới toàn diện giáo dục đã được đặt ra để giải quyết những hạn chế hiện nay. Một trong những khâu quan trọng của công cuộc cải cách toàn diện giáo dục nước ta là đổi mới phương pháp dạy học. Đối với bộ môn địa lí ở trường THPT, việc đổi mới phương pháp dạy học trước hết được thể hiện ở sự đổi mới phong cách dạy của thầy và 1
- phong cách học của trò. Phong cách dạy học mới thể hiện ở những đặc trưng hết sức quan trọng như người thầy thiết kế các tình huống để học sinh tự khai thác, tự chiếm lĩnh và kiến tạo kiến thức và tạo ra các cơ hội để học sinh có thể suy nghĩ nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn và có trách nhiệm nhiều hơn đối với việc học tập của mình. “Mục tiêu cuối cùng của hệ thống giáo dục là chuyển giao cho cá nhân gánh nặng của việc học. Chúng ta mới chỉ nghĩ về bộ óc như một nhà kho cần phải chứa đầy, trong lúc chúng ta nên nghĩ về nó như một công cụ cần phải được sử dụng” (J.W.Garderner). Địa lí không chỉ dừng lại là một môn học có tính môi trường mà nó còn có tính không gian và tính thời sự. Hiểu rõ những đặc trưng rất nổi bật đó, các giáo viên địa lí đã biết khai thác tối đa những tiện ích của khoa học công nghệ, của hệ thống tranh ảnh, bản đồ để làm cho bài giảng trở nên sinh động hơn. Trong những công cụ giảng dạy đó, bản đồ là một yếu tố đã được khai thác từ lâu và nó được coi là quyển sách giáo khoa thứ hai của môn địa lí. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, khi những hiểu biết mà bản đồ mang đến chỉ dừng lại ở những đường biên giới, những địa danh và những sự vật địa lí khô khan thì tranh ảnh lại chuyên chở một giá trị đặc biệt của tính trực quan và tính hứng thú. Tranh ảnh địa lí được coi là một trong những nhân tố tác động quan trọng nhất hình thành nên yếu tố động lực và cảm xúc đối với người học, là yếu tố quyết định khả năng hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm. Qua thực tế giảng dạy, có thể đánh giá được ý nghĩa to lớn của hệ thống tranh ảnh trong dạy học địa lí, đặc biệt là một hệ thống tranh ảnh khá mới mẻ tranh biếm họa. Tranh biếm họa là một công cụ dạy học đã được sử dụng ở nhiều quốc gia phát triển như Anh, Đức, Hoa Kì,… và nó đã được khẳng định là mang lại các giá trị to lớn vượt ra ngoài những mục tiêu mà nền giáo dục đặt ra. Tuy nhiên đối với nước ta, việc sử dụng tranh biếm họa trong quá trình dạy học còn khá mới mẻ. Thực tế giảng dạy địa lí cho thấy, những vấn đề 2
- phức tạp của kinh tế xã hội thế giới và các vấn đề về môi trường không được phán ánh đầy đủ và sâu sắc trong hệ thống bản đồ giáo khoa treo tường thì chúng lại được thể hiện rõ nét trong tranh biếm họa, vì tranh biếm họa thực sự là tấm gương đầy đủ phản chiếu các vấn đề đương đại theo các con đường tiếp cận văn hóa khác nhau. Với sức mạnh biểu đạt riêng biệt của mình, tranh biếm họa còn có khả năng tác động đến thái độ, hành vi của người học, giúp người học định hướng đúng giá trị sống cho mình thông qua những góc khuất về cuộc sống mà tranh biếm họa phản ảnh được. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học địa lí phần khái quát nền kt – xh thế giới để phát triển tư duy phê phán cho học sinh lớp 11 THPT ” nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giảng dạy địa lí trong nhà trường phổ thông. 2. Thực trạng dạy và học địa lí hiện nay 2.1. Thực trạng Môn địa lí là một môn học trong chương trình giáo dục phổ thông, cũng giống như nhiều môn học khác trong hệ thống giáo dục nước ta, việc dạy học địa lí đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách giáo dục. Bức tranh chung về dạy học địa lí ở các trường THPT hiện nay là: Phổ biến trong cách dạy hiện nay vẫn là thuyết trình, liệt kê kiến thức, thầy nói nhiều mà không kiểm soát được công việc học của người học trò. Trong nhiều giờ học địa lí, học sinh có ít cơ hội để tự xây dựng nên kiến thức của mình. Các em ít có điều kiện suy xét, thảo luận và sử dụng những ý tưởng nhằm tái sắp xếp cấu trúc những ý tưởng đó thành những ý nghĩa riêng và làm chủ những ý tưởng mà các em xử lí. 3
