intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ lớp 9 - THCS

Chia sẻ: Khánh Thành | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

69
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là cần phải chú trọng giúp học sinh và định hướng cách làm bài cho học sinh, giúp học sinh biết cách làm bài, nhằm từng bước nâng cao chất lượng của bài viết và hiệu quả của việc giáo dục, đáp ứng yêu cầu của mục tiêu giáo dục hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ lớp 9 - THCS

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Văn học vốn rất gần gũi với cuộc sống, mà cuộc sống bao giờ  cũng bề  bộn và vô cùng phong phú. Mỗi tác phẩm văn chương là một mảng cuộc sống   đã được nhà văn chọn lọc phản ánh. Vì vậy môn văn trong nhà trường có một vị  trí rất quan trọng: Nó là vũ khí thanh tao đắc lực có tác dụng sâu sắc đến tâm  hồn tình cảm của con người, nó bồi đắp cho con người trở  nên trong sáng,  phong phú và sâu sắc hơn. M.Goóc­ki nói: “Văn học giúp con người hiểu được   bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở  con người   khát vọng hướng tới chân lý”.  Dạy Văn nói chung, dạy phân môn Tập làm văn kiểu bài nghị luận về tác   phẩm văn học (phần thơ) nói riêng ở khối lớp 9 trong trường Trung học cơ sở  là dạy cho các em học sinh lứa tuổi 14, 15 ­ lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng,  năng động và nhạy cảm biết tìm tòi, khám phá ra thế  giới văn chương nghệ  thuật. Làm thế  nào để  giáo viên giúp học sinh đồng cảm với những giá trị  tư  tưởng nhân văn cần đạt tới trong mỗi tác phẩm tìm ra cái hay, cái đẹp trong các   tác phẩm để biết cách làm bài.  Hiện nay, học sinh khi làm tập làm văn, đa số  các em thường không tìm   hiểu kĩ đề bài và tìm ý trước khi bắt tay vào làm bài viết của mình nên thường   lệch lạc kiểu bài, nhầm lẫn các dạng đề. Đề  bài nghị  luận về   đoạn thơ, bài   thơ thường có các dạng đề mệnh lệnh và “mở”. Các mệnh lệnh thường gặp là  “suy nghĩ” “cảm nhận của em”, “phân tích” về  đoạn thơ, bài thơ... Trong quá trình giảng dạy môn ngữ văn lớp 9, học sinh mới chỉ nắm vững  các yêu cầu, cách làm bài nghị luận đoạn thơ, bài thơ trên lý thuyết, nhưng khi   bắt tay vào làm bài, viết bài nghị  luận đoạn thơ, bài thơ  thì các em chưa thật  thành thạo, còn lúng túng, hành văn chưa mạch lạc, bố cục chưa rõ ràng, nhất  là đối với đối tượng học sinh từ  trung bình trở  xuống. Vì vậy, cần phải chú  trọng giúp học sinh và định hướng cách làm bài cho học sinh, giúp học sinh biết              1
  2. cách làm bài, nhằm từng bước nâng cao chất lượng của bài viết và hiệu quả  của việc giáo dục, đáp ứng yêu cầu của mục tiêu giáo dục hiện nay.  Xuất phát từ tình hình trên và thấy rõ tầm quan trọng của việc rèn cho học   sinh làm kiểu bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ trong dạy học ngữ văn là  rất cần thiết, bản thân lại trực tiếp giảng dạy lớp 9 nên tôi xin nêu một vài   kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy  với mục đích trao đổi cùng các bạn  đồng nghiệp qua sáng kiến:  “Hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị   luận về đoạn thơ, bài thơ  lớp 9 ­ THCS”. 1.2. Điểm mới của đề tài Trong chương trình của học kì II môn Ngữ  văn 9, chỉ  có 3 tiết đề  cập  đến phần nghị  luận về  một đoạn thơ, bài thơ, gồm: Nghị  luận về  một đoạn  thơ, bài thơ; Cách làm bài nghị  luận về  một đoạn thơ, bài thơ  và Luyện nói:  Nghị  luận về  một đoạn thơ, bài thơ. Trên mạng xã hội cũng như  trong các   trang   tài   nguyên   dạy   học   như   violet.vn,   giaoan.net,...   thấy   có   nhiều   đề   tài,  nghiên cứu về văn nghị luận nhưng chỉ nói chung chung, hầu như chưa có công   trình nào nghiên cứu độc lập cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài   thơ.  Rõ ràng, với một kiểu bài nghị luận khó, đòi hỏi phải có nhiều thời gian   và cách thức để nắm rõ và vận dụng tốt mà giáo viên và học sinh có quá ít thời   gian. Vì vậy, với đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ đem đến cho thầy cô và   học sinh một vài cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ lớp 9.  1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài Đề  tài áp dụng cho giáo viên giảng dạy Ngữ  văn lớp 9 nói riêng, cấp  THCS nói chung. Đề  tài cũng là tài liệu tham khảo có giá trị  cho những học  sinh yêu thích và học giỏi môn Văn, học sinh học chuyên Văn...              2
