intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Tập cho học sinh tiếp cận lịch sử qua các tư liệu trong giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

78
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm "Tập cho học sinh tiếp cận lịch sử qua các tư liệu trong giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông" được thực hiện nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém trong nhà trường và phát huy hết năng lực của các em khá giỏi nắm chắc được kiến thức bài học và hiểu sâu hơn các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Tập cho học sinh tiếp cận lịch sử qua các tư liệu trong giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông

  1. TẬP CHO HỌC SINH TIẾP CẬN LỊCH SỬ QUA  CÁC TƯ LIỆU TRONG GIẢNG DẠY LỊCH SỬ  Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI       Như chúng ta đã biết, thực tế khách quan hiện nay trên thế giới và  trong   nước   đặt   ra   nhiều   vấn   đề   phải   đổi   mới   giáo   dục.   Khuynh   hướng đổi mới của quan điểm giáo dục nói chung hiện nay là phải   hướng mục đích vào xây dựng một xã hội, trong đó, mọi người dân   bình thường đều có cơ  hội như  nhau đối với việc trau dồi sự  hiểu   biết, phát huy năng lực cá nhân, để  có thể  tham gia tích cực vào quá  trình sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và linh hoạt  giải quyết các vấn đề  do thực tế  đặt ra. Theo tinh thần đổi mới của  quan điểm giáo dục, trong hoạt động dạy và học, vai trò của người   dạy và người học phải thay đổi. Thầy phải là người tổ  chức những  tình huống học tập, có tác dụng tạo ra ở học sinh nhu cầu nhận thức,   khuyến khích và đưa các em vào những hoạt động có tính chất tự học,   tư tìm tòi, nghiên cứu, để từng bước rèn luyện cho các em các kĩ năng   cần thiết cho cuộc sống sau này, như  phát hiện vấn đề, giải quyết   vấn đề, quan sát, phê phán…        Sự đổi mới quan điểm giáo dục nhất định đưa đến sự đổi mới về  kiểu dạy học. Từ kiểu dạy học “truyền thống”, xem thầy là nhân vật  trung tâm, “ngồi cho chữ”, đến kiểu dạy “lấy học sinh làm trung tâm”,  “hướng tập trung vào học sinh, trên cơ  sở  hoạt động của học sinh” là  cả một bước tiến dài, có tính cách một sự biến đổi về chất.       Trong tinh thần đổi mới giáo dục nêu trên, việc dạy và học lịch sử  cũng cần tự  thay đổi. Bởi vì, suy cho cùng, sự  đổi mới của giáo dục,   nhất định phải thông qua mỗi giờ lên lớp của từng giáo viên bộ  môn.   Điều chúng ta cần suy nghĩ là phải tránh lối dạy có sẵn. Như vậy làm  thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh (HS) trong dạy học lịch   sử? Có rất nhiều biện pháp, ví dụ như: Phương pháp sử dụng đồ dùng  trực quan, phương pháp hướng dẫn học sinh ghi nhớ sự kiện lịch sử,   nắm vững và sử  dụng sách giáo khoa, vở  bài tập, tiến hành công tác   ngoại khoá... Nhưng việc tập cho học sinh tiếp cận lịch sử qua các tư  1
  2. liệu trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử  nói riêng là một trong  những biện pháp rất quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy của  học sinh. Quá trình hoạt động chung, thống nhất giữa thầy và trò nhịp  nhàng sẽ làm cho học sinh nắm vững hơn những tri thức, hình thành kĩ  năng, kĩ xảo và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, hình thành nhân cách  cho các em. Việc chủ động tìm tòi, khám phá những tri thức cũng góp  phần giúp các em chủ  động giải quyết các vấn đề  thực tế  của cuộc   sống sau này của mình, một cách gián tiếp đó cũng là giáo dục kỹ năng  sống cho các em: không trông chờ, ỷ lại...         Mặt khác nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém trong nhà   trường và phát huy hết năng lực của các em khá giỏi nắm chắc được   kiến thức bài học và hiểu sâu hơn các sự  kiện, hiện tượng, nhân vật  lịch sử... Thực trạng dạy và học môn lịch sử ở trường THPT Trần Phú: 1.  Ưu điểm  :        *. Về phía giáo viên :    ­ Đại đa số giáo viên (GV) đều cố gắng thay đổi phương pháp giảng  dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông  qua các phương pháp dạy học như  phương pháp trực quan, phương   pháp giải quyết vấn đề, phương pháp vấn đáp thông qua sự  trình bày  sinh động giàu hình  ảnh của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể  chuyện, hoặc nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử.... ­ Giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ  kiến thức cho nhau và thông qua hoạt động này những em yếu kém   được hoạt động một cách tích cực dưới sự  hướng dẫn của giáo viên  và các bạn học sinh khá giỏi và học sinh nắm chắc kiến thức và hiểu   sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử...... ­ Trong quá trình giảng dạy đã kết hợp nhuần nhuyễn các đồ  dùng  dạy học, khai thác một cách triệt để  các đồ  dùng và phương tiên dạy  học như tranh ảnh, bản đồ, sa bàn, mô hình, ....và từng bước ứng dụng   công nghệ thông tin phù hợp trong dạy học lịch sử...       *. Về phía học sinh :      ­ Học sinh đa số chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu  hỏi mà  giáo viên đặt ra như các em đã chuẩn bị bài mới ở nhà, trả lời  các câu hỏi cuối mục trong bài cho nên khi học các em luôn chú ý để  nắm chắc bài hơn. 2