- Việc tạo động cơ, gây hứng thú cho học sinh và thực hiện các hình thức khen thưởng động viên khác nhau đã không được giáo viên quan tâm một cách thích đáng. Trong một số lớp học, học sinh yếu kém được giao những bài tập như các em học sinh khá, giỏi, bài tập khó đến mức các em không giành được thành công thực sự. Trong nhiều giờ học địa lí, xuất hiện hội chứng “nhàm chán”. Học sinh tỏ ra không quan tâm nhiều đến nội dung bài học, ít chịu trách nhiệm về việc học của bản thân mình và trở thành người học thụ động. Trong suy nghĩ của nhiều học sinh, môn địa lí là môn học của trí nhớ, môn học thuộc lòng chứ không phải là môn học của tư duy. Như vậy, có thể nói, cách dạy và học địa lí nêu trên đã làm hại đến việc phát triển trí tuệ của học sinh, làm học sinh mất hết hứng thú khi học môn địa lí và làm cho việc dạy học địa lí trở thành gánh nặng của cả thầy và trò. Như vậy, một yêu cầu đặt ra là phải tiến hành đổi mới toàn diện phương pháp dạy – học địa lí ở trường phổ thông. 2.2. Nguyên nhân Sau khi tiến hành phân tích thực trạng kém hiệu quả trong dạy học môn địa lí, tôi đã tiến hành một khảo sát nhỏ để tìm ra nguyên nhân của tình trạng trên. Đối tượng khảo sát là 245 học sinh tại trường, với cả 3 khối học và các trình độ khác nhau. Phiếu điều tra được thiết kết với 4 câu hỏi nhằm vào 2 vấn đề: thứ nhất là tìm hiểu mục đích và thái độ của học sinh đối với môn địa lí, thứ hai là tìm hiểu cách thức giảng dạy của giáo viên. Câu hỏi 1 Mục đích học tập môn địa lí của em là gì? a. Học để nâng cao hiểu biết: 73.6% b. Học để thi: 26.4%. 4
- Câu hỏi 2 Em cảm thấy môn địa lí tạo cho em: a. Sự hứng thú: 33.1%. b. Bình thường: 48.5%. c. Nhàm chán: 18.4%. Câu hỏi 3 Mức độ thường xuyên của một số phương pháp giảng dạy của giáo viên: a. Phương pháp giảng dạy đọc – chép: b. Giáo viên khuyến khích học sinh nêu câu hỏi và bày tỏ quan điểm riêng về các vấn đề của bài học c. Giáo viên nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ, tranh luận d. Giáo viên cho học sinh tham gia thảo luận, làm việc nhóm Câu hỏi 4 Các lí do học sinh chưa tích cực trao đổi trong các tiết học địa lí a. Thiếu sự chuẩn bị về những kiến thức cần thiết b. Thiếu tự tin vào bản thân c. Giáo viên không cởi mở, học sinh mang tâm lí e sợ d. Lớp học quá đông Thực tế cho thấy rằng, hầu hết các em vẫn coi môn địa lí là một môn học phụ, nên đã có tới 73,6% các em cho rằng học môn địa lí để đi thi và hoàn thành điểm số, như vậy chỉ còn 26,4% các em học môn địa lí là do hứng thú nhằm nâng cao hiểu biết của bản thân. Bên cạnh đó, có 33,1% học sinh thấy hứng thú trong các tiết học địa lí, có tới 18,4% học sinh cảm thấy nhàm chán. Các câu hỏi thứ 3, 4 nhằm phần nào lí giải nguyên nhân của tình trạng trên. Dù đã có những đổi mới trong phương pháp giảng dạy, nhưng vẫn có tới 55% học sinh cho rằng phương pháp đọc – chép vẫn được các giáo viên sử dụng thường xuyên trong các tiết học, trong khi đó, 21% học sinh khác lại cho rằng mức độ này là rất thường xuyên. Bên cạnh đó, có đến 49% học sinh cho rằng giáo viên chỉ thỉnh thoảng cho học sinh tham gia thảo luận nhóm. Không những thế, về việc giáo viên tương tác với học sinh, chỉ có 5
- 28% học sinh tham gia cuộc điều tra này cho rằng giáo viên thường xuyên nêu vấn đề để học sinh trao đổi, thảo luận, và cũng chỉ có 13% học sinh thường xuyên được giáo viên khuyến khích nêu câu hỏi và bày tỏ những quan điểm riêng của mình về bài học. Con số này thực sự quá thấp so với những yêu cầu đặt ra trong phương pháp dạy "lấy người học làm trung tâm” mà Việt Nam đang hướng đến. Như thế, cũng có nghĩa là học sinh không có cơ hội nêu câu hỏi, trao đổi, thảo luận hoặc nêu những quan điểm, ý kiến riêng của mình về những vấn đề của bài học. Học sinh không có cơ hội để tương tác với giáo viên, do đó giáo viên vẫn là người “thống trị” lớp học và học sinh vẫn chỉ là người biết lắng nghe và vâng lời. 2.3. Giải pháp Như vậy, theo thực trạng trên, một yêu cầu cấp bách đặt ra là phải tiến hành đổi mới phương pháp dạy học địa lí, quá trình đổi mới này phải hướng tới cả hai đối tượng là người dạy và người học. Sự đổi mới phương pháp dạy học địa lí chỉ thành công khi phương pháp dạy học phát huy được 6
- tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên. Lí luận dạy học hiện đại đã khẳng định con người phát triển trong hoạt động và bằng hoạt động. Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học địa lí về thực chất là quá trình phát huy mạnh mẽ các hoạt động tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh theo hướng tăng cường các hoạt động độc lập và các hoạt động tương tác của học sinh. Cụ thể là: Phải làm sao để người học trở thành chủ thể hành động, tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo trong hoạt động để tự kiến tạo kiến thức. Phải làm sao để tạo ra và duy trì ở học sinh những động lực học tập mạnh mẽ. Phải phát triển ở học sinh khả năng tự đánh giá. Như vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học địa lí chỉ thành công khi chúng ta đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa phương pháp dạy học địa lí, tổ chức dạy học địa lí theo kiểu mới trên cơ sở tăng cường áp dụng các phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học hiện đại kết hợp với việc cải biến các phương pháp dạy học truyền thống theo những định hướng mới nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học địa lí. 7
- PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: TRANH BIẾM HỌA – MỘT CÔNG CỤ DẠY HỌC HỮU ÍCH ĐỂ PHÁT TRIỂN TƯ DUY PHÊ PHÁN CHO HỌC SINH 1. Khái quát chung về tranh biếm họa 1.1. Khái niệm về tranh biếm họa Thuật ngữ “tranh biếm họa” có gốc latinh là “Carrus” và trong tiếng Ý “caricare” nghĩa là “cường điệu”. Lần đầu tiên, thuật ngữ này xuất hiện trong các bức tranh của họa sĩ người Ý Carracci từ những năm cuối thế kỷ XVI. Ở Đức, thuật ngữ “karikatur” có nghĩa là “tranh biếm họa” xuất hiện muộn và mãi sau mới được sử dụng rộng rãi vào giữa thế kỷ XIX. Theo từ điển tiếng Đức “tranh biếm họa” gồm 2 lớp nghĩa: thứ nhất là “những bức tranh hài hước, phóng đại hoặc tương tự về một người, một vật hay sự kiện này thông qua sự hài hước hoặc nhấn mạnh châm biếm bằng cách chú trọng vào một số tính chất, đặc trưng để chế giễu”, lớp nghĩa thứ hai, ở cấp độ mạnh hơn nghĩa là “nhạo báng”. Ở Việt Nam, tranh biếm họa được quan niệm“là một loại hình nghệ thuật có chính kiến rõ ràng dùng ngôn ngữ tạo hình đặc biệt vạch ra, biểu 8
- đạt một cách cường điệu, khuếch đại được các mâu thuẫn nội tại đối với các quan hệ chính trị, xã hội, giá trị đạo đức,… trong sự hình thành và phát triển xã hội loài người”. Nội dung mà tranh biếm họa chú trọng hướng tới là những vấn đề xã hội có tính chất thời sự, những người nổi tiếng, những sự kiện, xu hướng phát triển của xã hội và những chủ đề, nội dung cần có ý kiến bình luận và đánh giá. Sức nặng của một bức tranh biếm họa hay có giá trị hơn nhiều các bài bình luận, các bài diễn văn dài lê thê, cho nên, biếm họa đã từng được coi là “vũ khí sắc bén” trong nhiều lĩnh vực. (Tham khảo trang: hoangthinga.wordpress.com.) Sức mạnh và khả năng dẫn truyền thông tin của một bức tranh biếm họa nằm ở khả năng hiện thực hóa những vấn đề phức tạp, rắc rối. Điều đó giúp cho người đọc cảm thấy sự thú vị sâu sắc của những vấn đề mà trước đây trên các kênh thông tin khác họ có thể chưa nắm được. Tranh biếm họa chứng đựng mâu thuẫn giữa vẻ bề ngoài hài hước và lối diễn đạt bên trong thâm thúy, sâu sắc khiến người xem phải suy nghĩ, tìm hiểu. 1.2. Phân loại tranh biếm họa Tranh biếm họa được phân loại khá phức tạp, mỗi nhà nghiên cứu dựa trên các tiêu chí khác nhau để phân chia, theo cách phân loại của Đức, thì cách phân loại phổ biến nhất là quan điểm của Dietrich Grünewald và Wolfgang Marienfeld. Theo Dietrich Grünewald, ông chia tranh biếm họa theo ba tiêu chí sau: – Xét trên tiêu chí lĩnh vực có: tranh biếm họa về chính trị; tranh biếm họa về kinh tế; tranh biếm họa về quân sự; tranh biếm họa về văn hóa;… – Xét theo cách trình bày có hai loại: tranh biếm họa hình ảnh và tranh biếm họa có cả hình ảnh lẫn lời dẫn. 9
