intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 6 làm bài văn tả cảnh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:32

32
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm THCS "Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 6 làm bài văn tả cảnh" thực hiện với mong muốn giúp tháo gỡ những vướng mắc, xoá đi mặc cảm ngại học văn, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, phát triển tình yêu với môn học, giúp các em có được tình yêu với những cảnh vật bình thường. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 6 làm bài văn tả cảnh

  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI   TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH ––––––––––––––––––––––––         SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “ KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 6  LÀM BÀI VĂN TẢ CẢNH”   Môn:  Ngữ văn Tác giả:  Nguyễn Thị Thuỷ Chức vụ:  Giáo viên Văn         
  2. NĂM HỌC: 2019­2020 2
  3. CỘNG HOÀ XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc –––––––––––– SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 6 làm bài văn tả   cảnh” SƠ YẾU LÍ LỊCH Họ và tên:  Nguyễn Thị Thuỷ Ngày sinh: 19 ­ 11 ­ 1978 Chức vụ: Giáo viên Vào ngành: 1999 Đơn vị công tác:  Trường THCS Lương Thế Vinh Trình độ chuyên môn:  Đại học sư phạm Khen thưởng:                   Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở .                                         Lao động tiên tiến cấp cơ sở . 3
  4.   MỤC LỤC Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ. 1 I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ.   1    1.Cơ sở lí luận. 1   2.Cơ sở thực tiễn. 2 II. MỤC ĐÍCH VIẾT SKKN. 3 III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ ÁP DỤNG. 3 B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN. 4 I. KHẢO SÁT THỰC TẾ. 4 1.Tình hình thực tế khi chưa thực hiện đề tài. 4 2.Số liệu điều tra trước khi thực hiện. 5 II. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN. 5 III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN . 33 C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. 35 1. Kết luận. 35 2. Đề xuất và khuyến nghị. 35                                                                       4
  5. A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở khoa học của vấn đề a. Cơ sở lý luận: Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể  coi mỗi một tác phẩm văn học là một viên ngọc trong cuộc sống, nó bay bổng   tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Vậy  làm thế nào cho học sinh cảm nhận được chất thơ của cuộc sống đời thường  cũng có thể  sáng tạo nên những tác phẩm nghệ  thuật “bé con” giá trị? Tôi  nghĩ đó là một việc làm mà mọi giáo viên đang tìm cách đi nhẹ nhàng nhất và   hiệu quả nhất. Nhìn nhận vấn đề  một cách cụ  thể  hơn chúng ta thấy: Chương trình  Ngữ văn lớp 6 so với chương trình Tiểu học mà các em đã làm quen có nhiều   những khái niệm trừu tượng. Riêng phân môn Tập làm văn đòi hỏi các em  phải có cách viết già dặn hơn, sinh động hơn và đặc biệt trong văn miêu tả  cảnh phải có những hình  ảnh sống động , thuyết phục lòng người.Điều đó  không thể  đi từ  lý thuyết sang thực hành ngay được bởi tư  duy của lứa tuổi   các em học sinh lớp 6 còn là tư  duy cụ  thể,chua tiếp nhận được những kiến  thức trừu tượng. Cảm quan của các em còn thô sơ  chưa có nhiều tính hình  ảnh, sáng tạo nghệ thuật. b. Cơ sở thực tế. Có thể nói đối với các em học sinh ở cấp Tiểu học nhất là các em học  sinh lớp 4, 5 đều rất thành thạo trong việc thực hành viết  văn dạng văn bản  mẫu và tái tạo văn bản tương tự mẫu ở cấp Tiểu học. Nhưng lên lớp 6 việc   sáng tạo một văn bản nghệ  thuật đối với các em học sinh lớp 6 là một việc  làm vô cùng khó khăn và không có hứng thú. Hơn nữa sự say mê đọc tư  liệu   văn học của các em học sinh (thời nay) quả là ít ỏi và hầu như là không có bởi   những trò giải trí như  hoạt hình, truyện tranh, Internet tràn lan đang cuốn hút  các em. Điều đó đã đang dần làm nghèo nàn vốn từ  nghệ  thuật quý giá của   văn học trong mỗi học sinh. 5