  3.      ­ Đa số  học sinh đều tích cực thảo luận nhóm và đã đưa lại hiêụ  quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức .        ­ Học sinh yếu kém đã và đang cố  gắng nắm bắt các kiến thức  trọng tâm cơ  bản thông qua các hoạt động học như  thảo luận nhóm,  vấn đáp, đọc sách giáo khoa... các em đã mạnh dạn khi trả lời các câu  hỏi  hay ghi nhớ các sự kiện, nhân vật...   2. H   ạn chế    :   * Về phía giáo viên : ­ Vẫn còn một số  ít giáo viên chưa thực sự  thay đổi hoàn toàn  phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực  hoá hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ , chiếm   lĩnh và nắm vững kiến thức như vẫn còn sử  dụng phương pháp dạy  học “thầy nói, trò nghe ”, “thầy đọc, trò chép ”. Do đó nhiều học sinh  chưa nắm vững được kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc,   trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa hoàn toàn ... ­ Đa số  giáo viên chưa nêu câu hỏi nhận thức đầu giờ  học tức là   sau khi kiểm tra bài cũ giáo viên vào bài luôn mà không giới thiệu bài  qua việc nêu câu hỏi nhận thức, điều này làm giảm bớt sự  tập trung,  chú ý bài học của học sinh ngay từ hoạt động đầu tiên. ­ Một số  câu hỏi giáo viên đặt ra hơi khó, học sinh không trả  lời  được nhưng lại không có hệ thống câu hỏi gợi mở nên nhiều khi phải  trả lời thay cho học sinh. Vấn đề  này được thể hiện rất rõ trong hoạt  động thảo luận nhóm, giáo viên chỉ  biết nêu ra câu hỏi nhưng  lại   không hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi đó như thế  nào vì không có  hệ thống câu hỏi gợi mở vấn đề. ­ Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động một  số học sinh khá, giỏi trả lời, chưa có câu hỏi giành cho đối tượng học  sinh yếu kém .Cho nên đối tượng học sinh yếu kém ít được chú ý và  không được tham gia hoạt động, điều này làm cho các em thêm tự ti về  năng lực của mình và các em cảm thấy chán nản môn học của mình.     * Về phía học sinh : ­ Học sinh thường trả  lời câu hỏi giáo viên đặt ra thông qua việc  nhìn sách giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự  độc lập tư  duy . Một số  học sinh còn đọc nguyên xi sách giáo khoa để trả lời câu hỏi.  ­ Học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học, một số bộ  phận học sinh không chuẩn bị  bài mới  ở  nhà, không làm bài tập đầy  3
  4. đủ, trên lớp các em thiếu tập trung suy nghĩ. Cho nên việc ghi nhớ các   sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử ... còn yếu. ­ Học sinh chỉ  có trả  lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (như  trình   bày),   còn   một   số   câu   hỏi   tổng   hợp,   phân   tích,   giải   thích,   so   sánh...thì học sinh còn rất lúng túng khi trả  lời hoặc trả  lời thì mang  tính chất chung chung...    * Điều tra cụ thể :   ­  Bản thân tôi đảm nhận việc giảng dạy môn lịch sử khối 12 và khối   11. Trong quá trình giảng dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm  tình hình học tập bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm   qua mỗi tiết dạy.Việc điều tra được thực hiện thông qua hỏi đáp với  những câu hỏi phát triển tư duy học sinh  ở trên lớp, kiểm tra 15 phút,  kiểm tra 45 phút ...            Kết quả  điều tra tôi nhận thấy đa số  học sinh chỉ  trả  lời được  những câu hỏi mang tính chất trình bày, còn những câu hỏi giải thích  tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì các em còn rất lúng túng khi trả  lời. Do vậy kết quả điều tra cũng không cao. Cụ thể: Giỏi Khá Tb Yếu Kém Lớp SLHS SL % SL % SL % SL % SL % 11a1 39 6 15.4 13 15.4 15 38.5 5 12.8 0 0.0 11a2 38 4 10.5 9 10.5 14 36.8 9 23.7 2 5.3 12a1 34 6 17.6 15 17.6 10 29.4 3 8.8 0 0.0 12a2 35 1 2.9 8 2.9 16 45.7 10 28.6 0 0.0                   Nhằm góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói   chung, dạy học môn lịch sử nói riêng, bản thân tôi là giáo viên dạy lâu   năm, có kinh nghiệm trong giảng dạy tôi xin trình bày một số  vấn đề  về: "Tập cho học sinh tiếp cận lịch sử qua các tư liệu trong giảng dạy   lịch sử ở trường phổ thông"  để phát huy tính tích cực của học sinh. Với việc nghiên cứu đề  tài này, tôi mong muốn sẽ  góp phần vào  giúp giáo viên tiến hành một giờ dạy học hiệu quả tốt  hơn, học sinh   tích cực chủ  động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức của bài học.  Đây cũng là lí do tôi chọn đề  tài này. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 4