- – Xét theo mức độ thể hiện có bốn loại: tranh biếm họa vắn tắt; tranh biếm họa kỳ cục – khó hiểu; tranh biếm họa tự nhiên và tranh biếm họa sống động. Theo Wolfgang Marienfeld, tranh biếm họa có thể được chia thành các loại như sau: – Theo cấu trúc thì có ba loại: tranh biếm họa về sự vật, sự việc; tranh biếm họa một nhóm người, một tổ chức, quốc gia… và tranh biếm họa cá nhân cụ thể. – Theo nội dung thì tranh biếm họa được chia như sau: tranh biếm họa về một sự kiện lịch sử, tranh biếm họa về quá trình lịch sử và tranh biếm họa về trạng thái. (Tham khảo trang: hoangthinga.wordpress.com.) Theo cách phân loại phổ biến hiện nay ở Việt Nam, tranh biếm họa được chia làm 4 loại: tranh biếm họa chính trị, tranh biếm họa hài hước, tranh biếm họa châm biếm và chùm tranh biếm họa vui. 1.2.1. Tranh biếm họa chính trị Tranh biếm họa chính trị là những lời bình sâu sắc của tác giả, thông qua những nét vẽ tạo hình để phán ánh những sự kiện chính trị nóng bỏng của thời đại. Chính yếu tố biếm họa, phóng đại trong bức tranh sẽ kích thích thái độ và giúp người xem nhìn nhận lại những giá trị hay sự kiện chính trị xảy ra trong xã hội. 10
- Tranh biếm họa chính trị còn mang tính chất phê phán sâu sắc, tế nhị những mặt trái của các vấn đề xã hội hay những nhân vật nổi tiếng, có tầm ảnh hưởng trên thế giới. Mục đích chính của tranh biếm họa là sự khuyến khích người xem đồng tình với những quan điểm, cách nhìn của tác giả đối với vấn đề đó. Trên đây là một bức tranh biếm họa thể hiện quan điểm của tác giả về ảnh hưởng của Hoa Kì trong các vấn đề hạt nhân của Iran. Nhân vật chính trong bức tranh là tổng thống đương nhiệm của Hoa Kì – Obama. Nhân vật này được tạo hình như một gã cao bồi miền Tây nước Mĩ, trên tay là một ván bài có dòng chữ Iran. Trên mặt bàn: là hình ảnh các dụng cụ: thuốc nổ, dao, súng – đây là các lựa chọn cho việc giải quyết các vấn đề hạt nhân cho Iran: chiến tranh, một lệnh cấm vận hay sự thỏa hiệp và một lời trích dẫn: tất cả lựa chọn đều nằm trên bàn này. Như vậy khi đưa ra bức tranh biếm họa này, tác giả đã thể hiện quan điểm rõ ràng của mình về thái độ của Hoa Kì trong vấn đề hạt nhân của Iran rằng: Hoa Kì luôn coi vấn đề hạt nhân của Iran là một ván bài, trong đó người chơi bài là Hoa Kì, và Iran chỉ có 2 sự lựa chọn duy nhất: hoặc là chiến tranh, hoặc phải thỏa hiệp. Chúng ta có thể sử dụng những bức tranh biếm họa chính trị để trang bị kiến thức và giúp học sinh có khả năng bình luận, đánh giá đối với những vấn đề chính trị xã hôi phức tạp diễn ra trên thế giới hay ở Việt Nam. 11
- 1.2.2. Tranh biếm họa hài hước Tranh biếm họa hài hước là những bức tranh nhỏ, phản ánh muôn màu đời sống xã hội, với cái nhìn hết sức hài hước, tác giả sẽ giúp người xem tranh được giải trí thông qua nụ cười hóm hỉnh. Nhưng ẩn chứa đằng sau yếu tố vui vẻ mà bức tranh mang lại, chính các yếu tố phóng đại trong bức tranh sẽ giúp người xem phải suy nghĩ sâu hơn về những sự kiện xã hội đang được bức tranh thể hiện. Thông qua đó, người xem tranh sẽ rút ra được bài học cho mình. Bức tranh bên thể hiện một sự phóng đại trong cách tham gia giao thông của một bộ phận giới trẻ Việt Nam hiện nay. Bức tranh thể hiện hình ảnh một thanh niên đang thực hiện một điệu múa ba lê trên chiếc xe máy trong khi lưu thông trên đường. Một dòng ghi chú nhỏ khá hài hước, thể hiện thông điệp của tác giả: thể hiện là vào viện. Đó là sự thể hiện quá mức cái tôi, sự cá tính dẫn tới sự nguy hiểm cho chính bản thân và người xung quanh. Thông qua bức tranh này, tác giả muốn người xem nhìn nhận lại văn hóa tham gia giao thông của chính mình. 12