  3. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng vấn đề Trong những năm gần đây, học sinh nói chung và học sinh khối lớp 9 nói   riêng viết bài tập làm văn kiểu bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ thường khô  cứng, sáo rỗng, lúng túng và máy móc. Các em không biết viết văn như thế nào  cho đúng cho hay. Đúc kết những giá trị văn học thành những công thức rồi dựa  vào đó mà suy diễn trong mọi trường hợp làm tác phẩm mất đi ý nghĩa cụ thể  đích thực của nó. Chính vì vậy để  tìm ra biện pháp, cách tổ  chức hướng dẫn   các em trong giờ Tập làm văn “biết làm văn” nghị luận về  đoạn thơ, bài thơ,  quả  là một vấn đề! Tôi tin rằng đó không chỉ  là băn khoăn trăn trở  của riêng   bản thân mình mà là của tất cả  những ai yêu Văn và tâm huyết với nghề dạy   Văn.  2.1.1. Đối với giáo viên  Không ít thầy cô còn e ngại khi dạy phân môn Tập làm văn. Bởi dạy phân  môn Tập làm văn nhất là kiểu bài nghị  luận về  đoạn thơ, bài thơ, giáo viên  phải tìm tòi nghiên cứu kĩ về  tác phẩm thơ, phải thực sự  nhập tâm vào   thi   phẩm để  chỉ  ra cái hay cái đẹp trong đoạn thơ, phát hiện những biện pháp  nghệ thuật được sử dụng trong bài, phải vận dụng, tổng hợp nhiều kiến thức   kể cả vốn sống, vốn tư tưởng tình cảm thể hiện sự rung động với tác giả. Do  đó, trong quá trình giảng dạy, tôi luôn trân trọng, đánh giá cao những bài làm có  nét riêng, thể  hiện được những cảm xúc chân thật, những nhận xét, phân tích              3
  4. tinh khôi, sáng tạo của các em đối với một đoạn thơ, bài thơ, một vấn đề  hay  một khía cạnh của vấn đề thể hiện trong bài làm của các em.  2.1.2. Đối với giáo viên học sinh Theo kết quả thăm dò bằng phiếu điều tra như sau:  Tổng số học sinh khối 9: 112 em Học sinh thích học Học sinh không thích học     SL      %      SL   %     33   29.5      79  70.5 Phần lớn các em gặp dạng đề  nghị  luận về  đoạn thơ, bài thơ  thì các em  diễn nôm bài thơ  mà chưa phân tích, bình luận sâu sắc về  các tín hiệu nghệ  thuật ngôn từ. ­ Các em không thực hiện qua các bước tạo lập văn bản. ­ Bố cục bài văn chưa rõ ràng ba phần. ­ Hệ thống luận điểm, luận cứ chưa rõ ràng mạch lạc. ­ Ngôn ngữ diễn đạt của các em thiếu cảm xúc, chưa thuyết phục người   đọc. Chính vì vậy, tôi đã áp dụng một số biện pháp, cách làm bài văn nghị luận  về đoạn thơ, bài thơ, đồng thời phân đối tượng học sinh giỏi ­ khá ­ trung bình  ­ yếu nhằm mục đích áp dụng các bước từ  dễ  đến khó cho phù hợp, rồi vận  dụng chúng một cách có hiệu quả. Kết quả  bước đầu đã đem lại thành công  nhất định. 2.2. Các giải pháp Tác phẩm văn học bao giờ cũng là một tổng thể hoàn chỉnh giữa nội dung  và phương thức biểu đạt, tức là nghệ thuật. Nghị luận một đoạn thơ, bài thơ là  trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về  mình về  nội dung và nghệ  thuật của đoạn thơ, bài thơ qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu nghệ thuật. Như  vậy, để  đáp  ứng yêu cầu của bài văn nghị  luận về  đoạn thơ, bài thơ, người  giáo viên và học sinh phải hiểu tính chất tổng hợp khi dạy và học kiểu bài nghị  luận này.  2.2.1. Kiến thức cần lưu ý khi làm văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ             4