  6. Từ những cơ sở trên tôi thiết nghĩ : quá trình rèn kỹ năng làm bài văn tả  cảnh cho học sinh lớp 6 là một việc làm thiết thực nên làm và làm một cách  cặn kẽ để có hiệu quả tốt nhất. 2. Mục đích viết sáng kiến kinh nghiệm. Với mong muốn giúp tháo gỡ những vướng mắc, xoá đi mặc cảm ngại  học văn, góp phần nâng cao chất lượng bộ  môn, phát triển tình yêu với môn   học, giúp các em có được tình yêu với những cảnh vật bình thường như: dòng   sông, cánh đồng, mái trường... và rộng hơn là tình yêu quê hương, đất nước  trong tâm hồn các em nên tôi đã xây dựng đề tài “Kinh nghiệm hướng dẫn   học sinh lớp 6 làm bài văn tả cảnh ”. Trong quá trình xây dựng đề tài này tôi  đã nhận được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn cùng   các đồng nghiệp trong nhóm. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và áp dụng. ­ Đối tượng: Học sinh lớp 6C, 6D Trường THCS Lương Thế Vinh. ­ Đề tài được áp dụng thực hiện trong năm 2019­2020 6
  7. B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN I. Khảo sát thực tế 1.Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài. ­ Trước khi thực hiện đề  tài này tôi thấy phần lớn các em học phân   môn Tập làm văn còn yếu nhất là đối với phần viết văn tả cảnh. ­ Một số em do kỹ năng đọc hiểu còn chậm nên không thể tìm hiểu kỹ  các đoạn văn mẫu. ­ Việc xác định yêu cầu đề bài, thể loại, nội dung còn lúng túng nên rất  hay bị lạc đề. ­ Việc phân phối thời gian làm bài chưa hợp lỹ, bố  cục ba phần xác   định chưa rõ. ­ Trình bày chưa chặt chẽ, sinh động, diễn đạt vụng do vốn từ  nghèo   nàn, vốn hiểu biết hạn hẹp. ­ Một số  hình  ảnh so sánh, sử  dụng chưa hợp lý, khập khiễng nên bài   văn chưa lôi cuốn người đọc. ­ Nhiều em còn lệ thuộc vào văn mẫu chưa có tư duy độc lập. 2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện. Với thực trạng trên nên khi kiểm tra học sinh trong bài viết tập làm văn  tả cảnh làm ở nhà với đề bài như sau: “Em hãy tả lại hình ảnh cây đào hoặc cây mai vàng vào dịp tết đến,   xuân về”.        Qua kiểm tra tôi đã thu được kết quả như sau: Số  Giỏi Khá TB Yếu Lớp lượn SL % SL % SL % SL % g 6C 45 5 11.1 13 28.9 23 51.1 4 8.9 6D 36 1 2.8 8 222 20 55.6 7 19.4 Qua bảng thống kê ta thấy tỉ  lệ  học sinh Giỏi ít, học sinh TB, Yếu   nhiều không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. 7
  8. II. Những biện pháp thực hiện. 1. Về phía giáo viên Để thực hiện thành công đề tài nay theo tôi mỗi giáo viên cần phải tuân   thủ đầy đủ tiến trình tổ chức các hoạt động dạy học đó là: ­ Khởi động. ­ Hình thành kiến thức mới. ­ Luyện tập. ­ Vận dụng. ­ Tìm tòi, mở rộng. Ngoài ra trong giờ  học giáo viên phải sử  dụng phương pháp dạy học  truyền thống kết hợp linh hoạt với các phương pháp giảng dạy mới. Giáo   viên và học sinh đều cần phải chuẩn bị kỹ trước khi đến lớp. Trong mỗi giờ học, người giáo viên sẽ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức  bằng cách thông qua các hoạt động học tập. Đối với mỗi hoạt động thầy là   người khởi xướng, tổ chức, hướng dẫn giúp học sinh tự tìm hiểu bài mới để  tự học, tự nghiên cứu. Điều đó không có nghĩa thầy là chủ thể giữ đặc quyền   cung cấp kiến thức, đánh giá hoàn toàn dẫn tới học sinh là phụ  chỉ  thụ  động   ghi chép học thuộc bài, lặp lại những điều đã nghe, hoặc có trong sách giáo  khoa. Theo yêu cầu đổi mới phương pháp, học sinh phải được chủ động lĩnh  hội   kiến   thức,   phải   được   hoạt   động   nhiều   trong   giờ   học.   Bằng   những  phương pháp phù hợp như đặt câu hỏi định hướng phát hiện, suy luận, liên hệ  thực tế... để học sinh có thể chủ động học và hiểu biết, luyện tập, khắc sâu   kiến thức cơ  bản. Đồng thời phát huy tác dụng giáo dục về  tri thức và đạo  đức học sinh. Với trách nhiệm lớn lao của người thầy là đào tạo thế hệ trẻ tương lai  tôi luôn suy nghĩ: Muốn có giờ dạy tốt thì người giáo viên phải có sự chuẩn bị  kỹ trước khi lên lớp như đọc sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, lựa chọn câu  hỏi để phát vấn có hiệu quả. Từ đó học sinh sẽ tiếp thu bài nhanh hơn và lưu   giữ  lượng kiến thức bài học lâu hơn. Cụ  thể  trước mỗi tiết dạy người giáo  viên phải có sự chuẩn bị như sau: 8
  9. ­ Soạn bài chu đáo, xác định rõ mục tiêu và trọng tâm bài học, nắm chắc  nội dung, phương pháp bám chuẩn kiến thức, kỹ  năng, tích hợp môi trường  vận dụng vào trong bài dạy. ­ Dự kiến những vấn đề để hướng dẫn học sinh tiếp cận kiến thức. ­ Dự kiến thời gian học sinh trao đổi, thảo luận theo nhóm để đi tới sự  thống nhất. ­ Lập kế hoạch chi tiết về hoạt động của thầy và trò trong 45 phút trên   lớp hoặc các buổi chuyên để. ­ Đọc và nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến nội dung bài học. ­ Dự giờ tham khảo để so sánh, đối chiếu (đối với những bài khó). ­  Ứng dụng công nghệ  thông tin vào giảng dạy để  gây hứng thú cho   học sinh. ­ Chọn lọc những nội dung cô đọng, tiêu biểu nhất để  hướng dẫn tìm  hiểu sâu nhưng vẫn đảm bảo tính vừa sức. ­ Ngôn ngữ, tác phong phù hợp với đặc trưng bộ  môn không được nói  ngọng. ­ Nắm chắc, phân loại các loại đối tượng học sinh Giỏi, Khá, TB, Yếu,  Kém để  có phương pháp dạy phù hợp phát huy tính tích cực chủ  động của  học sinh. ­ Giáo viên có hệ thống câu hỏi sát vấn đề, không hỏi tràn lan, phù hợp  với trình độ học sinh, hấp dẫn, tránh hỏi đơn điệu, khô khan.  ­ Sau khi kết thúc giờ học giáo viên hướng dẫn học sinh học bài cũ và   chuẩn bị bài mới. Việc chuẩn bị tốt của giáo viên sẽ giúp cho giáo viên vững vàng, tự tin   trong vai trò hướng dẫn và tổ  chức lớp mở  ra một kết quả tốt giúp học sinh  sẽ hứng thú hơn  trong mỗi tiết học.        2. Về phía học sinh * Trên lớp ­ Đi học chuyên cần, có ý thức học tập, xác định được động cơ học tập. ­ Trên lớp chú ý lắng nghe lời thầy giảng. ­ Có đủ sách giáo khoa, vở ghi, vở soạn, vở nháp... * Ở nhà: 9
  10. ­ Học bài cũ (nội dung ghi nhớ) và chuẩn bị bài mới. ­ Tham khảo các tài liệu có liên quan đến nội dung bài học. ­ Chuẩn bị  tâm lí thoải mái ,tinh thần tự  tin, mạnh dạn khi trình bày ý   kiến của mình trước cả lớp. 3. Giải pháp cụ  thể:  Cụ  thể  trong phạm vi đề  tài này tôi sẽ  có giải  pháp cụ thể như sau: 3.1.Trước tiên tôi hướng dẫn học sinh nhận biết đối tượng trong văn   miêu tả:   bao gồm cảnh thiên nhiên và cảnh sinh hoạt. Có thể  coi đây là  những bức tranh bằng ngôn ngữ, dừng lại một khung cảnh nào đó, một hoạt  động nào đó, một hoạt động nào đó của thiên nhiên của con người (Một phiên  chợ tết, một bến đò hoặc ga tàu đông khách, một cuộc thi thả diều, một cánh  rừng,một dòng sông, một làng quê,yên tĩnh,…). Nội dung của kiểu bài này  không nghèo nàn, thậm chí rất phong phú nhưng do kinh nghiệm quan sát của   học sinh còn yếu, kiến thức nghèo nàn, trình độ  sắp xếp ý còn hạn chế  nên   bài làm thường có bố cục lộn xộn, thiếu cân đối.       Khi làm kiểu bài này giáo viên cần lưu ý cho học sinh một số vấn đề sau      ­ Đối với văn tả  cảnh thiên nhiên, học sinh có thể  chọn một trong số  các  trình tự  tả  : theo trình tự  thời gian, không gian, số  lượng cảnh,…Bức tranh  thiên nhiên không bao giờ   ở  dạng tĩnh mà luôn có sự  thay đổi, vì vậy khi tả  phải làm nổi bật được sự thay đổi này (Mùa này khác mùa kia, buổi này khác   buổi kia, thời điểm này khác thời điểm kia…) ­ Ngoài việc tả  bao quát toàn cảnh, học sinh cần tìm được một số  hình  ảnh  tiêu biểu để  tập trung tả chi tiết, cụ thể. Đặc biệt là khi tả  cảnh thiên thiên   nào thì cũng phải đặt nó trong một không gian, thời gian cụ  thể, và phải có   mối quan hệ mật thiết với các hiện tượng tự nhiên,như gió, nắng… Các biện  pháp nghệ  thuật, so sánh, nhân hóa nên được vận dụng nhiều để  góp phần  làm cho bài văn tả sinh động hơn.       ­ Đối với văn tả  cảnh sinh hoạt thì cần chú trọng chọn tả  theo trình tự  thời gian và trình tự hoạt động của các đối tượng. Ngoài việc tả  chung, nhìn   bao quát toàn cảnh và liệt kê các hoạt động, người viết phải tập trung vào  một   số   cảnh   chính,   tiêu   biểu.   ưu   tiên   dùng   nhiều   những   từ   láy   tượng   hình,tượng thanh, nghệ  thuật so dài, câu đặc biệt hay câu bình thường, câu  đảo ngữ  hay câu đảo lược… Đặc biệt cần chú ý làm nổi bật mối quan hệ  tình cảm giữa các đối tượng xuất hiện trong bức tranh này. Nếu cần thiết   vẫn có thể đưa một số mẩu đối thoại, một số câu văn tự  sự, một số câu văn   nêu nhận xét cảm nghĩ vào văn tả cảnh sinh hoạt 10
  11. Ví dụ : Một số câu trong bài văn tả cảnh: “Chiều tối” của Phạm Đức: “Nắng bắt đầu rút lên những chòm cây cao, rồi nhạt dần và như hoà lẫn với  ánh sáng trắng nhợt cuối cùng.” =>Ta thấy câu văn miêu tả  sự  chuyển hoá của ánh sáng từ  “nhạt dần” rồi  “hoà lẫn” với “ánh sáng trắng nhợt”. Tác giả  cũng đã dùng thị  giác để  quan sát sự  biến đổi của ánh sáng và bóng  tối, đã dùng thính giác để  nghe tiếng dế  và dùng khứu giác để  cảm nhận  hương vườn và cũng đã sử  dụng nghệ  thuật nhân hoá làm cho câu văn sinh  động một cách rất tinh tế, khi viết: “Bóng tối như  bức màn mỏng, như  thứ  bụi xốp, mờ  đen phủ  dần lên mọi  vật.” “Một vài tiếng dế gáy sớm, vẻ thăm dò, chờ đợi.” “ Trong im  ắng, hương vườn thơm thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung   tăng trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành.” 3.2. Rèn kĩ năng quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn  miêu tả a. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh   – Đối tượng của bài văn miêu tả  là sự  vật, thiên nhiên, là con người, cuộc   sống con người. Có thể coi đó là một thế giới phong phú và đa dạng phức tạp   đang diễn rất hay đổi theo từng ngày từng giờ. Tuy vậy không phải tự  nhiên  mà ta hiểu ngay và nắm vững đặc điểm của từng sự vật , sự việc, con người  để  miêu tả  đúng bản chất của nó. Chính vì thế  mỗi giáo viên dạy môn Ngữ  văn cần phải hình thành ngay từ đầu kĩ năng quan sát và ghi chép.   – Đối với các em học sinh, khi làm văn miêu tả kĩ năng quan sát và ghi chép   cũng rất cần thiết,tuy nhiên các em không thể  có được các kĩ năng đó và sử  dung thành thạo được, tất cả mới chỉ là tập dượt: tập quan sát , tập ghi chép,  tập phát hiện ra đặc điểm nổi bật của các sự  vật, hiện tượng. Từ đó có vốn  sống phong phú để làm tốt bài văn miêu tả.    – Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người   để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy, tức là lấy  câu văn để biểu hiện các đặc tính, bản chất của sự vật, giúp người đọc như  được chứng kiến tận mắt sự vật miêu tả. Nên khi dạy văn miêu tả, tôi hướng  dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình tự hợp lý như sau: 11
  12.   *Tả theo trình tự không gian: Quan sát toàn bộ  trước rồi đến quan sát từng bộ  phận, tả  từ  xa đến gần, từ  ngoài vào trong, từ trái qua phải,… (hoặc ngược lại).   Ví dụ  1:  Trong văn bản“ Sông nước Cà Mau”­ Ngữ  văn 6 tập II, nhà văn   Đoàn Giỏi miêu tả toàn cảnh  Cà Mau theo trình tự từ xa đến gần:       “Càng đổ  gần về  hướng mũi Cà Mau thì sông ngòi, kênh rạch càng bủa  giăng chi chít như  mạng nhện. Trên thì trời xanh dưới thì nước xanh, chung  quanh mình cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá. Tiếng rì rào bất tận của những   khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào từ biển Đông và vịnh Thái Lan   ngày đêm không ngớt vọng về  trong hơi gió muối ­thứ  âm thanh đơn điệu  triền miên  ấy ru ngủ  thính giác, càng làm mòn mỏi và đuối dần đi tác dụng  phân biệt của thị  giác con người trước cái quang cảnh chỉ  lặng lẽ  một màu  xanh đơn điệu”.   Ví dụ 2:    Cũng trong văn bản “ Sông nước Cà Mau”­ Ngữ văn 6 tập II, nhà   văn Đoàn Giỏi đã miêu tả cảnh dòng sông và rừng đước Năm Căn theo trình   tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát  đến cụ thể: “Thuyền chúng tôi chèo thoát qua kênh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi  về Năm Căn. Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày  đêm như  thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như  người  bơi  ếch giữa những đầu sóng trắng.Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng  hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng được dựng lên cao ngất như  hai dãy  trường thành vô tận. Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn  bằng tăm tắp, lớp này chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu  xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ… lòa nhòa ẩn hiện trong sương   mù và khói sóng ban mai”. *Tả theo trình tự thời gian      Ví dụ : “Biển đẹp”­ Vũ Tú Nam “Buổi sớm nắng sáng. Những cánh buồm nâu trên biển được nắng chiếu vào  hồng rực lên như  đàn bướm múa lượn giữa trời xanh. Lại  đến một buổi   chiều gió mùa đông bắc vừa dừng. Biển lặng, đỏ, đầy như  mâm bánh đúc,   loáng thoáng những con thuyền như  những hạt lạc ai đem rắc lên trên.Rồi  một ngày mưa rào. Mưa dăng dăng bốn phía. Có quãng nắng xuyên xuống   biển óng ánh đủ màu:xanh lá mạ,tím phớt,hồng xanh biếc…Có quãng thâm sì,  nặng trịch. Những cánh buồm ra khỏi cơn mưa, ướt đẫm, thẫm lại, khỏe nhẹ  bồi hồi, như ngực áo bác nông dân cày xong ruộng về bị ướt” 12
  13.  * Tả theo trình tự tâm lí: Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm   xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả  sau. Khi miêu tả  đồ  vật, loài vật, tả  người nên vận dụng trình tự  này nhưng  chỉ nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như  nhau của đối tượng. Ví dụ : Nhà văn Đoàn Giỏi miêu tả  chợ  Năm Căn theo mạch cảm xúc riêng   của mình, qua đó thể hiện niềm tự hào của tác giả về vùng đất trù phú, giàu   có nơi tận cùng phía Nam Tổ quốc:            “Nhưng Năm Căn còn có cái bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh”   đứng kiêu hãnh phô phang sự  trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của Tổ  quốc. Những bến vận hà nhộn nhịp dọc dài theo sông; những lò than hầm gỗ  đước sản xuất loại than củi nổi tiếng nhất của miền Nam; những ngôi nhà bè   ban đêm ánh đèn măng­sông chiếu rực trên mặt nước như những khu phố nổi,   và nơi đây người ta có thể cập thuyền lại, bước sang gọi một món xào, món   nấu Trung Quốc hoặc một đĩa thịt rừng nướng ướp kiểu địa phương kèm theo  vài cút rượu, ngoài ra còn có thể  mua từ  cây kim cuộn chỉ, những vật dụng   cần thiết, một bộ quần áo may sẵn hay một món nữ trang đắt giá chẳng hạn,  mà không cần phải bước ra khỏi thuyền. Những người con gái Hoa kiều bán  hàng xởi lởi, những người Chà Châu Giang bán vải, những bà cụ  già người   Miên bán rượu, với đủ các giọng nói líu lô, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ, đã điểm tô   cho Năm Căn một màu sắc độc đáo, hơn tất cả  các xóm chợ  vùng rừng Cà  Mau” *  Ngoài các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho   học sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị  giác, xúc giác, vị  giác, …) để quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả. b.Rèn kĩ năng tưởng tượng  Tưởng tượng có vai trò rất lớn trong văn miêu tả.Nó không chỉ là yếu tố tạo   nên sự phong phú trong cho các hình ảnh trong bức tranh miêu tả mà con giúp  cho người làm văn tả  tìm được những từ  ngữ  và các biện pháp nghệ  thuật   phù hợp để bài văn hay hơn, sinh động hơn.   Ví dụ  *    : Trong văn bản “Cỏ non” của Hồ Phương, Văn học 6 tập 1  “Con Nâu đứng lại. Cả đàn dừng theo. Tiếng gặm cỏ bắt đầu trào lên nhưng   một nong tằm ăn rỗi khổng lồ. Con Ba Bớp vẫn phàm ăn tục uống nhất, cứ  thúc mãi mõm xuống,  ủi cả đất lên mà gặm. Bọt mép nó trào ra, nom đến là   13
  14. ngon lành. Con Hoa  ở gần đó cũng hùng hục ăn không kém, mặc dù  ả  có bộ  mã tiểu thư rất yểu điệu “cái rá cắn làm đôi”. Gã công tử  bột vẫn sán ở  bên  cạnh  ả, mồm vừa gau gáu gặm cỏ, mắt vừa liếc sang lem lém.Mẹ  con chị  Vàng ăn ở riêng một chỗ cùng con Cún. Cu Tũn dở hơi chốc chốc lại chạy tới   ăn tranh cỏ của mẹ. Chị Vàng lại dịu dàng nhường cho nó và đi kiếm một búi  khác.”   =>  Tác giả đã kết hợp một cách tài tình giữa hình ảnh tả thực với hình ảnh  sáng tạo nhờ trí tưởng tượng.Chính vì trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà  văn khi nghe tiếng đàn bò gặm cỏ  đã liên tưởng đến “một nong tằm ăn rỗi   khổng lồ”.Và cũng nhờ trí tưởng tượng phong phú mà tác giả đã phát hiện  ra  tính cách của con bò qua cách gặm cỏ của chúng:  Con ba bớp thì “ngổ ngáo”,  “phàm ăn tục uống”; con Hoa vốn “tiểu thư yểu điệu”, cu Tũn như  một chú  bé dở hơi,tinh nghịch ,nũng nịu ; chị Vàng đúng là người mẹ dịu hiền, nhường  nhịn…Nghệ  thuật so sánh kết hợp với nhân hóa đã làm cho hình ảnh đàn bò  gặm cỏ hiện lên thật sống động. c. Rèn kĩ năng so sánh So sánh là hệ quả của quá trình liên tưởng và tưởng tượng. Khi quan sát một   đối tượng nào đó, hình  ảnh của đối tượng  ấy (từ  màu sắc tới hình dáng, từ  kích thước tới trạng thái) thường gợi cho người quan sát nghĩ đến hình  ảnh  tương đồng nào đó. Chính sự  so sánh liên tưởng này giúp cho trang văn miêu  tả của các em hay hơn, đẹp hơn, hấp dẫn hơn.  Vì vậy, tôi đã hướng dẫn  cho các em một số cách so sánh như sau: – Có thể  so sánh vật với vật, cảnh với cảnh: “Cây gạo như  treo rung rinh   hàng ngàn nồi cơm gạo mới”( Vũ Tú Nam); “Vầng trăng non giữa bầu trời   đầy sao hệt như một cái liềm vào ai bỏ quên giưa cánh đồng lúa chín” (Theo   Vích – to Huy gô); “ Măng chồi lên nhon hoắt như  một mũi gai khổng lồ  xuyên qua đất lũy mà trỗi dậy” (Ngô Văn Phú)… – Có thể so sánh vật với con người: Cây bàng già sừng sững, uy nghi như một  người lính gác canh giữ cho khu vườn được bình yên.”; “ Cây bưởi như  một  người mẹ đang cần mẫn cõng trên mình lũ con đầu tròn trọc lóc...      Nếu xét về cách thức so sánh  thì có những hiện tượng so sánh sau: – So sánh theo hướng thu nhỏ lại: “ Trái đất như một giọt nước màu xanh lơ  lửng  giữa  không  trung”  ;   “Xa  xa,  những  cánh   buồm  nâu  như  những  cánh   bướm rập rờn trên mặt biển”… 14
  15. – So sánh theo hướng phóng đại lên: “Chiếc lá tre thả  xuống dòng nước,   chòng chành, xoay xoay, rồi trôi đi như một con thuyền, chở theo ước mơ của  chúng tôi”… – So sánh theo hướng cụ  thể  hóa: “Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì   hết. Tròn trĩnh phúc hậu như  long đỏ  một quả  trứng thiên nhiên đầy đặn”  (Nguyễn Tuân) – So sánh theo hướng trừu tượng hóa: “ Nước biển chiều nay xanh như một  trang sử của loài người, lúc con người phải viết vào than tre” (Nguyễn Tuân) …      Tuy nhiên khi sử dụng kĩ năng so sánh, cần lưu lưu ý là phải biết sáng tạo,   biết tìm điểm mới, điểm riêng. Không nên lặp đi lặp lại những hình  ảnh so   sánh đã quá cũ, quá sáo mòn theo kiểu: “Miệng cười tươi như hoa”, “Những   hạt sương long lanh như  những hạt ngọc đính trên cành hoa hồng” ; “ Cánh  đồng lúa chín trông như tấm thảm vàng trải rộng đến chân trời”... d.Rèn kĩ năng nhận xét trong văn miêu tả Viết văn miêu tả, bao giờ người viết cũng để lại dấu ấn chủ quan của mình. Dấu ấn chủ quan ấy chính là sự cảm nhận riêng của mỗi người, là cách biều   lộ  thái độ, tình cảm riêng của mỗi người đối với đối tượng được miêu tả.  Một nhà văn Pháp viết: “ Một trăm cây bạch dương giống nhau cả trăm, một  trăm ánh lửa giống nhau cả trăm. Mới nhìn tưởng thế, nhưng nhìn kĩ thì chân   cây bạch dương nào cũng khác nhau, ngọn lửa nào cũng khác nhau. Trong đời  ta gặp bao nhiêu người, phải thấy ra mỗi người mỗi khác nhau, không ai  giống ai” (Dẫn theo Tô Hoài – Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả). Không phải chỉ  các nhà văn, mà ngay cả  học sinh khi làm văn miêu tả  cũng   nên ý thức rõ điều này. Giáo viên còn phải mở  rộng thêm nữa, rằng thiên  nhiên con người xung quanh chúng ta luôn trong trạng thái vận động và thay   đổi không ngừng­ thật vô cùng thú vị  và hấp dẫn. Đâu phải chỉ  có ngọn lửa  này ngọn lửa khác ngọn lửa kia, thân cây bạch dương này khác thân cây bạch  dương kia mà ngay cùng một sự vật, hiện tượng  ấy cũng từng phút, từng giờ  thay đổi liên tục. Cũng  một con đường từ  nhà đến trường , nhưng sáng hôm  nay ta thấy nó như thế này, sáng mai đã có thể đổi khác . Cũng một cây bàng ,   chiều hôm trước còn trơ  trụi lá cành, mà chỉ  sau mấy hôm đã đâm trồi nảy  lộc, tràn đầy  sức sống. Cũng một môt bãi biển , nhưng khi ta buồn sẽ ta sẽ  cảm nhậc nó khác khi ta đang vui… Có thể nói rằng , đối  tượng miêu tả  sẽ  xuất hiện và đi vào bài văn tùy thuộc vào điểm nhìn, thái độ, tâm trạng tình  huống giao tiếp của người viết. Đây chính là cơ sở tạo nên dấu ấn chủ quan   của người viết.Nó đòi hỏi người viết trong bài viết của mình có những lời  15
  16. nhận xét, những suy nghĩ, những cảm nhận riêng về  đối tượng. Vần đề  là  phải dùng cách nhận xét như thế nào để tạo sự hấp dẫn cho bài văn miêu tả ?   Trước hết có thể  nhận xét trực tiếp bằng những lời bình, những câu cảm   thán, những hình ảnh so sánh: “ Những bông hoa rơi từ trên cao, đài hoa nặng   chúi xuống những cánh hoa đỏ  rực quay tít như  chong chóng , nom thật đẹp  (Vũ Tú Nam )…   Và cũng có thể bộc lộ một cách kín đáo qua việc lựa chọn hình ảnh miêu tả.   Đây là thái độ  ngạc nhiên thích thú của nhà văn Vũ Tú Nam khi quan sát và   miêu tả  hình  ảnh những trái mướp lớn nhanh như  thổi : “ Rồi quả  thi nhau  chòi ra… bằng ngón tay … bằng con chuột .Rồi bằng con cá chuối to”…  * Ví dụ : Trong văn bản “Cô Tô” –SGK ngữ văn 6 ,nhà văn Nguyễn Tuân khi   miêu tả  vẻ  đẹp trong sáng,tràn đầy sức sống toàn cảnh Cô Tô một ngày sau   bão,đã thể  hiện được cảm nhận riêng của mình về  một vùng đất ông từng   qua:     “Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa   .Từ khi có  vịnh Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu sự sống con người   thì , sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy .   Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt , nước biển lại lam biếc đặm đà hơn   hết cả mọi khi ,và cát lại vàng giòn hơn nữa .Và nếu cá có vắng tăm biệt tích  trong ngày động bão thì nay lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi .Chúng tôi leo   dốc lên đồn Cô Tô hỏi thăm sức khỏe anh em bộ binh và hải quân cùng đóng  sát nhau trong cái đồn khố xanh cũ ấy. Trèo lên nóc đồn, nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng ,  quay gót 180 độ mà ngắm cả toàn cảnh Cô Tô. Nhìn rõ cả Tô Bắc, Tô Trung,  Tô Nam, mà càng thấy yêu mến hòn đảo như  bất cứ  người chài nào đã từng  đẻ ra và lớn  lên theo mùa sóng ở đây”. 3.3. Sau đó giáo viên cần giúp học sinh tìm hiểu đề, xác định đúng yêu cầu   của đề bài để xây dựng hướng làm bài. Ở bước này tôi sẽ hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài, gạch chân những  từ ngữ then chốt của đề bài, xác định thể loại, nội dung, phạm vi của đề bài.   Việc xác định đúng yêu cầu của đề bài (về thể loại, nội dung và phạm vi) sẽ  giúp học sinh không bị lạc đề, xa đề. * Ví dụ: ­ Đề  bài miêu tả  cảnh như  sau: “Em hãy tả  quê hương em vào một   buổi nắng đẹp”. 16
  17. Giáo viên cho học sinh thấy:  +Thể loại: Miêu tả + Nội dung: tả quê hương em  + Phạm vi: buổi nắng đẹp   Đây là một đề bài dạng miêu tả cảnh tổng hợp. Vậy thế nào là tả cảnh tổng  hợp? Giáo viên chỉ rõ cho học sinh thấy là xác định cảnh tổng hợp nhờ những   từ ngữ nào? ­ Đề  yêu cầu tả  cảnh tổng hợp thường chứa những từ ngữ như: “một miền   quê, quê hương em, cảnh vùng quê, hoặc cảnh nơi em ở...”  ­ Cảnh tổng hợp là như  thế  nào? Là cảnh gồm nhiều cảnh nhỏ, cảnh lẻ.   Những cảnh nhỏ  của quê hương hay miền quê thường là cánh đồng, dòng  sông, con đường làng, cây đa, giếng nước ,sân đình, khu vườn nhà...   Sau đó giúp học sinh hình dung được cụ thể về cảnh miêu tả ở thời gian nào  (mùa nào) ở không gian nào (cảnh đó như thế nào)... Việc xác định được đúng  yêu cầu của đề như ở ví dụ trên sẽ giúp các em rất nhiều trong việc định hình  được đối tượng miêu tả. 3.4. Hướng dẫn cách tìm ý cho bài văn tả cảnh.    Khi học sinh đã xác định đúng yêu cầu của đề, xác định chính xác đối tượng   miêu tả  nhưng chắc chắn chưa định hình được   hướng đi cho bài viết. Để  giúp học sinh định hình được hướng đi của bài viết văn miêu tả  cảnh tôi đã  hướng dẫn học sinh bước tìm ý cho bài văn tả cảnh: ­ Phải theo một trình tự: Tìm ý bao quát không gian của cảnh chung sẽ tả, sau   đó cụ thể sẽ có những cảnh nào? Cảnh như thế nào? ­ Bao quát không gian cảnh được coi là một thao  tác sơ khoáng của bức tranh   cảnh, rất quan trọng trong việc định hình tâm thế  cũng như  nhãn thế  cho   người thưởng thức bức tranh bằng ngôn từ. Vậy học sinh cần phải nắm   được cách viết phần bao quát không gian cảnh như thế nào? Thực tế tôi thấy  học sinh thường viết một cách cộc lốc, cụt ngủn, có khi viết được một, hai  câu cho phần tổng quát nên dù không phải lĩnh vực tự nhiên, nhưng tôi đã đưa   ra theo ý như một công thức dễ nhớ cho học sinh: 17
  18. + Để  tả  bao quát cảnh, trước hết phải có câu xác định vị  trí miêu tả  khái quát.Thường là một vị  trí cao hơn, xa cảnh trung tâm để  có thể  chụp  được toàn cảnh miêu tả  vào nhãn quan của người quan sát một cách tương   đối trọn vẹn. + Sau câu văn giúp người đọc biết được vị  trí của người quan sát là   những lời văn nhận xét, đánh giá khái quát đầy nghệ thuật về cảnh chung đó. Cũng không quên lưu ý với học sinh rẳng: Lời văn nhận xét, đánh giá  khái quát đầy nghệ thuật là những lời văn sử dụng linh hoạt các biện pháp tu  từ  sao cho cảnh tả nổi lên sống động, tự  nhiên,  trong sáng... sát hợp với yêu   cầu của đề  mà phần trên đã xác định và mang tính biểu cảm của người quan  sát cảnh. Ví dụ:  “Tả  bao quát cảnh quê hương em vào một buổi sáng mùa   thu.” ­ Đứng trên đầu đê, ngắm nhìn toàn cảnh làng quê, tôi như  đang đắm   mình trong sắc thu vàng của chốn quê hương thanh bình, trù phú. Hay một ví dụ khác về cảnh quê hương vào sáng mùa xuân: ­ Đứng giữa cánh đồng dang rộng  cánh tay mà cảm nhận về làng quê.  Ôi! quê hương tôi đẹp như  một nàng tiên đang mỉm cười trước nhân gian.   Thật ấm áp, thanh bình đầy sức sống...  Những ý cốt yếu nhất của dàn bài văn miêu tả cảnh còn cụ thể những   cảnh nào? (Nếu là đề tổng hợp thì cảnh sẽ chia thành nhiều cảnh đơn, nếu là  đề tả cảnh đơn thì cảnh đơn sẽ  có những điểm gì nổi bật? Nổi bật như  thế  nào?) Học sinh phần lớn thường sa vào  kiểu gặp đâu nói đó và không hề xác  định được rằng mình đang tả cảnh có mục đích làm nổi lên diện mạo như thế  nào, có làm bật lên được tư  tưởng chủ  đề  mà mình đã xác định được  ở  đầu  bài yêu cầu không. Để khắc phục được tình trạng này tôi cho học sinh luyện   kỹ năng xác định, lựa chọn những đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả. Ví dụ: Cảnh khu vườn vào buổi sáng mùa thu thì có những điểm gì  nổi bật? ­ Đầu tiên giáo viên cho học sinh xác định chủ thể của cảnh sẽ dựng là  một cảnh khu vườn tươi tốt, đầy hoa thơm trái ngọt, rất thanh bình, dân giã   mà mang được vẻ  trù phú của chốn quê hương yêu dấu, đặc biệt cảnh phải   18
  19. mang được dáng dấp của thời gian, không gian mà đề quy định (có đặc trưng  của mùa thu). Sau đó giáo viên   hướng cho học sinh tái hiện từng hình  ảnh   của khu vườn theo trí tưởng tượng nhưng phải sát với hiện thực. Chẳng hạn tôi sẽ hướng học sinh cảm nhận theo ý sau:  + Cảnh giàn thiên lý trước sân nhà  ngào ngạt hương buổi sớm.   +  Hình ảnh cây cau cạnh bể nước với những tàu lá già dang rộng, đọn  lá non cao vút. + Hình ảnh vườn hoa đua sắc vàng thu cùng ong bướm. + Hình ảnh vườn rau tươi tốt cũng rất mang đặc trưng mùa thu: cải làm   dưa đang lên ngồng, đang trổ  hoa vàng rực, những ngọn mồng tơi đang quăn   mình leo lên bờ  giậu để  ra quả  vắt mình sang thu; tiếp đó là hình  ảnh hàng   cây ăn quả với những hương vị màu sắc của thu như “ Thơm lựng chuối tiêu   trứng quốc đốm vàng, những trái na mở mắt nhìn nắng thu, cây hồng trái chín  như những chấm son trên nền trời thu...” Với cách làm như trên tôi đã cho học sinh luyện tập tìm đặc điểm cho   nhiều cảnh khác nhau với những thời gian, không gian đa dạng. Các em được  luyện tập dưới nhiều hình thức: “thi nhau tìm đặc điểm”, giáo viên hệ thống   và giúp các em chọn lựa những đặc điểm tiêu biểu nhất trong mỗi cảnh. Như  thế sẽ tạo được hứng thú của học sinh với cảnh sẽ tả. 3.5. Hướng dẫn học sinh cách lập dàn ý cho bài văn tả cảnh. Khi học sinh đã tìm ý cho bài văn tả cảnh  tôi sẽ hướng dẫn các em lập  dàn ý cho bài viết theo bố cục 3 phần. Các em có thể lập dàn ý đại cương, rồi  trên cơ sở đó lập dàn ý chi tiết. Trên cơ sở dàn ý đã xây dựng học sinh có thể  dễ dàng triển khai bài viết mà không bị nhầm lẫn giữa các phần: Ví dụ với đề bài: Tả cảnh buổi sáng trên quê hương em tôi sẽ hướng dẫn  các em lập dàn ý như sau: Dàn ý 1: Tả cảnh buổi sáng trên quê hương em ( ở vùng thành thị) 1.Mở bài: ­ Giới thiệu cảnh được tả: Cảnh buổi sáng nơi em ở. ­ Ấn tượng ban đầu của em đối với cảnh đó. 2.Thân bài: a. Tả khái quát khung cảnh: ­ Cảnh vật buổi sáng sớm yên bình, tĩnh lặng ­ Đường phố vắng vẻ, xe cộ thưa thớt b. Tả cụ thể từng bộ phận của cảnh: 19
  20. * Khi trời chưa sáng rõ:  + Mặt đường chỉ mới ánh lên thứ ánh sáng nhàn nhạt + Trên cao, ông mặt trời đỏ ửng bắt đầu mới ló rạng ở phía chân trời đằng  Đông + Hàng cây bên đường tỏa bóng mát, đung đưa lắc lư + Những làn gió nhè nhẹ thổi hương hoa bay khắp không gian, không khí  trong lành khiến lòng người thêm khoan khoái, dễ chịu + Tả cảnh sinh hoạt của con người: trong công viên, vài ba cụ già tập dưỡng  sinh; các anh chị thanh niên chạy bộ; một vài bác lớn tuổi đi bộ, đánh cầu  lông,...; bên hè phố, những người mẹ tất bật mua đồ ăn sáng cho cả nhà,... * Khi trời sáng rõ:  + Mặt trời lúc này đã "tỉnh ngủ", bừng tỉnh rẽ mây xuất hiện, sáng sừng sững  trên bầu trời trong xanh, cao vời vợi  + Đường phố tấp nập xe cộ đi lại, tiếng còi xe inh ỏi, tiếng cười nói làm rộn  vang cả một góc phố + Các hàng ăn, quán xá tấp nập kẻ bán người mua... 3.Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về khung cảnh buổi sáng nơi em ở. + Yêu quê hương + Yêu con người Dàn ý 2: Tả cảnh buổi sáng trên quê hương em ( ở vùng nông thôn) 1.Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu quê hương, cảnh bình minh trên quê hương. ­ Giới thiệu ngày mới bắt đầu ở quê em vào tháng nào trong năm. ­ Sau một đêm say ngủ, ngày mới tỉnh giấc như thế nào. 2.Thân bài: a.Tả bao quát vẻ đẹp của ngày mới. b.Tả chi tiết: * Cảnh quê hương lúc mặt trời chưa mọc. ­ Buổi sáng mùa xuân trời còn se se lạnh. ­ Nền trời trắng đục, sà thấp xuống mặt đất. ­ Màn sương đêm như khói giăng mắc nơi đầu thôn, ngõ xóm.  ­ Cảnh vật thấp thoáng hiện dần trong màn sương. ­ Không khí yên ắng gợi sự thanh bình. Chỉ còn nghe thấy đâu đây tiếng ríu rít  của mấy chú chim non dậy sớm để đón bình minh. ­Tiếng gà gáy. ­ Khói bếp lửa tỏa ra nghi ngút mang theo hương nếp xôi thơm nồng. * Cảnh quê hương lúc mặt trời lên. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2