- 1.2.3. Tranh biếm họa châm biếm Tranh biếm họa châm biếm thường được minh họa trên các sách báo. Nó sử dụng những yếu tố được phóng đại, cường điệu hoặc bóp méo, xuyên tạc những đặc điểm quan trọng về một người hoặc một nhóm người để tạo ra những chân dung có thể dễ dàng nhận dạng bằng thị giác. Hầu hết tranh biếm họa chính trị và tranh biếm họa châm biếm đều tập trung vào khắc họa chân dung của những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn đối với xã hội. Một vài tranh biếm họa châm biếm khi khắc họa những nhân vật nổi tiếng thường sử dụng lối đả kích và đôi khi nó còn mang tính chất khiêu khích, nhạo báng. Tranh biếm họa châm biếm độc lập khác với những tranh biếm họa chính trị bởi một khía cạnh quan trọng: tranh biếm họa chính trị, ý tưởng đến trước và những tác phẩm nghệ thuật từ đó mới xuất hiện. Còn tranh biếm họa châm biếm thì là những nét vẽ thêm vào đối với chân dung của những nhân vật nổi tiếng. Bức tranh trên là một sự châm biếm đối với vấn đề nợ của nước Mĩ. Bức tranh khắc họa 2 nhân vật nổi tiếng đại điện cho Hoa Kì và Trung Quốc. Đó là nhân vật chú Sam (đại diện cho Hoa Kì) đang còng lưng kéo chiếc xe kéo trên đó có chủ tịch nước Trung Quốc – Hồ Cẩm Đào đang đọc một bài báo về khoản nợ của Hoa Kì. 13
- Thông qua bức tranh này, tác giả giúp người xem có thể phần nào phán đoán được tương lai của nước Mĩ khi mà khoản nợ của nước này ngày càng tăng và chủ nợ của Hoa Kì không ai khác chính là Trung Quốc – nền kinh tế lớn thứ hai đang bám đuổi rất sát nền kinh tế Hoa Kì. 1.2.4. Chùm tranh biếm họa vui Tranh biếm họa vui là một tập hợp những bức tranh rời nhau để minh họa cho một câu chuyện. Tranh biếm họa vui cũng có thể mang đến những nụ cười thú vị, khoái trá và đôi khi chúng cũng có vai trò như tranh biếm họa chính trị. Cả bốn loại tranh biếm họa đã nêu trên đều có khả năng sử dụng trong dạy học địa lí, mỗi loại có một đặc điểm riêng thích hợp với những bài học và từng nội dung học tập khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta nên sử dụng tranh biếm họa chính trị và tranh biếm họa hài hước vì hai loại tranh này một mặt vừa kích thích sự tò mò, tư duy phê phán, khả năng suy nghĩ độc lập của học sinh đối với các sự kiện mang tính chất thời sự và vừa sức đối với nhận thức của học sinh, mặt khác nó tạo ra tiếng cười thú vị, sâu sắc làm cho không khí lớp học sôi nổi. Đối với tranh biếm họa châm biếm và chùm tranh biếm họa mặc dù tính phê phán của nó rất cao nhưng tương đối khó đối với nhận thức của học sinh. Để giải thích nội dung của tranh châm biếm họa đòi hỏi các em có một vốn hiểu biết tương đối rộng liên quan nhiều đến các nhân vật chính trị điển hình. Còn đối với chùm tranh biếm họa thì sẽ mất nhiều thời gian để học sinh có thể đưa ra ý nghĩa cuối cùng của toàn bộ chùm tranh. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể sử dụng hai loại tranh này trong những buổi ngoại khóa hay thảo luận ngoài giờ học. 14
- Giáo viên có thể tùy chọn từng loại tranh biếm họa sao cho phù hợp với mục đích của mình cũng như nội dung của bài học để có thể mang lại những hiệu quả cao nhất. 2. Ý nghĩa của việc sử dụng tranh biếm họa trong dạy h ọc phát tiển tư duy phê phán cho học sinh 2.1. Khái quát chung về tư duy phê phán Tư duy phê phán (critical thinking) là quá trình vận dụng tích cực trí tuệ vào việc phân tích, tổng hợp, đánh giá sự việc, ý tưởng, giả thuyết… từ sự quan sát, kinh nghiệm, chứng cứ, thông tin, và lý lẽ nhằm đưa ra nhận định về sự việc, ra quyết định, và hình thành cách ứng xử của mỗi cá nhân. Tư duy phê phán là nền tảng để phát triển tư duy độc lập, yếu tố không thể thiếu của sự thành đạt, khi con người thường xuyên đối diện với những vấn đề đa dạng phải giải quyết trong cuộc sống. Tư duy phê phán là bước đi thiết yếu dẫn đến tư duy sáng tạo. Phê phán khách quan giúp ta có một cái nhìn tích cực tránh cái sai, cái xấu, cái lỗi thời và hướng đến cái mới tốt hơn, hoàn hảo hơn, có ích hơn trên con đường không ngừng sáng tạo. Để có được tư duy phê phán chúng ta phải vận dụng cách nghĩ và lập luận logic với các kỹ năng như: phân loại, so sánh, phân tích trình tự, nguyên nhân tác động, phép diễn dịch, quy nạp, loại suy, tổng hợp, dự đoán, lập giả thuyết, đánh giá, ra quyết định, lập kế hoạch và giải quyết vấn đề. Một điều đáng tiếc là phương pháp giáo dục hiện nay của chúng ta đang nặng về truyền đạt, nhồi nhét kiến thức và có phần áp đặt, theo mẫu, thiếu phát huy suy nghĩ độc lập của học sinh. Triết gia Pháp J.J. Rousseau cho rằng: “Nếu chỉ nhào nặn con người theo duy nhất một trạng thái thì anh ta sẽ trở nên vô dụng trước mọi tình huống khác”. Thật khó có thể đào tạo nên những con người năng động, sáng tạo một khi học sinh luôn chịu áp lực rất lớn không những từ chương trình quá tải mà còn vì phải làm theo những 15