  5.  Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh nắm được những kiến thức quan   trọng khi làm văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cụ thể như:  a  Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ là gì? +Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình  về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ qua ngôn từ, hình ảnh, giọng  điệu. b. Phương pháp làm bài: * Phải đặt tác phẩm (bài thơ, đoạn thơ) trong hoàn cảnh sáng tác để   phân tích, nhận xét, đánh giá.  VD 1:  “Bài thơ  về  tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật   được  sáng tác trong hoàn cảnh kháng chiến chống Mĩ ác liệt, những chiếc xe của  người lính bị  bom đạn vùi dập trở  nên trần trụi. Từ  đó thấy được ý chí kiên  cường, dũng cảm và tinh thần lạc quan của người lính: Dù giặc Mĩ dã man, tàn   phá, huỷ  diệt nhưng không thể  đè bẹp nổi ý chí, niềm tin mãnh liệt của các  chiến sĩ lái xe và nhân dân ta.  VD 2: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp  gian khổ, ác liệt, thiếu thốn nhưng tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn tinh  thần chiến đấu lạc quan, lãng mạn vẫn luôn được thể  hiện  ở  những người   lính cụ Hồ.  ­ Nếu là bài văn nghị luận về một đoạn thơ, một khổ thơ, người viết cần   phải đặt đoạn thơ, khổ  thơ đó trong mối quan hệ  với toàn bài để  định hướng   đánh giá, nhận xét. * Nghị  luận về  một đoạn thơ, bài thơ  cần chú ý phân tích, bình luận   các yếu tố: ­ Ngôn từ:  Lựa chọn những từ ngữ có giá trị biểu cảm cao trong tác phẩm.  VD: Từ  “Con”, “thăm”, “Bác” trong câu thơ  “Con  ở  miền Nam ra thăm  lăng Bác” (Viếng lăng Bác ­ Viễn Phương).             5
  6. VD: Từ  “Mọc”, “hứng” trong khổ  đầu của bài thơ   “Mùa xuân nho nhỏ”   của Thanh Hải ­ Hình ảnh: VD: Hình ảnh "đám mây mùa hạ" trong “Sang thu” (Hữu Thỉnh) hoặc hình  ảnh “Vầng trăng, trời xanh” trong bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.  ­ Nhịp thơ:  VD: Bài thơ “Viếng lăng Bác” có nhịp thơ đều thể hiện tình cảm tha thiết,  thành kính của tác giả đối với Bác Hay:  Bài thơ  “Nói với con” của Y Phương thì nhịp thơ  chậm, ngắn 2/3   hoặc 3/2/2 để thể hiện lời thủ thỉ tâm sự của người cha nói với con cụ thể:                      “ Chân phải / bước tới cha...                        Người đồng mình / thương lắm / con ơi”. ­ Mạch cảm xúc:  VD: Bài thơ  “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải có mạch cảm xúc đặc  biệt từ cảm xúc mùa xuân của thiên nhiên, đất nước mà phát triển dâng trào tới  cảm xúc khao khát được dâng hiến cho đời . ­ Các biện pháp tu từ:  Cần chú ý phân tích các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nói quá, điệp  từ, điệp ngữ  để  làm rõ sự  độc đáo, sáng tạo của từng tác giả  trong biểu đạt   nội dung. * Cần xác định rõ trọng tâm để xoáy sâu phân tích, tránh dàn đều. * Kết hợp nhuần nhuyễn giữa giới thiệu dẫn dắt, dẫn chứng với phân   tích bình luận để làm rõ ý thơ, cần bình luận để người đọc thấy được cái hay   cái đẹp của đoạn thơ, bài thơ về nội dung và nghệ thuật. Chú ý liên kết các câu trong đoạn, các đoạn các phần trong bài văn cả về  nội dung và hình thức: 2.2.2. Các bước tạo lập văn bản nghị luận về đoạn thơ, bài thơ Bước 1: Tìm hiểu đề, tìm ý * Tìm hiểu đề:             6
  7. ­ Xác định thể loại, kiểu bài nghị luận? (chú ý từ: suy nghĩ, phân tích, cảm   nhận để thực hiện đúng phương pháp làm bài). ­ Tìm nội dung bàn luận? (Nội dung và nghệ thuật bài thơ? Hoặc nét đặc   sắc về nghệ thuật trong bài thơ...). ­ Tìm phạm vi kiến thức để phục vụ cho vấn đề bàn luận mà đề yêu cầu?  (tác phẩm nào? Của ai? Hoặc kiến thức thuộc lĩnh vực nào? Các dạng đề nghị luận về đoạn thơ, bài thơ.   Ví dụ: Đề  1: Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong  “Bài thơ  về  tiểu đội xe   không kính” của Phạm Tiến Duật? Đề 2: Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy gợi cho em suy nghĩ gì? Đề 3: Phân tích “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải để thấy lẽ sống cao  đẹp của nhà thơ. Đề 4: Những đặc sắc trong bài thơ “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương.  