  5. 1. Cơ sở lý luận: a. Cơ sở khoa học       Đai­ri nhà giáo dục Liên Xô cũ đã từng nói: Dạy lịch sử  cũng  như bất cứ dạy cái gì đòi hỏi người thầy phải khêu gợi cái thông minh   chứ  không phải là  bắt buộc các trí nhớ  làm việc, bắt nó ghi chép rồi   trả  lại. Như  vậy mục đích của việc dạy học Lịch sử     ở  trường là   người giáo viên không chỉ  giúp cho học sinh hình dung được những   kết quả của quá khứ biết và ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng của Lịch  sử mà quan trọng hơn là hiểu được lịch sử tức là phải nắm được bản  chất của sự  kiện. Trong phát triển tư  duy của học sinh việc sử dụng  các thao tác lô gic có ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường giáo viên  sử  dụng các thao tác chủ yếu như so sánh để  tìm ra sự  giống nhau và   khác nhau về bản chất các sự kiện ), Phân tích và tổng hợp  (giúp học  sinh khái quát các sự kiện), quy nạp, diễn dịch... Để  thực hiện những  thao   thao tác như  vậy có thể  dùng nhiều cách, nhiều phương tiện   khác nhau (đồ  dùng trực quan, tài liệu giải thích ....) song việc hỏi và  trả lời phù hợp với trình độ yêu cầu của học sinh,đưa lại kết quả tốt.  Hỏi và trả  lời chính là đặt tình huống có vấn đề  rồi tìm cách giải  quyết vấn đề. Hỏi và trả lời không phải là sự đánh đố mà là giúp nhau  hiểu sâu sắc lịch sử  hơn. Việc hỏi và trả  lời câu hỏi có ý nghĩa giáo   dưỡng giáo dục và phát triển lớn. Vì vậy việc đặt câu hỏi có vai trò  rất quan trọng trong giờ dạy học lịch sử nói riêng và các môn học khác   nó phát huy được tính tích cực của học sinh. Chỉ  thị  40/2008/CT­ của Bộ  trưởng Bộ  giáo dục ­ Đào tạo ngày  22/7/2008  phát động phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân  thiện, học sinh tích cực" trong các trường phổ  thông giai đoạn 2008­ 2013 đã khẳng định sự cần thiết phải đổi mới mạnh mẽ phương pháp   giảng dạy. b. Cơ sở thực tiễn :            Ở trường THPT Trần Phú đa số học sinh còn lười học và chưa  có sự say mê môn học Lịch sử, cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện   tượng, nhân vật lịch sử  .....còn yếu. Đa số  các em chưa độc lập suy   nghĩ để  trả  lời một câu hỏi mà phải đọc nguyên xi trong sách giáo  khoa hay chỉ nêu được mốc thời gian mà không diễn tả được thời gian  đó nói lên sự kiện gì ... Bởi vậy  bản thân các em nên có một phương  pháp học như  thế  nào để  chiếm lĩnh kiến thức từ  bài giảng của giáo  5
  6. viên. Mặt khác, giáo viên giảng dạy bộ  môn lịch sử   ở  trường một   phần nào đó chưa đưa ra được hệ thông câu hỏi và sử dụng câu hỏi đó  như  thế  nào cho phù hợp, cho nên chất lượng kiểm tra một số  em  ở  một số  lớp còn thấp và tỉ  lệ  yếu kém còn nhiều. Nhằm giảm bớt số  lượng học sinh yếu kém và nâng cao chất lượng dạy và học của nhà  trường, bản thân tôi đã thấy được điều đó và cố  gắng đưa ra các   phương pháp học tập tích cực mà cụ  thể  là: “Tập cho học sinh tiếp  cận lịch sử  qua các tư  liệu trong giảng dạy lịch sử   ở  trường  phổ  thông", để phát huy tính tích cực của học sinh trong tiết dạy học. 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài  a. Tiếp cận sự kiện lịch sử        Trước khi bước vào bài mới, giáo viên nên nêu vấn đề nhận thức  cho học sinh. Sự kiện lịch sử ( biến cố và hiện tượng lịch sử) chỉ diễn   ra một lần trong quá khứ, không lặp lại, phản ánh một tiến trình lịch   sử,   được  xác  định cụ  thể  về  không gian,  thời  gian, bối cảnh, con   người...,   chẳng   hạn:   Khởi   nghĩa   Tây   Sơn,   cuộc   đánh   chiếm   ngục  Bastile, đánh chiếm cung điện Mùa Đông Nga năm 1917, Cách mạng  tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, cuộc  đảo chính ngày 18/8/1991ở Liên Xô (cũ) v.v...    Sự kiện lịch sử luôn diễn ra trong hoàn cảnh, điều kiện lịch sử nhất  định và chính hoàn cảnh, điều kiện lịch sử này cắt nghĩa những nguyên  nhân sâu xa, nguyên nhân trực tiếp và cả những duyên cớ của sự bùng  nổ sự kiện. Hoàn cảnh lịch sử còn giúp chúng ta hiểu diễn biến và kết  quả  của quá trình phát triển các sự  kiện. Sự  kiện lịch sử  có thể  đưa  lại những hậu quả  lâu dài, hậu quả  trước mắt, những hậu quả trong   nước, ngoài nước... Hình dung được diễn biến, hiểu đúng được bản  chất của sự kiện không phải điều đơn giản, dễ dàng.    Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu sự kiện lịch sử, trước hết đặt học  sinh trước bản thân sự kiện cụ thể, gợi ý để học sinh tiếp cận sự kiện   từ các góc độ sau đây: ­ Tên gọi sự  kiện lịch sử; thời điểm mở  đầu và kết thúc, diễn  biến (nêu các giai đoạn phát triển). ­ Bối cảnh lịch sử  ( chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quân sự,   trong và ngoài nước...) ­ Xác định đây là sự  kiện thuộc lĩnh vực nào trong đời sống xã  hội (chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá). 6
  7.   Tiếp theo hướng dẫn học sinh tìm hiểu những nguyên nhân làm bùng  nổ  và qui định những diễn biến của sự kiện, cụ thể, các em cần xem   xét: ­ Nguyên nhân trực tiếp, duyên cớ làm xuất hiện sự kiện lịch sử.  thông   thường   ta   lưu   ý   cho   học   sinh   tìm   những   biến   cố   trở   thành  nguyên nhân mới xuất hiện trước sự  kiện lịch sử  khoảng một thời   gian ngắn, có thể tính bằng tuần lễ, bằng ngày, bằng giờ... ­ Những nguyên nhân sâu xa, thường xuất hiện trước đó hàng  nhiều tháng, nhiều năm. Yêu cầu học sinh phân tích các nguyên nhân   để  thấy mối liên hệ  giữa các nguyên nhân  ấy ( kinh tế, chính trị, xã  hội, quân sự, văn hoá, tài chính...).    Cuối cùng hướng dẫn học sinh tìm hiểu hậu quả   sự  kiện lịch sử.   Cần gợi ý để  học sinh tự  nêu nhận xét, nhận định ,đánh giá sự  kiện   lịch sử. Đó là sự  kiện gây nên hậu quả  tích cực hay tiêu cực đối với   tiến trình lịch sử, có tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm, kéo lùi... Hậu quả  có thể  là thấy rõ trước mắt, cũng có thể  là những hậu quả  lâu dài.  Hậu quả trước mắt có thể thấy ngay trong thời gian tính bằng tuần lễ,  nhưng hậu quả lâu dài hàng năm mới thấy được, thậm chí có hậu quả  mang ý nghĩa biểu tượng tồn tại bền vững với thời gian.        Ví dụ       1 :  7
  8. Khi dạy bài 16. “Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi   nghĩa tháng Tám (1939­1945) nước Việt Nam dân chủ  Cộng hoà ra  đời” (sách giáo khoa lịch sử  12 trang 102). Cho HS tìm hiểu sự  kiện  Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, sự  kiện sự  ra đời của nước   Việt Nam dân chủ Cộng hoà, bản Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945).  ­ Giáo viên nêu câu hỏi : Căn cứ vào đâu mà Trung ương Đảng phát  động lệnh Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945?.    + HS theo dõi SGK, suy nghĩ , trả lời câu hỏi...Nhật đầu hàng Đồng  minh, lệnh Tổng khởi nghĩa được ban bố...     + Giáo viên phân tích để  HS hiểu được: Nhật Bản đầu hàng Đồng  minh là một sự  kiện quan trọng, vì khi được tin Nhật Bản đầu hàng  Đồng minh, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc đã phát động lệnh Tổng khởi   nghĩa. GV cần phân tích cho HS hiểu rõ thời cơ của Tổng khởi nghĩa.  Nhật bản đầu hàng Đồng minh khiến cho quân đội Nhật Bản ở Đông  Dương án binh bất động, chính phủ  bù nhìn như  rắn mất đầu. Đó là  một trong ba yếu tố tạo nên thời cơ: kẻ thù không thể thống trị như   trước được nữa. Còn hai yếu tố  sau: lực lượng trung gian ngả về   phía cách mạng và quần chúng cách mạng mong muốn hành động   thì đã sẵn sàng. 8
  9. ­ Giáo viên nêu tiếp câu hỏi: Nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà được  thành lập như thế nào?.    + HS theo dõi SGK suy nghĩ, trả lời...    + Sau đó GV phân tích để HS nhận thức được bản Tuyên ngôn Độc   lập (2­9­1945), do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời  đọc trong cuộc mít tinh tại Quảng trường Ba Đình, là một văn kiện  lịch sử quan trọng, đề cập tới nhiều vấn đề.    + GV phân tích để HS hiểu rõ những nội dung sau: Chủ tịch Hồ Chí   Minh tuyên bố  với toàn thể  quốc dân và thế  giới   về  sự  thành lập   nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc  của nhân dân Việt nam đánh Pháp, đuổi Nhật, lật đổ  chế  độ  phong  kiến đã làm nên thắng lợi lịch sử Cách mạng tháng Tám.... Quyết tâm  của nhân dân Việt Nam giữ vững quyền tự do, độc lập của mình.        Trong quá trình dạy học, chúng ta vẫn tuân thủ trình tự cấu tạo của  sách giáo khoa, song cần khai thác nhấn mạnh, giúp học sinh trả  lời   câu hỏi nêu trên. Học sinh trả  lời được câu hỏi này tức là đã nắm và  hiểu được kiến thức chủ yếu của bài.  Ví dụ 2: ­  Khi dạy bài. Chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914­1918) ­ SGK   lịch   sử   11­   trang   31   (   chuẩn).   GV   đặt   câu   hỏi:   Em   hãy   tìm  nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế  giới thứ  nhất? Nguyên  nhân sâu xa, nguyên nhân trực tiếp, duyên cớ  dẫn đến chiến   tranh thế  giới thứ nhất. Cuối cùng hướng dẫn HS tìm hiểu hậu  quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất. 9
  10. ­ GV yêu cầu học sinh đọc SGK và bằng những kiến thức đã   học, hãy rút ra những đặc điểm mang tính qui luật của CNTB và  yêu cầu các em phân tích các nguyên nhân để thấy mối quan hệ  giữa các nguyên nhân ấy (kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự). Sau   khi HS thảo luận, phát biểu, GV kết luận, chốt ý:    + Nguyên nhân sâu xa dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ nhất:   Sự  phát triển không đều về  kinh tế, chính trị  của chủ  nghĩa đế  quốc...    + Nguyên nhân trực tiếp : sự  hình thành hai khối quân sự  đối  lập ở Châu Âu...    + Duyên cớ của chiến tranh là vụ ám sát Thái tử ở Xécbi...    + Cuối cùng cho các em tìm hiểu hậu quả của Chiến tranh thế  giới thứ nhất, mặt tích cực và tiêu cực...       Câu hỏi loại này thường là câu hỏi có tính chất bài tập muốn  trả lời phải huy động kiến thức cơ bản đã học trước đó và kiến  thức của toàn bài. Chính vì vậy học sinh phải chuẩn bị bài và trả  lời trước các câu hỏi cuối mục ở nhà, chú ý, tập trung cao độ  theo dõi bài giảng , chọn lọc sự kiện và trình bày trên lớp. b.Tiếp cận với nhân vật lịch sử   Trừ  bài Công xã Nguyên thuỷ  không có tên tuổi một nhân vật  nào và một số  bài về  chế  độ  chiếm hữu nô lệ  thường ít đề  cập đến  các nhân vật lịch sử  cụ  thể, các bài lịch sử  từ  thời trung cổ  đến sau  này thường có nêu tên tuổi của một số nhân vật lịch sử. Vì nhiều lí do  khác nhau và do không cần thiết, chúng ta chỉ nên chọn ra một số nhân   vật lịch sử tiêu biểu để  hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu. Chúng ta có  thể theo những mặt, những bước như sau:    * Ở mức độ tiếp cận đầu tiên, học sinh cần tìm hiểu: ­ Ngày, tháng, năm sinh và mất của nhân vật. ­ Nơi sinh, nơi mất. ­ Đôi nét về gia đình và hoàn cảnh xuất thân. ­ Thời đại lịch sử mà nhân vật lịch sử sống và hoạt động.   * Đi sâu hơn, học sinh cần tìm hiểu: ­ Nhân vật lịch sử  bắt đầu hoạt động ( chính trị, kinh tế, văn  hoá, khoa học...) từ khi nào, dưới chế độ xã hội nào. Thái độ chính trị  của nhân vật lịch sử. ­ Những giai đoạn hoạt động chính trị  của nhân vật lịch sử.   thành công, thất bại...  Ảnh hưởng của nhân vật lịch sử  đối với thời  đại   mà  nhân   vật   đó   sống  và   hoạt  động  (   qua   đánh   giá  của   người   đương thời...) và đối với ngày nay ( nếu còn) ­ Nhận xét, đánh giá hiện nay về nhân vật lịch sử. 10
  11. *Những tài liệu mà học sinh cần tìm đọc để tiếp cận với nhân vật lịch  sử Ví dụ minh hoạ: tập và hướng dẫn học sinh tiếp cận và tìm hiểu về  lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc A. Trước hết cho HS tự  tìm hiểu Ngày­tháng­năm­sinh, đôi nét về   hoàn cảnh gia đình của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.    Giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu đôi nét về  tiểu sử  Nguyễn Ái   Quốc:        Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19­5­ 1890, quê  ở  làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ  An. Sinh ra  trong một gia đình nhà nho yêu nước, chịu ảnh hưởng của cách mạng  sâu sắc từ  người cha và các anh, chị, lớn lên trên mảnh đất Nghệ  An   giàu truyền thống đấu tranh, được tiếp xúc với nhiều nhà cách mạng   đương thời, được chứng kiến sự thất bại của các phong trào yêu nước  cuối thế  kỉ  XIX, đầu thế  kỉ  XX. Tất cả  những điều đó đã hun đúc ở  Nguyễn Ái Quốc lòng yêu nước nồng nàn và quyết tâm cứu dân, cứu  nước. B. Thời đại lịch sử mà Nguyễn Ái Quốc sống và hoạt động:         Những năm cuối thế  kỉ  XIX, đầu thế  kỉ  XX, các phong trào yêu  nước chống Pháp ở Việt Nam đều không đi tới thắng lợi.Thất bại của   phong   trào   yêu   nước   theo   tư   tưởng   phong   kiến   (phong   trào   Cần  Vương cuối thế  kỉ  XIX), phong trào nông dân Yên Thế  đã đánh dấu   chấm hết cho con đường cứu nước phong kiến  ở  Việt Nam. Trong   những năm đầu thế  kỉ  XX, phong trào yêu nước theo khuynh hướng  11
  12. dân chủ  tư  sản với các đại diện Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,   Lương Văn Can… cũng không giành được thắng lợi. Lúc này, yêu cầu  lịch sử  đòi hỏi cần phải có con đường cứu nước đúng đắn để  đưa  cách mạng Việt Nam thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về đường lối  lãnh đạo. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919­1929) của thực dân Pháp  làm cho xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn về  dân tộc và mâu thuẫn về  dân chủ. Yêu cầu lịch sử   đặt ra cần có  đường lối cứu nước đúng đắn để giải quyết đồng thời hai mâu thuẫn  trên.   Trong   bối   cảnh   lịch   sử   có   nhiều   đòi   hỏi   cần   giải   quyết   đó,  Nguyễn Ái Quốc   với lòng yêu nước nồng nàn và hoài bão cứu dân,  cứu nước đã xuất hiện và đáp ứng yêu cầu của lịch sử. C.   Những  giai   đoạn  hoạt   động  chính  trị   của  Nguyễn   Ái   Quốc:   thành công­ thất bại­ ảnh hưởng * Người tìm ra con đường cứu nước: ­ Ngày 5­6­1911, từ cảng Nhà Rồng lấy tên là Văn Ba, Người làm phụ  bếp cho chiếc tàu buôn Pháp Latusơ  Têrơvin và bắt đầu cuộc hành   trình   tìm   đường   cứu   nước.   Ngày   6­7­1911   tàu   cập   cảng   Mácxây  ( Pháp).  ­ Từ  1917  →1919 Người hoạt  động   phần   lớn   ở   Pháp,   tìm  hiểu   phong   trào   công   nhân.  Khi   cách   mạng   tháng   Mười  thành   công,   Người   bắt   đầu  Tàu Latusơ Têsơvin chú ý đến tư  tưởng của chủ  nghĩa Mác – Lênin. Năm 1919  Người   gửi   bản   yêu   sách   8  điểm tới Hội nghị Véc xai đòi  các  quyền tự  do, dân chủ, quyền  bình   đẳng,   quyền   tự   quyết  cho dân tộc Việt Nam, nhưng  không   được   chấp   nhận.   Từ  12 Các bài viết của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian  hoạt động tại Pháp
  13. đó Người đã rút ra được nhận xét quan trọng; không thể  dựa vào đế  quốc mà phải tiến hành tự giải phóng. ­ Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc bản sơ  thảo lần thứ  nhất luận   cương về  vấn đề  dân tộc và thuộc địa của Lênin, Người như  muốn   reo lên trước dân tộc “Hỡi đồng bào bị  đoạ  đầy đau  khổ, đây là cái   cần thiết của chúng ta”. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu  nước cho dân tộc. Con đường đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin. ­ Tháng 12­1920 Người tham dự Đại hội lần thứ  XVIII của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua. Tại đây  Người bỏ  phiếu tán thành gia nhập Quốc tế  III,   và tham gia sáng lập ra Đảng cộng sản Pháp và  Người  trở  thành người  cộng sản  đầu tiên của  Việt Nam.                                                Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội Tua      Sự  kiện năm 1920 đánh dấu bước ngoặt trong cuộc  đời hoạt  động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc từ  một người yêu nước, qua  thực tế  hoạt động trong phong trào công nhân, đón nhận chủ  nghĩa  Mác – Lênin. Có thể  nói không có sự  kiện năm 1920 thì không có sự  kiện năm 1930. * Nguyễn Ái Quốc có công sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam. ­ Từ  1921  →  1927, Người hoạt động tích cực  ở  Pháp, Liên Xô rồi  Trung Quốc để  truyền bá tư  tưởng chủ  nghĩa Mac – Lênin về  nước,   đồng thời chuẩn bị  chu đáo về  tư  tưởng chính trị, tổ  chức và cán bộ  cho sự ra đời của Đảng. ­ Năm 1929, do nhận thức khác nhau mà ở  Việt Nam xuất hiện ba tổ  chức   cộng sản:   An  Nam Cộng  sản  Đảng,  Đông  Dương   Cộng sản  Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn. Hoạt động riêng rẽ  của ba  tổ  chức này gây cản trở  không tốt cho quá trình phát triển cách mạng   Việt  Nam. Năm 1930,  được  sự  uỷ  nhiệm của Quốc tế  Cộng sản,   Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam tại   Hương Cảng (Trung Quốc). * Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo cách mạng tháng Tám thành công 13
  14. ­   Năm   1941,   Nguyễn   Ái   Quốc   về   nước   và  Người   cùng   Đảng   Cộng   sản   Việt   Nam   lãnh  đạo nhân dân chuẩn bị  cách mạng giành chính  quyền. Người triệu tập Hội nghị  Trung  ương   Đảng lần 8 và đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng   chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam. ­   Từ   ngày   19/8→28/8/1945   Nguyễn   Ái   Quốc  cùng Đảng lãnh đạo nhân dân cả  nước chớp   thời cơ, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Hồ Chủ Tịch đọc Tuyên ngôn độc lập  tại Quảng trường Ba Đình ­   Ngày   2/9/1945   tại   quảng   trường   Ba   Đình  lịch sử, Người đọc bản Tuyên Ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam   dân chủ cộng hoà        Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã mở ra một kỉ nguyên mới  cho dân tộc Việt Nam, trong đó Nguyễn Ái Quốc giữ vai trò to lớn làm  nên thắng lợi này. *  Nguyễn Ái Quốc đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam   vượt qua thác ghềnh, bảo vệ  thành quả  cách mạng tháng Tám  (1945­1946). Chiến dịch Đông Khê 1950 Hồ Chủ Tịch tại chiến  Hồ Chủ Tịch đi công tác tại       Khu Việt Bắc chiến Khu Việt Bắc         Cờ đỏ tung bay trên nóc hầm Đờ catơri Hồ Chủ Tịch cùng với Bộ chỉ huy Việt  Bắc 14
  15.  *  Từ  năm 1946­1969 Hồ  chủ  tịch cùng Đảng đã lãnh đạo nhân dân  thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm, với chiến   thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ; Xây dựng và bảo vệ vững chắc miền  Bắc xã hội chủ nghĩa, từng bước đánh bại âm mưu xâm lược của đế  quốc Mĩ.                                                    D. Nhận xét­ đánh giá về lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc        Cả cuộc đời mình, không lúc nào Người không quyết tâm. Ý chí   quyết tâm, dũng cảm của Người đã trở  thành một phẩm chất sáng  ngời, tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng. Phẩm chất đó Người kế  thừa các anh hùng dân tộc xưa như: Chiến lược đoàn kết toàn dân và  chiến tranh nhân dân (kế  thừa của Trần Hưng Đạo), nghệ  thuật kết  thúc chiến tranh độc đáo của Lê Lợi – Nguyễn Trãi và nghệ  thuật  chớp thời cơ của Quang Trung.       Cuộc đời của Nguyễn Ái Quốc thể hiện phẩm chất của một chiến  sĩ đấu tranh giải phóng dân tộc với lòng yêu nước nồng nàn, những  đóng góp cho mọi lĩnh vực văn hóa khác nhau… Tư  tưởng Hồ  Chí  Minh, phẩm chất của Người sáng mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.       Sự đánh giá của UNESCO về Hồ Chí Minh là Danh nhân văn hóa  thế  giới, lãnh tụ  vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người là biểu tượng   kiệt xuất về  quyết tâm của cả  một dân tộc, đã cống hiến trọn đời  mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. c. Tiếp cận tranh ảnh lịch sử:    Trong sách giáo khoa lịch sử của chúng ta có rất nhiều tranh ảnh lịch   sử. Chúng ta có thể  nêu lên những gợi ý về  cách khai thác tranh  ảnh  lịch sử sau đây để giúp học sinh tìm cách tiếp cận lịch sử.    ­ Trước hết, cần biết:     + Thời điểm và nguồn gốc xuất hiện.     + Những nhân vật chính có mặt trong tranh ảnh. Họ là những ai? Họ  đại diện cho ai? Cho tầng lớp xã hội hoặc tổ  chức chính trị  xã hội   nào?.     + Cách thể hiện các nhân vật lịch sử của tác giả bức tranh hay ảnh.      ­ Tiếp theo sau, giúp học sinh đi sâu hơn vào nội dung tranh  ảnh,   bằng những gợi ý như: 15
  16.      + Từng nhân vật (chính) được thể  hiện trong tư  thế  như thế  nào,  trong khung cảnh nào?     + Trang phục của các nhân vật (chính)? Trang phục có phản ánh địa  vị, hoàn cảnh xuất thân của nhân vật hay không, nếu có, phản ánh  điều gì?       + Ngoài những nhân vật lịch sử  tiêu biểu, trong tranh  ảnh còn có   những con người nào? Tác giả  còn đưa thêm những con vật hay đồ  vật, những hình ảnh gì nữa vào bức tranh, bức ảnh và vì sao có những  hình ảnh đó? Chúng làm bức tranh, ảnh đó có thêm ý nghĩa gì?     + Nếu là bức biếm hoạ, hãy chỉ ra nét châm biếm của bức tranh qua  đó nêu nhận xét về  thái độ  của tác giả  đối với sự  kiện, hiện tượng  hay thời kì lịch sử đó? .     + Cảm tưởng của học sinh khi quan sát thoáng qua và khi tìm hiểu   kĩ bức tranh, ảnh. Ví dụ minh hoạ:  Ví dụ 1.       Khi dạy bài 20: Chiến sự  lan rộng ra cả  nước. Cuộc kháng chiến  của nhân dân ta từ  năm 1873 đến năm 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng.  SGK lớp 11­ trang 115. Chúng ta khai thác hình 55­ trang 118 : Hình  ảnh  Nguyễn Tri Phương  (1800­ 1873). 16
  17. Nguyễn Tri Phương (1800-1873)     ­   Trước   hết   chúng   ta   giới   thiệu   sơ   qua   về   tiểu   sử   Nguyễn   Tri   Phương,  sau  đó  chúng ta cung cấp cho HS tư  liệu về  Nguyễn Tri   Phương rồi chúng ta đặt câu hỏi: Nguyễn Tri Phương ông đại diện   cho tầng lớp nào?. Những việc làm của ông từ 1858 đến 1873?.   ­ HS dựa vào kiến thưc đã học trả lời:     + Nguyễn Tri Phương: Ông đại diện cho tầng lớp quan lại của triều  đình. Ông từng được triều đình cử chỉ huy chống Pháp ở mặt trận Đà  nẵng, kế sách vườn không nhà trống, xây thành, đắp luỹ  của ông  lúc  đó đã khiến thực dân Pháp sa lầy tại Đà Nẵng.    + Lần thứ hai, ông được triều đình cử vào Gia Định. Ông đã cho xây   dựng đại đồn Chí Hoà để chặn giặc. Nhưng lần này đại đồn của ông   17
  18. không chịu nổi sức công phá bởi vũ khí đại bác của Pháp. Vì vậy đại  đồn thất thủ.     + Lần thứ  ba vào năm 1872, ông được triều đình điều đi giữ  chức  Tuyên sát đổng sứ đại thần, thay mặt triều đình xem xét việc quân sự  ở Bắc Kì, làm tổng đốc thành Hà Nội, lúc này ông đã 73 tuổi. Khi Pháp   đánh Hà Nội lần thứ nhất, ông đã chỉ huy binh sĩ chiến đấu anh dũng,   song thành Hà Nội vẫn thất thủ. Nguyễn Tri Phương bị trúng đạn và   ông đã hi sinh năm 1873. ­ Cảm tưởng của học sinh khi quan sát thoáng qua bức  ảnh , và tìm  hiểu kĩ về nhân vật: Quân triều đình không thiếu lòng dũng cảm song   do vũ khí thô sơ, cách tổ chức đánh giặc nặng về phòng thủ, kém linh  hoạt cho nên nhanh chóng thất bại.  Ví dụ  2:   Khai thác hình 56­ Tình cảnh nông dân Pháp trước  cách   mạng  ­  Bài   31:  Cách  mạng  tư   sản  Pháp  cuối  thế   kỉ  XVIII ­ SGK lớp 10­ trang 151.   ­ Đây là bức tranh biếm hoạ  nói lên tình cảnh người nông dân  Pháp trước khi diễn ra cuộc cách mạng tư sản được sử  dụng để  dạy   học   bài   31,   phần   I,   mục   1.   Tình   hình   kinh   tế   ­   xã   hội  (chương trình chuẩn), nhằm giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm nổi  bật về  kinh tế, thể  chế  chính trị  và mâu thuẫn xã hội của nước   Pháp trước năm 1789, qua đó rút ra nguyên nhân sâu xa làm bùng  nổ cuộc cách mạng tư sản Pháp. ­ Sau khi cung cấp cho học sinh biết đặc điểm nổi bật vế kinh tế,   chính trị  và xã hội Pháp trước năm 1789, GV sử  dụng bức tranh  biếm hoạ  tình cảnh nông dân Pháp trước cách mạng để  miêu tả  kết hợp với phân tích nhằm cụ  thể  hoá những vấn đề  đã trình  bày. Để  phát huy tính tích cực, tự giác và chủ  động của HS, GV   cần hướng dẫn các em quan sát bức tranh (từ  khái quát đến chi   tiết, tỉ  mỉ), kết hợp với đọc SGK để  trả  lời câu hỏi do GV gợi  mở:                Bức tranh này có mấy người? Họ  là đại diện cho những  tầng lớp nào trong xã hội Pháp? Tại sao mỗi người trong tranh lại  có vẻ  mặt và sự  thể  hiện địa vị  khác nhau như  vậy? Tại sao   người nông dân già nua, ốm yếu phải cõng trên lưng mình hai tên  Quý tộc, Tăng lữ béo khoẻ? Các loại giấy tờ trong túi áo, túi quần  Tình cảnh nông dân Pháp trước cách mạng 18
  19. của Tăng lữ, Quý tộc phản ánh điều gì? Hình ảnh người nông dân  chống tay lên cái cuốc đã mòn vẹt nói lên điều gì? Vì sao dưới  chân người nông dân lại có hình ảnh các con chim, thỏ, chuột?.         ­ Sau khi HS trao đổi, GV miêu tả chốt lại ý và yêu cầu các   em nhận xét:     + Bức tranh này có ba người, miêu tả  một người nông dân đã  già nua,  ốm yếu, nhưng phải cõng trên lưng mình hai người có  thân hình béo khoẻ. Đó chính là hình  ảnh tượng trưng cho hai  đẳng cấp Quý tộc và Tăng lữ trong xã hội Pháp trước cách mạng.      + Người ngồi đằng trước mặc chiếc áo choàng, có đeo cây   thánh giá, tượng trưng cho Tăng lữ  (đẳng cấp một). Người ngồi   sau đeo một thanh kiếm dài  ở  cạnh sườn, có nhiều đồ  trang sức  và trang phục rất đẹp tượng trưng cho tầng lớp quý tộc (đẳng  cấp hai). Cả hai đều béo tốt, mập mạp, ăn mặc diêm dúa và cực  kì sang trọng. Trong túi quần và túi áo của Tăng lữ, Quý tộc thò ra   các loại văn tự, khế   ước cho vay nợ, cho thuê ruộng, những quy   định về nghĩa vụ phong kiến của nông dân mà có lẽ đến ngàn đời  họ  cũng không trả  hết được.Người nông dân phải nộp đủ  các   loại thuế....    + Vì phải cõng trên lưng hai đẳng cấp Quý tộc và Tăng lữ, nên   lưng của người nông dân phải còng xuống, tay chống nhờ  trên  một chiếc cuốc đã mòn vẹt. Đây chính là biểu hiện cho công cụ  canh tác thô sơ, lạc hậu của người nông dân, cũng như  nền kinh   tế nông nghiệp Pháp trước năm 1789. Sản phẩm nông nghiệp do  người nông dân làm ra hết sức ít  ỏi, lại phải nộp gần hết cho  Quý tộc, Tăng lữ; số còn lại bị thỏ, chim ,chuột... ra sức phá hoại.    + Chế độ đẳng cấp hà khắc, khắt khe ở Pháp đã đè nặng lên vai   người nông dân, Sống trong tình cảnh  ấy, nông dân Pháp chỉ  có  con đường duy nhất là bùng lên hất tung hai đẳng cấp trên ra khỏi  lưng mình, nếu không họ  cũng khuỵ  xuống mà chết.   Điều này   giải thích vì sao nông dân Pháp là lực lượng đông đảo nhất   tham gia cách mạng và cũng là những người kiên quyết cách   mạng nhất. d. Tiếp cận với bản đồ lịch sử:      Chúng ta đều hiểu rất rõ rằng đường biên giới mỗi quốc gia   được hình thành dần từng bước trong cả một thời gian dài hàng nhiều  thế kỉ. Trong suốt thời kì dựng nước và giữ nước, đến giai đoạn phát  triển nào đó, trong những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử  nhất định  mỗi dân tộc trước hết là một bộ  phận thống trị  đã tìm mọi cách xác  19
  20. định, gìn giữ  và kể cả  mở  rộng lãnh thổ  với mục đích phát triển kinh  tế, phân bố lại dân cư, giữ gìn an ninh quốc phòng, mở rộng thế lực...    Từ những ý kiến nêu trên, chúng tôi muốn đi đến một đề  nghị:   Hãy cho học sinh tiếp cận với những bản đồ  phản ánh lãnh thổ  quốc   gia trong những thời kì lịch sử  khác nhau khi nghiên cứu những nội   dung lịch sử có thời gian lịch sử tương ứng. Bởi vì sử dụng bản đồ có  đường biên giới hiện đại để  phản ánh các sự  kiện lịch sử  trong quá   khứ  là không hợp lí, giảm tính khoa học, là mất ý nghĩa lịch sử. Cần  cho các em ý thức được rằng biên giới quốc gia không phải được hình   thành một cách ngẫu nhiên, tình cờ, một sớm một chiều, một cách dễ  dàng, tự  nhiên hoặc theo ý riêng, chủ  quan của riêng ai. Trái lại đó là  một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, đầy mưu lược pha lẫn với   âm mưu và tham vọng, phản ánh sức mạnh và quyền lợi của các bộ  tộc, các dân tộc, các tập đoàn thống trị... Tóm lại, cần cho họ  hiểu  chính đường biên giới quốc gia, khu vực cũng có lịch sử của nó.    Theo hướng như vậy, chúng ta có thể giúp học sinh tiếp cận theo các  góc độ như sau, chẳng hạn:       ­ Bản đồ phản ánh phần lãnh thổ nào của thế giới (của quốc  gia...), tên gọi là gì?       ­ Bản đồ vẽ với mục đích gì? Nội dung lịch sử, địa lí được thể  hiện trên bản đồ?.        ­ So sánh những bàn đồ  phản ánh cùng khu vực, quốc gia trong   những khoảng thời gian lịch sử  khác nhau để  thấy những thay đổi vế  biên giới, khu vực, kinh tế, hành chính, địa danh, sự  phân bố  dân cư,   bố trí lực lượng quốc phòng...     ­ Giải thích và đánh giá những thay đổi nêu trên... Cách tiếp cận bản đồ nêu trên, theo tôi là cần thiết, giúp cho học sinh  có cái nhìn ( động) biện chứng vế mối tương tác giữa lịch sử  và điều  kiện địa lí, về  sự  thay đổi về  những nội dung lịch sử  có quan hệ  với   địa lí tự nhiên hay nhân văn. Ví dụ minh hoạ:  Ví dụ 1:      Khi dạy bài 25: Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập  dân tộc (từ thế  kỉ  I đến đầu thế  kỉ  X)­ SGK lớp 10­ Trang 139 (nâng  cao). GV hướng dẫn  HS tìm hiểu lược đồ nước ta thời thuộc Đường  (thế kỉ VII ­ IX). 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2