- bài mẫu, đáp án mẫu, phải ghi nhớ những kiến thức và lý lẽ có sẵn trong bài giảng, bất chấp có hoặc có còn phù hợp với thực tế cuộc sống và kiến thức của nhân loại hay không. Với quan điểm giáo dục lệch lạc so với thế giới hiện đại như vậy, tính năng động và năng lực tư duy sáng tạo sẽ bị thui chột dần và dễ tạo ra những con người dễ phục tùng, làm theo, nói theo, nhìn sự việc bằng con mắt của người khác, đánh mất tư duy độc lập, suy nghĩ và hành động bằng cái đầu của người khác, rất xa lạ với yêu cầu cuộc sống. Phương pháp dạy học bằng tư duy phê phán là phương pháp người dạy đưa ra các câu hỏi theo tiêu chí: sáng tỏ, độ tin cậy, sự đúng đắn, độ chính xác, hợp lý, không thiên vị. Từ đó, yêu cầu người học phải tự suy nghĩ, tự tìm kiếm thông tin cho mình, tìm tòi những ý tưởng mới và tranh luận trong môi trường học tập. “Phát triển tư duy phê phán cho học sinh có thể đem lại lối học tập – suy nghĩ mở, nó có thể khiến học sinh am hiểu về một số các đề tài nhất định mà họ được yêu cầu nghiên cứu hơn cả các thầy cô”. 2.2. Ý nghĩa của việc sử dụng tranh biếm họa để hình thành tư duy phê phán cho học sinh Thứ nhất, tranh biếm họa có khả năng thúc đẩy sự quan tâm, thích thú đặc biệt của học sinh đối với những vấn đề chính trị xã hội, những sự kiện và xu hướng phát triển của xã hội từ đó sẽ kích thích trí tò mò của người học. Một trong những yếu điểm lớn nhất hiện nay của học sinh THPT là các em học sinh ít có những hiểu biết về các vấn đề kinh tế xã hội trong nước và quốc tế. Đây sẽ là một khó khăn rất lớn trong quá trình dạy học địa lí bởi nội dung chương trình môn địa lí (đặc biệt là địa lí lớp 11) có một phần nội dung không nhỏ đề cập đến các vấn đề có tính thời sự hàng ngày. Do thiếu hụt những hiểu biết về các vấn đề đương thời nên khi tiếp cận với nội dung bài học các em thường tỏ ra lúng túng và không có hứng thú để tiếp thu bài học. 16
- Việc đưa tranh biếm họa vào trong dạy học sẽ góp phần quan trọng để hỗ trợ, tạo sự hứng thú để học sinh quan tâm tới những vấn đề chính trị xã hội đương thời. Rất nhiều sự kiện, vấn đề có tính chất thời sự, chính trị khô khan lại được ngòi bút của các tác giả tranh biếm họa mô tả lại một các sinh động, hài hước và có thể thu hút sự chú ý của các em. Chính sự quan tâm tới những vấn đề mà tranh biếm họa thể hiện, các em sẽ đi sâu tìm hiểu, phân tích, đánh giá và rút ra cho mình những hiểu biết về thế giới đương đại và hình thành một kĩ năng phân tích, xử lí thông tin tốt hơn. Thứ hai, tranh biếm họa có khả năng kích thích sự thảo luận và tranh luận trong lớp học cũng như tạo ra một không khí học tập sôi nổi từ đó sẽ phát triển được các kĩ năng làm việc nhóm, thuyết trình và giúp học sinh có cơ hội thể hiện chính kiến của bản thân. Có thể nói, không có một nội dung học tập nào lại có thể khiến các em thảo luận và tranh luận sôi nổi bằng tranh biếm họa. Những cách nhìn khác nhau, những quan điểm trái chiều,… là những vấn đề mà chúng ta phải đối mặt khi sử dụng tranh biếm họa. Nhưng chính điều đó lại thúc đẩy học sinh của chúng ta phải tranh luận cũng như đưa ra những những lập luận chặt chẽ để bảo vệ quan điểm của mình. Sự tranh luận và những tiếng cười có ý nghĩa và giá trị đối với sự phát triển của trẻ là những nhân tố quan trọng để tạo ra một không khí học tập sôi nổi. Việc thu hút được sự chú ý, tạo được hứng thú học tập cho các em sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp ngoài ý muốn. Những tiếng cười mà tranh biếm họa mang lại cho các em là nền tảng của việc tiếp thu kiến thức một cách tích cực, là biểu hiện của sự hứng thú trong học tập và là tín hiệu của những hành động đúng. Thứ ba, bản thân tranh biếm họa cũng là một loại kênh hình, vì vậy, nó có tính trực quan cao. Bên cạnh đó, tranh biếm họa lại có yếu tố cường điệu, sự hài hước, lạ lẫm thu hút học sinh mà tranh ảnh đơn thuần không có được. 17