Đề  5: Cảm nhận và suy nghĩ của em về  tình cha con trong bài “Nói với   con” của Y Phương?  Đề 6:  Hình ảnh người lính qua hai thi phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu  và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.  Khi tìm hiểu các đề nghị luận về đoạn thơ, bài thơ tôi hướng dẫn các em   chú ý các từ trong đề bài “phân tích, cảm nhận và suy nghĩ” hoặc có khi đề bài  không có lệnh như đề 6. Chẳng hạn từ   phân tích chỉ định về phương pháp, từ  cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ người viết, từ  suy nghĩ nhấn mạnh tới  nhận định, phân tích của người làm bài. Trường hợp không có lệnh thì các em  phải bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề đươc nêu ra trong đề bài.  Sự khác biệt  trên chỉ ở sắc thái chứ không phải là khác về  kiểu bài. * Tìm ý:   Nghị  luận  về   đoạn  thơ,  bài  thơ   phải  tìm  hiểu   nhà  thơ,  cuộc   đời  sự  nghiệp, phong cách sáng tác, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, đặc biệt phải bám               7
  8. sát bố  cục của bài để  tìm luận điểm. Và tìm ý bằng các câu hỏi chẳng hạn  như: Bài thơ  được viết trong hoàn cảnh như  thế  nào? Tác giả  sử  dụng các từ  ngữ đặc sắc nào? Các từ ngữ ấy diễn tả gì? Thể hiện tâm trạng tác giả ra sao?  Tác giả dùng các hình ảnh nào đẹp, đặc sắc? Cảnh như thế nào? Tình như thế  nào? Cảnh và tình bộc lộ tâm trạng gì? Tác giả sử dụng những biện pháp tu từ  nào? Biện pháp  ấy bộc lộ  nội dung gì? Giọng điệu, nhịp, thanh, vần của bài  thơ có gì đặc biệt? Điểm đặc biệt ấy thể hiện điều gì?  Có tứ thơ nào mới lạ,  đặc sắc trong bài? Giá trị  nội dung và nghệ  thuật bài thơ?  Tác dụng của bài  thơ? Bước 2: Lập dàn bài Đây là bước mà học sinh coi là khó nhất khi làm bài. Và các em cũng hay  bỏ qua để thực hiện bước viết bài. Tại sao vậy? Vấn đề này cũng dễ lí giải:  Thứ nhất, các em có một tâm lí sợ mất nhiều thời gian khi làm bài.  Thứ hai, không có thói quen, chưa tập thành nếp lập dàn bài trước khi viết  bài hoàn chỉnh.  Thứ ba, không thuộc thơ cho nên cũng không thể lập được dàn bài.  Thứ tư, do thói quen chủ quan của một số em. Như vậy, dẫn đến hậu quả  hệ thống luận điểm sắp xếp không theo trật tự lô gic, các ý lộn xộn, hoặc bỏ  ý, bỏ luận điểm trong bài bài viết.  Vậy bước này, giáo viên cần phải làm gì để giúp các em tránh khỏi những  tồn tại trên? Đối với bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ, khi tìm ý giáo viên   yêu cầu học sinh phải biết đặt câu hỏi và trả  lời câu hỏi làm sao cho phù hợp   với từng đề bài cụ thể. Chẳng hạn, với dạng đề có chỉ định và dạng đề không   có chỉ  định, giáo viên yêu cầu học sinh phải xác định được đâu là nội dung  chính cần tìm. Vấn đề  là giáo viên tổ  chức hướng dẫn học sinh phát hiện ra các luận   điểm chính mà đề yêu cầu. Có như vậy việc lập dàn bài, triển khai luận điểm  mới trở  thành kĩ năng  ở  các em. Tránh tình trạng khi viết bài lại không trúng               8
  9. luận điểm với những ý lớn mình đã xác lập, viết lan man, từ  ngữ  nghèo nàn  không gợi cảm xúc, tình cảm của người viết Thông thường dàn bài chung cho bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ  theo một trình tự như sau: Mở bài:  ­ Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề nghị luận. Có thể là nhận định,  có thể là nội dung, có thể là hiện tượng văn học nào đó… được nêu ra trong đề  bài. Thân bài:  ­ Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm . ­ Dựa vào bố cục bài thơ để tìm hệ thống luận điểm, luận cứ.  (Người viết dựa vào việc phân tích giá trị, nét đặc sắc của bài thơ, đoạn  thơ để đánh giá tổng quát về nội dung bình luận, phân tích). Kết luận: Khẳng định giá trị  nội dung và nghệ  thuật của đoạn thơ, bài  thơ. (Và đưa ra ý kiến của riêng mình về giá trị bài thơ).  Ví dụ đề bài: Những đặc sắc trong bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn   Phương (Sgk Ngữ văn 9 trang 80). Với yêu cầu của đề bài này, giáo viên tổ chức cho các em lập dàn bài cho  bài văn. Mỗi bài thơ  phải dành thời gian để  lập dàn ý chi tiết. Trước hết cho  các em đặt câu hỏi tìm ý cho phần mở bài: Mở bài: + Giới thiệu cuộc đời và sự  nghiệp của nhà thơ  Viễn Phương? Tìm dấu  ấn về nhà thơ Viễn Phương. + Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nào? (Khi lăng Bác vừa xây dựng xong và   nhà thơ lần đầu tiên ra thăm lăng Bác?) + Đặc điểm nội dung và nghệ thuật của bài thơ là gì? * Sau đó giáo viên tổ chức cho các em tìm luận điểm, luận cứ trong phần  thân bài. Mỗi bài thơ lại có nhiều cách trình bày luận điểm. Tùy từng yêu cầu              9
  10. của đề  bài mà giáo viên gợi cho học sinh tìm luận điểm. Khi tìm luận điểm  phải hướng dẫn các em tìm ý bằng cách đặt câu hỏi: Thân bài: Thứ nhất, dựa vào vấn đề  đã nêu nội dung hoặc nghệ thuật đặc sắc của  bài thơ, hoặc nhan đề… ở phần mở bài mà các em đã tìm ý được để triển khai   luận điểm.      Thứ  hai, nếu vấn đề  nghị  luận là phân tích nội dung cả  bài thơ  thì giáo  viên cho học sinh dựa vào bố cục bài thơ để tìm ý lớn.  Vậy bố cục của bài thơ  gồm mấy phần? Hãy nêu nội dung khái quát của từng phần? Khi tìm ra nội  dung khái quát từng bài có nghĩa là các em đã tìm ra các luận điểm. Có trường  hợp bài thơ có dấu ấn đặc biệt thì giáo viên phải cho học sinh phân tích và bình   luận để thấy được nét phong cách độc đáo của nhà thơ. ­   Luận điểm 1: Cảm xúc ngợi ca của tác giả  trước cảnh vật bên ngoài   lăng  (khổ 1) + Luận cứ 1: Câu thơ thứ nhất “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” chứa  đậm chất tự  sự, nó như  một lời kể, lời thông báo với Bác. Tác giả  xưng hô   “con” với “Bác” diễn tả tình cảm của nhân dân với lãnh tụ gần gũi, thân mật  như con với cha. Từ “thăm” làm giảm đi nỗi đau mất mát vô cùng to lớn trước  sự ra đi của Người.) + Luận cứ 2: Hình ảnh tả thực hàng tre “Đã thấy trong sương hàng tre bát   ngát” trong sương sớm, mờ   ảo, lung linh trước lăng Bác, một hình  ảnh quen   thuộc nơi làng quê về đây hội tụ. + Luận cứ 3: Hình ảnh ẩn dụ “Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam ­ Bão táp   mưa sa đứng thẳng hàng” tượng trưng cho sức sống bền bỉ, kiên cưỡng, bất  khuất của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước. ­ Luận điểm 2: Cảm xúc của tác giả  trước dòng người vào lăng viếng  Bác  (khổ thơ thứ 2)             10
  11. ­ Luận điểm 3: Cảm xúc đau xót nghẹn ngào khi tác giả đứng trong lăng  viếng Bác (khổ thơ thứ 3) ­ Luận điểm 4: Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ  khi phải trở  về  miền   Nam (khổ cuối) ­ Đánh giá về đặc sắc nghệ thuật: giọng thơ vừa trang nghiêm, sâu lắng,   vừa tha thiết, đau xót, tự hào, thành kính, nhịp chậm, lời thơ giản dị, thể thơ 8   chữ…diễn tả  sự  trang nghiêm, thành kính trong tâm trạng nhà thơ. Hình  ảnh   thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp cả hình ảnh thực và ẩn dụ có ý nghĩa khái quát  cao. Cuối cùng, giáo viên tổ chức cho học sinh làm phần kết bài.  Kết bài:  Giáo viên cho học sinh đặt câu hỏi và trả  lời: phần kết bài của kiểu bài  này có nhiệm vụ gì? Hãy liên hệ bản thân? (đánh giá, khẳng định giá trị của bài  thơ).  Rút ra bài học cho bản thân hoặc liên hệ  mở  rộng vấn đề  khơi gợi suy   nghĩ nơi người đọc.  Bước 3:    Hướng dẫn học sinh viết đoạn và liên kết đoạn  Khi thực hiện bước này, nhất thiết người viết phải bám sát vào dàn bài đã  lập để  triển khai hệ  thống luận điểm, luận cứ,  luận chứng. Từ  dàn ý đã có  sẵn, các em có thể viết thành đoạn, thành bài. Tôi hướng dẫn các em viết từng   đoạn  tiêu biểu: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài. 1. Đoạn mở bài: a. Nguyên tắc mở bài: ­ Cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài. Chỉ được phép nêu những ý khái quát HS không được lấn sang phần thân  bài: giảng giải, minh hoạ hay nhận xét, đánh giá ý kiến nêu trong đề bài. b. Cách mở bài: Có rất nhiều cách mở bài. Tuỳ dụng ý của người làm mà  có thể vận dụng một trong những cách sau đây:              11
  12. Mở  bài trực tiếp: Là đi thẳng vào vấn đề cần nghị luận, giới thiệu luôn  bài thơ. Mở bài gián tiếp: Là cách dẫn dắt vấn đề bằng những cảm xúc suy nghĩ  rồi từ đó giới thiệu đối tượng nghị luận. Sau đây là một số  cách mở  bài tham khảo cho đề  bài:   Phân tích bài thơ   “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. * Cách trực tiếp:            Ví dụ 1: Mở bài bằng cách giới thiệu tác giả tác phẩm Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn, ông sinh năm 1930 mất năm 1980   ở  huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, là người có công đầu trong việc   xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” ra  đời vào tháng 11 năm 1980 khi ông đang nằm trên giường bệnh. Tác phẩm đã  thể hiện niềm yêu mến thiết tha cuộc sống, đất nước và ước nguyện làm một  mùa xuân nho nhỏ dâng hiến cho đời. Ví dụ 2: Giới thiệu tác phẩm trước tác giả sau Cứ nhắc đến Mùa xuân nho nhỏ là người ta nhớ ngay đến nhà thơ Thanh   Hải. Bài thơ  chính là tiếng lòng là tâm nguyện thiết tha của tác giả  trước khi  trở về với cát bụi. Bằng âm hưởng dịu dàng sâu lắng bài thơ  không chỉ  là sức  sống của mùa xuân thiên nhiên đất nước mà còn là ước nguyện được làm một  mùa xuân nho nhỏ hoà vào mùa xuân lớn của dân tộc.     Ví dụ  3:  Giới thiệu tác giả  tác phẩm theo cách sáng tạo của riêng   mình, cách này ngắn gọn, xúc cảm và sáng ý. Khi nhắc đến nhà thơ  Thanh Hải người ta nghĩ ngay đến bài thơ  “Mùa   xuân nho nhỏ”  ­ tác phẩm cuối cùng và đặc sắc nhất của ông. Mùa xuân nho  nhỏ  là nhan đề  bài thơ  hay tiếng lòng tha thiết  ước nguyện chân thành của  Thanh Hải khi biết mình sắp phải lìa xa cuộc sống mến thương.         * Cách gián tiếp Ví dụ 1: Từ cảm xúc bồi hồi rạo rực của con người trước thiên nhiên             12
  13. Rạo rực trước mùa xuân của thiên nhiên đất nước, tâm hồn người thi sĩ   cũng xốn xang lắng đọng bởi những cảm xúc thiết tha ngọt ngào, khát vọng  được dâng hiến được hoà nhập ­ đó là ước nguyện chân thành mà sâu sắc của  nhà thơ Thanh Hải qua “Mùa xuân nho nhỏ” giản dị khiêm nhường. Ví dụ 2: Liên tưởng từ cách gợi trong một bài hát cùng tên “Mùa xuân ­  ta xin hát Câu nam ai nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình...” Bài hát đã khép lại nhưng khúc ngân của mùa xuân mang âm điệu mượt  mà của câu hò xứ  Huế  vẫn còn vương vấn trong lòng người. Với chất nhạc,   chất thơ  lay động tâm hồn,  ước nguyện chân thành tha thiết từ  tấm lòng nhà  thơ  “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã để  lại trong lòng người  ấn tượng  và cảm xúc sâu lắng. Ví   dụ   3:  Mở   bài   theo   cách   phản   đề:   Là   xây  dựng  những   ý  nghĩa  những hình ảnh mang tính chất đối lập để làm nổi bật vấn đề nghị luận. Có người nói thi nhân phải cảm ơn mùa thu vì mùa thu đã gợi bao thi hứng  làm nên những tác phẩm thơ  bất hủ  nhưng tôi lại cho rằng mùa xuân mới là  mùa của thi ca, không thế mà sao có biết bao bài thơ xuân đã ra đời như “Xuân   ý” của Chế  Lan Viên, “Mùa xuân  chín” của Hàn Mặc Tử, “Mùa xuân xanh”   của Nguyễn Bính và cả “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. 2. Đoạn thân bài: Trước hết, tôi phải xác định vai trò của phần thân bài cho học sinh nhận   thức đầy đủ  tầm quan trọng của nó trong một bài văn.  Phần thân bài sẽ  lần  lượt trình bày, giải thích, nhận xét, đánh giá đối tượng ấy bằng tư tưởng, tình  cảm của mình .....các luận điểm của vấn đề  được đặt ra trong đề bài. Ở từng  luận điểm, cần có sự phân tích, sự thâm nhập, thẩm bình sâu tác phẩm vừa yêu  cầu kĩ năng tổng hợp, khái quát thành nhận định, đánh giá riêng. Giữa các luận              13
  14. điểm,  đoạn văn cần có sự  liên kết, chuyển tiếp một cách linh hoạt, uyển  chuyển, tránh gò bó, máy móc, công thức.  Ví dụ: Một đoạn thân bài của đề  bài: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho   nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. Giáo viên có thể giới thiệu cho HS tham khảo đoạn văn phân tích khổ thơ  cuối: Người xưa thường nói “thơ là tiếng lòng”. Mỗi vần điệu trong bài thơ là  một bức hoạ về cuộc sống. Nếu những khổ thơ trên là những suy ngẫm cảm  động về ước nguyện dâng hiến thì khổ thơ cuối nhà thơ lại muốn được cất lên  tiếng hát thiết tha dựa trên lời ca buồn bã của câu Nam ai Nam bình xứ Huế:  Mùa xuân ta xin hát     Câu Nam ai Nam bình          Nước non ngàn dặm mình        Nước non ngàn dặm tình              Nhịp phách tiền đất Huế.  Lời ca như vang vọng, gợi mở ra một cái tình nhỏ  bé trong cái ngàn dặm  rộng lớn, mênh mang nhưng vẫn rất gần gũi, tràn đầy yêu thương và  ấm áp,  gợi mở ra một cái tình rất riêng, rất Huế nhưng lại hoà chung được với nước   non. Tiếng hát đằm thắm hiền hoà xen với những tiếng phách giòn giã, tươi  vui đã kết lại bài thơ. Bài thơ khơi lên là dòng sông là tiếng chim hót vang trời  xứ  Huế, kết thúc lại là nước non và tiếng hát tươi vui cả  tình yêu nước non   ngàn dặm, tình yêu quê hương đất nước. 3. Đoạn kết bài: Đoạn kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân bài.   Chỉ nêu những ý nhận xét, đánh giá khái quát, không trình bày lan man hay lặp   lại ý diễn giải, minh hoạ, cụ thể, chi tiết. Cũng không nên lặp lại nguyên văn  lời lẽ của phần mở bài. Khác với mở bài, phần kết bài thiên về đánh giá, tổng   kết vấn đề.    Có nhiều cách kết bài khác nhau, tuỳ theo dụng ý của người viết. Có khi   kết bài là tóm tắt, khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Có              14
  15. khi kết bài là tổng hợp những cảm nhận sâu sắc về  nhân vật, tác giả, tác  phẩm. Có khi  kết bài lại là liên tưởng đến các vấn đề khác có liên quan.  Thế  nên, để  hướng dẫn HS viết được những kết bài sâu sắc, người GV  cần phải giúp HS nhận thức được tầm quan trọng của đoạn kết bài không  chỉ  khép lại, hoàn chỉnh bài văn mà còn làm cho bài văn thêm khái quát, nâng cao về  mọi mặt: tư tưởng, tình cảm, chủ đề, quan niệm sống tốt đẹp … Dưới đây là hai cách kết bài cho đề bài văn: Phân tích bài thơ “Mùa xuân   nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải? Ví dụ 1: Đánh giá chung về tác phẩm. Bài thơ  khép lại bằng một triện đỏ  in dấu hồn thơ  của người con xứ  Huế.  Bài thơ  lay động tâm hồn chúng ta bởi chất nhạc xao xuyến và  ước  nguyện chân thành cảm động. Cái ước nguyện lặng lẽ dâng cho đời một mùa  xuân nho nhỏ đã tìm được những tiếng lòng đồng vọng. Bài thơ chính là một  “  Mùa xuân nho nhỏ” Thanh Hải để lại cho đời trước lúc đi.  Ví dụ 2: Đánh giá ý nghĩa bài thơ và liên hệ bản thân. “Mùa xuân nho nhỏ”  là một bài thơ  có tứ  thơ  độc đáo, cảm hứng xuân  phơi phới, hình ảnh sáng tạo, nhạc điệu vui tươi tha thiết. Đọc  “Mùa xuân nho  nhỏ” trái tim ta dường như xao xuyến, một cảm xúc thanh cao, trong sáng từ từ  dâng ngập hồn ta. Bài thơ  đem đến cho chúng ta bao cảm xúc đẹp về  mùa  xuân, gợi cho ta suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp của một tâm hồn trong sáng  khiến ta cảm phục và tin yêu. Còn gì đẹp hơn mùa xuân? Có tình yêu nào rộng   lớn hơn tình yêu quê hương đất nước? Thấm nhuần tâm tư,  ước nguyện của  của nhà thơ, chúng ta càng thêm tin yêu vào mùa xuân của đất nước và “mùa   xuân nho nhỏ” trong lòng mình. Chúng ta muốn cùng con chim chiền chiện hót   lên khúc ca ngọt ngào gọi xuân về, muốn học thành tài để  hiến dâng cho đất   nước, góp phần công sức nhỏ bé để tô điểm cho mùa xuân cuộc đời thêm đẹp.  Sau khi học sinh viết bài hoàn chỉnh,  giáo viên nên tạo cho các em thói  quen đọc lại bài và sửa lỗi. Đó cũng là một hình thức soát lại bài giúp các em  điều chỉnh, hoàn thiện những thiếu sót trong bài của mình.                  15
  16. Bước 4: Đọc, sửa lỗi Đây là bước cuối cùng khi hoàn thiện bài văn nghị  luận về đoạn thơ, bài   thơ. Người viết phải có thói quen rà soát lại bài làm của mình để  sửa lỗi về  nội dung lẫn hình thức. Về nội dung, người viết phải soát lại hệ thống luận điểm, luận cứ. Về  hình thức, người viết phải soát lại bố  cục, các đoạn văn, các câu văn  diễn đạt, lỗi chính tả thường mắc phải.   Vì vậy giáo viên hướng dẫn các em và yêu cầu các em phải thực hiện  bước này để hình thành thói quen kiểm tra lại bài viết của mình sau khi viết.                                          MÔ HÌNH BÀI VĂN      Mở bài                                 Thân bài                                      Kết bài Tác giả     Tác phẩm        LĐ1    LĐ2     LĐ3    LĐ4…    Khẳng định      Liên hệ                                                                                                                              Thao tác: phân tích, bình luận, đánh giá từng đoạn thơ 2.3. Kết quả đạt được Theo dõi tỷ lệ học sinh thích học, biết viết văn nghị luận về đoạn thơ, bài  thơ đúng và hay, cảm xúc trong quá trình dạy học đã thu được kết quả  khá lạc  quan: Qua quá trình theo dõi  kết quả  cụ  thể như sau: Tổng số  HS khối 9: 112  em a. Trước khi chưa cải tiến phương pháp, cách hướng dẫn:   Môn Giỏi Khá Trung bình Yếu Sl % SL % SL % SL % Tập làm văn   17 15.2 33 29.4 45 40.2 15.2 17     b. Sau khi cải tiến phương pháp, cách tổ chức hướng dẫn:             16
  17. Môn Giỏi Khá Trung bình Yếu Sl % SL   % SL % SL % Tập làm văn 25 22.3 42   37.5  35  31.3 10 8.9 Qua bảng so sánh trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy, nhờ áp dụng cảu tiến  phương pháp, cách tổ chức hướng dẫn mà tỉ lệ học sinh giỏi , khá tăng lên; học  sinh trung bình và yếu giảm rõ rệt. 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Bài học kinh nghiệm:  Với tâm huyết giảng dạy thực tốt kiểu bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ  và qua tích luỹ một vài kinh nghiệm hướng dẫn HS phân tích đề, tìm ý, lập dàn  ý, viết đoạn và liên kết đoạn, tôi đã giúp HS của các lớp do chính tôi trực tiếp  giảng dạy đạt được kết quả tốt trong các kì kiểm tra học kì II và thi tuyển vào   lớp 10 luôn đảm bảo chỉ tiêu chất lượng từ 90% trở lên và chất lượng năm sau   cao hơn năm trước. Đa số  bài làm của các em đều đáp ứng được yêu cầu của   đề; khai thác được ý hay, ý sâu sắc; phân tích tinh tế, có cảm xúc, biết tìm tòi               17
  18. và sáng tạo mang phong cách riêng, không còn gượng ép, máy móc hay khuôn  sáo.Rất ít bài làm sơ lược, ý nghèo nàn hoặc không tìm được ý. 3.2. Ý kiến đề xuất:  Để việc dạy ­ học Tập làm văn thực sự có kết quả, để học sinh yêu thích  tiết học này người giáo viên phải cố  gắng nhiều trong việc nghiên cứu kĩ bài  dạy trước khi lên lớp, soạn bài phù hợp với đối tượng học sinh.  Bên cạnh đó  người giáo viên phải có tri thức, vốn sống kinh nghiệm phải đổi mới phương  pháp dạy học theo hướng tích cực hóa. Đặc biệt là trong giờ Tập làm văn phải  biết linh hoạt trong cách hướng dẫn, tổ chức cho các em không tẻ nhạt. Về  phía học sinh: phải nhiệt tình, tự  giác trau dồi vốn từ, ngôn từ  nghệ  thuật bằng cả  trái tim. Phải rèn luyện năng lực cảm thụ thơ  của mình từ  đọc  diễn cảm, chỉ ra cái hay cái đẹp trong đoạn thơ, bài thơ  phát hiện những biện  pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài. Học sinh cũng tự giác sưu tầm những   đoạn văn, bài văn nghị luận về thơ có giá trị để tham khảo và có thể nạp về tủ  sách nhà trường. Niềm vui của mỗi giáo viên Ngữ văn đứng lớp đâu chỉ là chất lượng tính  bằng con số của mỗi năm, mà chính là những ánh mắt long lanh vì đã hiểu bài,  những bàn tay tự  viết ra được những lời văn óng ánh,  những nụ  cười thiện  cảm với môn Văn từ  phía học sinh. Để  đạt được những điều vô cùng quý giá  đó mỗi giáo viên chúng tôi đâu chỉ có say mê nhiệt tình với công tác giảng dạy   mà còn phải tìm tòi hướng đi hiệu quả nhất.             18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2