- Vì vậy, với tranh biếm họa học sinh không đơn thuần chỉ quan sát tranh và liên hệ đến nội dung kiến thức mà còn phải lý giải, phân tích, giải thích, đánh giá những nội dung kiến thức được “cường điệu” trong tranh. Mặt khác, tranh biếm họa cũng không “nặng nề”, không khô khan như bản đồ, lược đồ. Trong quá trình học tập với tranh biếm họa, các em sẽ phải làm việc với những bối cảnh khác nhau, những sự kiện chính trị xã hội của thế giới, tiếp xúc với nhiều nhân vật và phải đưa ra các phán đoán, dự báo, thậm chí phải tranh luận để bảo vệ quan điểm của mình. Từ việc được thực hành các kĩ năng đơn lẻ như vậy, theo thời gian các em sẽ được hình thành tư duy phê phán, nhìn nhận mọi vấn đề xảy ra trong cuộc sống dưới cái nhìn đa chiều hơn. Thứ tư, mặc dù ít nhiều tranh biếm họa mang tính chủ quan của tác giả nhưng nó cũng có có ý nghĩa sư phạm to lớn, đặc biệt trong việc dạy học địa lí trên cả ba mặt: kiến thức, thái độ và kỹ năng. Về mặt kiến thức, học sinh khi xem xét một bức tranh biếm họa, muốn hiểu được những biểu hiện trong đó nói lên điều gì, buộc học sinh phải đặt nó trong tổng thể kiến thức. Bên cạnh việc phải phân tích, học sinh phải thiết lập các mối liên hệ, các giả thuyết giữa hình ảnh và nội dung bài học để phán đoán và kết luận. Như vậy, khi sử dụng tranh biếm họa, học sinh được tái hiện một lần nữa những kiến thức liên quan đến hình ảnh và qua quá trình suy luận, kiến thức dễ khắc sâu hơn rất nhiều so với việc sử dụng các kênh hình thông thường. Về mặt thái độ, tranh biếm họa mang đến sự hấp dẫn và cuốn hút học sinh bởi chính đặc thù của tranh biếm họa. Học sinh dễ bị lôi cuốn vào yếu tố hài hước, trào phúng hay sự thể hiện biếm họa độc đáo trong bức tranh. Học sinh từ chỗ tò mò, hiếu kỳ về những yếu tố đặc biệt 18
- trong tranh, đi đến muốn tìm hiểu nội dung ẩn giấu trong bức tranh đó là gì. Có một số tranh biếm họa, khi mới nhìn học sinh có thể bật cười vì sự trào phúng của nó, nhưng sau tiếng cười sảng khoái đó, các em sẽ phân tích, tổng hợp kiến thức, liên hệ để giải thích sự ẩn dụ trong đó. Sau cùng học sinh sẽ bày tỏ được quan điểm và thái độ của mình: đồng tình hay phản đối với vấn đề được đề cập. Về kỹ năng, việc sử dụng thích hợp các tranh biếm họa sẽ thúc đẩy học sinh không thể làm việc đơn giản thông qua việc phân tích văn bản (kênh chữ) hay nghe giảng một cách đơn thuần mà nó đòi hỏi tổng hợp các kỹ năng: phân tích hình ảnh, đọc văn bản, liên hệ kênh chữ và kênh hình, phán đoán, liên hệ, suy xét và kết luận. Quá trình vận dụng các kĩ năng đểphân tích một bức tranh biếm họa đó được gọi là “sự giải mã”, bởi bức tranh biếm họa càng đơn giản thì nó lại là sự mã hóa các sự kiện bằng hình ảnh ở mức cao nhất. Khi giải mã bức tranh, tức là học sinh được lần lượt thực hiện các kỹ năng nói trên, và khi lặp lại nhiều lần, các kỹ năng của học sinh sẽ trở nên thành thục. Mặt khác, tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh được phát triển trong việc đánh giá tranh biếm họa. Các hình ảnh mang yếu tố trực quan đánh thức tư duy, đưa học sinh đi từ biết đến hiểu sâu sắc kiến thức. (Tham khảo trang: hoangthinga.wordpress.com.) Sử dụng hợp lí tranh biếm họa trong dạy học địa lí có khả năng mang lại những giá trị và ý nghĩa giáo dục to lớn. Nó không chỉ cung cấp cho học sinh một khối lượng thông tin to lớn về các vấn đề chính trị xã hội đương thời, mà nó còn có thể rèn luyện khả năng tư duy logic, tư duy phê phán và định hướng hành động cho học sinh. Tranh biếm họa sẽ là một công cụ dạy học hữu hiệu, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy trong nhà trường phổ thông hiện nay. 19
- 3. Những thuận lợi và khó khăn khi đưa tranh biếm họa vào trong dạy học địa lí 3.1. Những thuận lợi khi đưa tranh biếm họa vào trong dạy học địa lí Về điều kiện cơ sở vật chất và hệ thống thông tin phục vụ cho việc khai thác và ứng dụng tranh biếm họa trong dạy học hiện nay: ta thấy, ở hầu hết các trường THPT đều đã có đầy đủ hệ thống các phòng nghe nhìn được trang bị máy tính, máy chiếu, loa,… để đảm bảo cho các lớp học đều có thể tiếp cận tối thiểu 1 – 2 tiết học trong một tuần. Báo chí hiện nay có nội dung ngày càng đa dạng và sâu sắc phản ánh nhanh, kịp thời các vấn đề của xã hội. Đặc biệt mảng tranh biếm họa cũng thấy phổ biến hơn trong các trang báo. Đây chính là cơ hội tốt cho giáo viên và học sinh có thể tiếp cận với kho tranh biếm họa để khai thác phục vụ cho việc dạy và học. Về trình độ nhận thức của học sinh THPT hiện nay: Các em học sinh THPT ngày nay đã đạt tới một sự phát triển nhất định về thể chất và tư duy. Do được tiếp cận với công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông từ sớm nên các em đã thu nhận một khối lượng thông tin về cuộc sống xã hội lớn hơn rất nhiều, nên trong tư duy của các em đã hình thành phần nào kĩ năng phản biện trước các luồng thông tin mà các em được tiếp cận. Chính vốn kinh nghiệm sống phong phú này sẽ giúp các em giải mã những thông điệp mà mỗi bức tranh biếm họa mang đến một cách dễ dàng hơn và chủ động hơn. Ngoài ra chúng ta cũng thấy, học sinh THPT hiện nay tỏ ra tự tin, bản lĩnh và rất cá tính. Các em cũng tỏ ra quan tâm nhiều hơn tới các vấn đề đương đại, thích tranh luận để khẳng định các giá trị sống của bản thân. Đây chính là lí do chúng ta có thể kết hợp rất tốt tranh biếm họa với các phương pháp học tập tích cực khác để phát triển tư suy phê phán của học sinh. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Tiếng Anh Lớp 3 nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh
7 p | 2103 | 643
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng đồ dung trực quan trong dạy học toán cho học sinh lớp 1
21 p | 2232 | 504
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng một số ứng dụng phần mềm tin học vào trong việc dạy trẻ học
8 p | 1139 | 219
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học Toán lớp 1 nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh
34 p | 815 | 137
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng máy tính cầm tay giải nhanh một số bài tập Vật lý cấp THPT
12 p | 370 | 73
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng bản đồ tư duy trong phát triển nội dung bài mới môn Lịch sử
5 p | 319 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng một số trò chơi nhằm nâng cao hứng thú và kết quả học tập môn Toán của học sinh lớp 9 trường THCS Dân tộc Nội trú Bá Thước
22 p | 247 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng dụng cụ, thiết bị thí nghiệm trong dạy học Vật lý lớp 9
28 p | 342 | 43
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng thí nghiệm để dạy học một số bài về chất lớp 11 nâng cao theo hướng tích cực ở trường trung học phổ thông
18 p | 190 | 36
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học Địa lí lớp 12 - Cơ bản
19 p | 311 | 34
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu trong dạy học lịch sử ở trường thpt
10 p | 254 | 34
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực cho học sinh trong dạy học Lịch sử THPT
20 p | 395 | 34
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng phương pháp véc tơ và tọa độ giải một số bài toán sơ cấp thường gặp
19 p | 181 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng tính đơn điệu, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất của hàm số để khảo sát nghiệm của phương trình và bất phương trình
38 p | 151 | 21
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng máy tính bỏ túi để giải đề thi tốt nghiệp Trung học phổ thông
12 p | 150 | 19
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng giản đồ Vectơ quay trong giải bài tập dao động Vật lý 12
22 p | 169 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng véctơ và tọa độ để giải phương trình hệ phương trình và bất phương trình
28 p | 185 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng tính chất hình học trong bài toán toạ độ
29 p | 116 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn