Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nhằm nâng chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh 8 ở trường THCS
lượt xem 3
download
Mục tiêu nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm là đã đưa ra được một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh học 8, đã xác định được tư tưởng cho học sinh làm học sinh yên tâm và có hứng thú trong học tập, không còn xem môn sinh là môn phụ. Đã biết tích hợp bộ môn mình với bộ môn khác đặc biệt là môn Toán, môn Lý, môn Mỹ thuật ...để tăng thêm hứng thú và sự say mê học tập cho học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nhằm nâng chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh 8 ở trường THCS
- I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu đề tài: Môn sinh học là một môn khoa học, có tầm quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Đặc biệt sinh học có vị trí đặc biệt trong việc nâng cao và phát triển ngành Y, góp phần tạo nên những bác sỹ giỏi cho đất nước. Đồng thời là cơ sở, điều kiện để tiếp thu khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức. Mà theo “chiến lược con người” của Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ với mục tiêu: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” đã được cụ thể hoá trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt trong xu thế hội nhập quốc tế mục tiêu “Bồi dưỡng nhân tài” càng được Đảng và Nhà nước quan tâm hơn . Đất nước muốn phồn thịnh đòi hỏi phải có những người tài để giúp nước. Hiện nay, chúng ta đang trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế, gia nhập WTO thì nhân tài là một trong những yếu tố để chúng ta có thể tiếp cận với sự tiến bộ khoa học công nghệ của các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực tế hiện nay ở các trường THCS trên toàn huyện nói chung và trường tôi đang công tác nói riêng về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đã được chú trọng song vẫn còn những khó khăn nhất định như cách phát hiện, tuyển chọn, phương pháp giảng dạy chưa tối ưu, chưa tìm ra được hướng đi cụ thể cho công tác này. Từ những khó khăn trên dẫn đến hiệu quả bồi dưỡng không đạt được như ý muốn. Trong các môn học ở bậc trung học cơ sở cụ thể là khối 8 thì bộ môn sinh học hiện nay vẫn còn xem là bộ môn phụ ít được phụ huynh và học sinh quan tâm, do đó khi được nhà trường phân công bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh 8 bản thân tôi rất trăn trở. Vì những lý do đó nên để đảm bảo chất lượng đại trà ổn định và vững chắc là một điều khó đối với bộ môn sinh mà ở đây đỏi hỏi chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi phải ngang tầm với các trường bạn nên bản thân rất lo lắng và sợ mình không thực hiện tốt được nhiệm vụ nhà trường giao. Nhưng cùng với sự phát triển giáo dục của cả nước, của tỉnh, của huyện chất lượng giáo dục của nhà trường đã có những sự phát triển vượt bậc. Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước, của các cấp chính quyền, của nhà trường, đồng nghiệp nên bản thân tôi cũng như những giáo viên khác lại càng suy nghĩ nhiều hơn phải làm như thế nào đây để nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh 8. Chính những điều đó đã thôi thúc tôi suy nghĩ, trăn trở qua nhiều năm bồi dưỡng. Câu hỏi làm thế nào để chất lượng bộ môn sinh học ngày càng cao và bền vững, mũi nhọn học sinh giỏi bộ môn này luôn được giữ vững và phát huy thế mạnh, một trong những bộ môn quan trọng trong giáo dục, làm tốt công tác dạy học toàn diện cho học sinh. Nhận thức được vai trò của việc bồi dưỡng học sinh giỏi và muốn góp phần vào công tác phát triển và bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh học 8 ở trường tôi đang công tác do đó tôi chọn đề tài : “ Một số biện pháp nhằm nâng chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh 8 ở trường THCS” Nội dung đề cập của đề tài là những biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng bồi dưỡng học sinh giỏi giúp các em tìm hiểu sâu về một loài động vật cao nhất trên 1-
- bậc thang tiến hóa - con người, về những điều bí ẩn trong chính bản thân các em giúp các em có phương pháp giải bài tập lai một cặp tính trạng và hai cặp tính trạng thật dễ dàng và lý thú. Khi đã hiểu rõ, nắm chắc các kiến thức, phương pháp giải, các em sẽ tự tin trong học tập, trong thi cử, vận dụng được những kiến thức khoa học bộ môn vào cuộc sống, góp phần phát triển kĩ năng sống cho các em. Đồng thời sáng kiến này cũng góp phần vào việc “Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho địa phương, cũng như cho đất nước. 2. Điểm mới của đề tài: Đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh 8 ở trường THCS” đã đưa ra được một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh học 8, đã xác định được tư tưởng cho học sinh làm học sinh yên tâm và có hứng thú trong học tập, không còn xem môn sinh là môn phụ. Đã biết tích hợp bộ môn mình với bộ môn khác đặc biệt là môn Toán, môn Lý, môn Mỹ thuật ...để tăng thêm hứng thú và sự say mê học tập cho học sinh . Trong những năm gần đây với đề tài này đã có một số người nghiên cứu song vẫn còn chung chung, chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể. Nếu có thì giải pháp chưa trọng tâm và khả năng ứng dụng chưa cao. Tôi muốn tiếp tục nghiên cứu và đi vào chiều sâu của các biện pháp căn cơ hơn giúp học sinh giỏi khối 8 môn sinh học có một cách tiếp cận khoa học dễ hiểu và vận dụng linh hoạt hơn trong học tập, để từ đó học sinh tự chiếm lĩnh được kiến thức một cách chủ động và khắc sâu hơn cho các em. 3. Phạm vi áp dụng đề tài: Phạm vi đề tài của tôi đề cập đến là một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh giỏi bộ môn sinh học 8 được áp dụng tại trường tôi công tác từ đầu năm 2019-2020 đến nay và có thể tiếp tục áp dụng trong các năm học sau. Đề tài có thể áp dụng đối với các đơn vị có những nét tương đồng với đơn vị ở vùng thuận lợi. 2-
- II. PHẦN NỘI DUNG 1. Thực trạng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn sinh học 8 ở trường THCS tôi đang công tác hiện nay . Thuận lợi: Hiện nay, giáo dục ở trường tôi đang công tác luôn được các cấp chính quyền đặc biệt quan tâm. Vì thế cơ sở vật chất, điều kiện dạy học đã có nhiều đổi mới. Trường đã đạt trường chuẩn quốc gia. Học sinh được ngồi học trong các phòng học khang trang đầy đủ trang thiết bị cần thiết cho mỗi lớp học. Hệ thống điện, đường, trường trạm đã được đầu tư trực tiếp đến các hộ gia đình do đó đời sống vật chất tinh thần của bà con được nâng cao. Chế độ chính sách hỗ trợ học sinh nghèo học sinh vượt khó được thực hiện kịp thời nên đã giải quyết được những khó khăn cho học sinh trong cuộc sống và trong học tập. Nhận thức của phụ huynh về việc học đã có sự chuyển biến tích cực vì thế gia đình đã dành một sự đầu tư cơ bản cho con em học tập. Chất lượng học tập của các em đã có những tiến bộ rõ rệt và mang tính ổn định vững chắc. Phong trào thi đua học tập trong học sinh ngày càng rõ nét. Từ đó đã xuất hiện nhiều tấm gương học tốt tiêu biểu. Các em đã mạnh dạn tham gia các lớp bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu do nhà trường tổ chức và đã gặt hái được những thành tích đáng kể góp phần xây dựng phong trào học tập của xã nhà ngày một đi lên. Bên cạnh đó, nhà trường rất quan tâm đến công tác mũi nhọn học sinh giỏi, học sinh năng khiếu. Từ việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho đến phân công chỉ đạo giáo viên phụ trách đều chi tiết, lựa chọn kĩ càng. Tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh đã được đầu tư cơ bản, đáp ứng đủ nhu cầu dạy học trong quá trình bồi dưỡng. Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo sâu sát mũi nhọn bồi dưỡng từng môn học. Luôn động viên tiếp sức cho giáo viên và học sinh trong quá trình bồi dưỡng. Tham gia dự giờ để tư vấn thêm cho giáo viên trong quá trình bồi dưỡng. Đề ra những chính sách mang tính thi đua thiết thực, khen thưởng rõ ràng để thầy và trò có động lực cố gắng phấn đấu đạt hiệu quả cao. Chất lượng đội ngũ giáo viên nơi tôi đang công tác đã đạt và vượt chuẩn 100%, đáp ứng kịp thời nhu cầu dạy học theo hướng đổi mới và hiện đại. Giáo viên đã nắm chắc được hệ thống các phương pháp dạy học bộ môn, biết phối hợp khá linh hoạt các phương pháp dạy học; tổ chức được các hình thức học tập của học sinh khá đa dạng, phong phú nên đã tạo ra nhiều tiết dạy sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn được học sinh vào quá trình khám phá, tìm tòi lí thú. Sự hỗ trợ tích cực của công nghệ thông tin cũng như các phương tiện thiết bị dạy học ngày càng đồng bộ đã góp phần nâng cao chất lượng thiết thực ở các trường học . Nhiều giáo viên có thời gian công tác lâu năm nên đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi. Giáo viên đã nắm chắc đối tượng học sinh trong dạy học để kèm cặp giúp đỡ, phân loại được các kiểu bài trong dạy học bộ môn. Từ đó xác định được học sinh còn yếu ở điểm nào để khắc sâu thêm. 3-
- Đối với bộ môn Sinh học, công tác giảng dạy gắn với thực tế cuộc sống giúp học sinh khám phá được những điều mới mẽ thông qua bài học. Trong dạy học, tôi rất quan tâm đến việc vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống để giải thích các hiện tượng sinh học xảy ra xung quanh làm kích thích hứng thú học tập của học sinh đối với bộ môn. Học sinh đã mạnh dạn trao đổi trong học tập để nắm chắc vấn đề. Một số em đã sưu tầm thêm các tài liệu tham khảo để nghiên cứu sâu hơn các đơn vị kiến thức đã học từ đó nắm chắc hơn kiến thức bộ môn. Bên cạnh đó, giáo viên đã thực hiện tốt các kĩ năng cơ bản về thao tác biểu diễn thí nghiệm trực quan, sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học sẵn có và tự làm nên đã lôi kéo, kích thích được hứng thú học sinh trong học tập. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi đó, như tôi đã đề cập ở phần mở đầu, đối tượng học sinh mà tôi bồi dưỡng là đối tượng học sinh còn lại sau khi các đội tuyển Hoá, Lý, Tin, Lịch sử, Địa Lý đã chọn, các em không có hứng thú đối với bộ môn. Gia đình chưa có sự quan tâm đúng mức tới việc học và bồi dưỡng bộ môn sinh. Mặt khác đa số các em mới chỉ là nhưng học sinh có học lực khá . Chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 8 gồm kiến thức môn sinh học 8 và kiến thức bộ môn sinh học 9. Đối với môn sinh học 8 việc ghi nhớ các khái niệm sinh lí, giải phẩu, vệ sinh, y học của con người đòi hỏi người học phải chăm chỉ siêng năng, có phương pháp học tập khoa học mang tính tư duy lô gíc mới nắm chắc được. Còn đối với bộ môn sinh học 9 các em phải học vượt lớp nên gặp nhiều khó khăn khi tiếp nhận kiến thức, bài tập phần di truyền học mới, khó, trừu tượng, yêu cầu học sinh phải giải bài tập toán lai một cặp tính trạng và hai cặp tính trạng đòi hỏi học sinh phải học giỏi môn toán, có kỹ năng tính toán . Mà đối tượng dạy học của tôi đa số là học sinh có học lực khá, không có hứng thú với bộ môn. Tôi cũng như đồng nghiệp của tôi ở trường phần nhiều đều là những giáo viên trẻ, có nhiều nhiệt tình trong dạy học song kinh nghiệm bồi dưỡng chưa nhiều nên vẫn còn ôm đồm nhồi nhét quá nhiều kiến thức nâng cao trong quá trình bồi dưỡng. Số lượng học sinh có đủ điều kiện bồi dưỡng ít, số môn bồi dưỡng khá nhiều nên việc lựa chọn có khi trùng lặp học sinh ở các bộ môn. Ban giám hiệu nhà trường có khi phải can dự vào việc lựa chọn học sinh bồi dưỡng. Thực trạng đó dẫn đến có sự ảnh hưởng đến chất lượng dạy học và kết quả bồi dưỡng bộ môn. Điều kiện hoàn cảnh gia đình của một số em còn khó khăn nên việc quan tâm của gia đình đến học tập của các em còn hạn chế nhiều, nhìn chung còn phó mặc cho giáo viên và nhà trường. Tài liệu tham khảo của các em hoàn toàn do giáo viên sưu tầm và mượn thêm từ thư viện nhà trường, sưu tầm ở trên mạng. Bên cạnh đó, công tác tự học, tự nghiên cứu ở nhà của học sinh còn hạn chế. Các em chưa có thói quen tự học, sáng tạo trong học tập. Việc học còn phụ thuộc quá nhiều vào việc giảng dạy trên lớp chính khóa và bồi dưỡng của giáo viên nên vấn đề học bài, khắc sâu kiến thức ở nhà của các em chưa thật chu đáo, thiết thực. 4-
- - Vào đầu năm học sau khi lựa chọn và ổn định đội tuyển học sinh giỏi lớp 8 của trường tôi đã tổ chức khảo sát 1 bài kiểm tra 45 phút được kết quả như sau : BẢNG SỐ 1 Giỏi Khá TB Yếu SL SL % SL % SL % SL % 8 1 12,5 2 25 5 62,5 0 0 Qua bảng trên cho thấy tỉ lệ học sinh giỏi của đội tuyển tôi đang bồi dưỡng còn quá thấp chỉ có 1/8 học sinh chiếm 12,5%.Đội tuyển học sinh giỏi mà tỉ lệ học sinh trung bình quá cao có đến 5/8 em học sinh chiếm tỉ lệ 62,5%.Trước thực thực trạng đó, để khơi dậy trong các em sự hứng thú học tập, yêu thích bộ môn, say mê khám phá, tìm tòi kiến thức, phát triển tư duy, tính sáng tạo cho học sinh, nhằm nâng cao chất lượng học sinh giỏi môn sinh 8 cao hơn tôi đi vào nghiên cứu và áp dụng thực tiễn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh 8 ở trường THCS” 2. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn sinh học 8 . Từ những thực trạng trên, bản thân tôi xin đưa ra một số biện pháp nhằm khắc phục và hạn chế những tồn tại để nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn sinh học 8 tại đơn vị nơi tôi đang công tác . Biện pháp 1 : Phát hiện, lựa chọn đội tuyển - Xác định tư tưởng để học sinh yên tâm và có hứng thú bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh 8. Bước quan trọng trong công tác bồi dưỡng nhất đó là phát hiện và lựa chọn đội tuyển . Do đó việc phát hiện và lựa chọn đội tuyển bồi dưỡng học sinh giỏi cần được tiến hành từ đầu năm lớp 8, cơ sở của việc phát hiện và lựa chọn đội tuyển của tôi là : Trước hết là phải tìm hiểu kết quả của các học sinh đó ở lớp 6, 7 qua điểm tổng kết, điểm các môn học như Sinh, Toán ... tham khảo thêm ý kiến giáo viên đã dạy trực tiếp bộ bôn sinh, môn toán, GVCN ở lớp đó để nắm bắt mặt mạnh mặt yếu học sinh, để biết được sở thích, sự say mê của các em đối với bộ môn học sinh học 8. Trong thực tế quá trình chọn học sinh giỏi môn sinh thì việc chọn học sinh giỏi môn sinh 8 có năng lực là rất khó vì chủ yếu là chọn các được đối lượng mà các đội tuyển khác đã chọn, do đó yêu cầu chọn học sinh có niềm đam mê và hứng thú về bộ môn thì càng khó khăn hơn vì chủ yếu các em học giỏi thì học giỏi đều các môn nhưng các em chỉ thích bồi dưỡng các môn Hoá, Lý, Tin... . Do đó trong quá trình dạy học và bồi dưỡng ngoài việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng, giáo viên cần phải định hướng thêm cho các em biết được vai trò cần thiết của việc học tập bộ môn sinh, đồng thời khơi gợi cho các em đó có hứng thú học tập và yêu thích bộ môn sinh. Muốn lựa chọn đúng đối tượng học sinh thì ban đầu phải chọn số lượng học sinh cần bồi dưỡng nhiều hơn yêu cầu từ 7 đến 10 em để các em thi đua nhau học tập đồng thời để ta có nguồn để chúng ta tiến hành kiểm tra đánh giá và loại dần những em 5-
- không tiến bộ, không đạt theo yêu cầu đã đưa ra qua các lần kiểm tra, thi chọn, để lựa chọn chính xác đối tượng học sinh giỏi. Giáo viên cần đánh giá học sinh một cách khách quan, chính xác, không chỉ qua bài thi mà cả qua việc học tập bồi dưỡng dưỡng hằng ngày, việc thực hiện bài tập về nhà, việc chuẩn bị bài mới. Việc lựa chọn đúng không chỉ nâng cao hiệu quả bồi dưỡng, mà còn tránh bỏ sót học sinh giỏi và không bị quá sức đối với những em không có tố chất. Như phần trên tôi đã nêu, đối tượng học sinh tôi bồi dưỡng đa số là học sinh không có sự hứng thú và đam mê đối với bộ môn, các em xem môn sinh là môn phụ, có tư tưởng đứng núi này trong núi nọ tìm cách để chuyển môn bồi dưỡng. Vì vậy giáo viên phải tích cực động viên, xác định tư tưởng để các em thấy được tầm quan trọng của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh học: như là hiện nay đời sống con người ngày càng cao nhu cầu về sức khoẻ ngày càng lớn do đó đòi hỏi phải có Bác sĩ giỏi mà muốn thi Bác sĩ phải học 3 môn trong đó không thể thiếu được bộ môn sinh học ... Ngoài việc xác định rõ tư tưởng cho các em bản thân tôi còn phải đổi mới cách dạy tạo ra sự hứng thú, tính tò mò cho các em, tạo niềm vui cho các em khi được học bồi dưỡng môn sinh học 8 .Đó là trong các giờ dạy tôi thường kể cho học sinh nghe những câu chuyện có liên quan nội dung bài học, rồi những buổi bồi dưỡng, giờ nghĩ giải lao, cô trò quây quần bên nhau tâm sự, kể chuyện những học sinh giỏi đã đạt giải qua các năm cho các em biết nhằm kích thích, tạo cho các em niềm say mê môn học. Đồng thời bản thân tôi đã giúp cho các em có cách học mới giúp cho các em tự tin hơn, chủ động, sáng tạo hơn trong việc chiếm lĩnh kiến thức mới, ...từ đó các em có yên tâm và có hứng thú trong học tập hơn. Mặt khác giáo viên bồi dưỡng phải tham mưu cho ban giám hiệu nhà trường, GVCN, các giáo viên cùng bộ môn và các bộ môn khác để làm tốt công tác tư tưởng cho các em. Ngoài ra để tạo điều kiện cho các em tham gia học các môn học khác được tốt, tôi thường đề xuất chuyên môn bố trí thời gian bồi dưỡng phù hợp, tránh hiện tượng nhồi nhét kiến thức cho học sinh . Biện pháp 2 :Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng một cách cụ thể tránh tình trạng thích đâu dạy đó và biên soạn chương trình, nội dung bồi dưỡng rõ ràng cụ thể chi tiết cho từng chuyên đề, từng mảng kiến thức. Vào đầu năm học, giáo viên phải quan tâm đến việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng phù hợp với đặc trưng bộ môn và tình hình dạy học của đơn vị. Để làm được điều đó, tôi dựa vào các căn cứ như sau: Căn cứ vào kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học của phòng, kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi tổng thể của nhà trường và kế hoạch của hội đồng bộ môn sinh học phòng giáo dục, tôi đã xây dựng kế hoạch bồi dưỡng phù hợp với tình hình đơn vị, thời gian dạy học chính khóa và dung lượng kiến thức cần đạt trong bồi dưỡng. Kế hoạch phải mang tính định hướng và mục tiêu yêu cầu cần đạt trong và kết thúc quá trình bồi dưỡng, kết quả dự thi. Hiện nay có rất nhiều sách nâng cao và tài liệu bồi dưỡng của phòng phát hành, các tài liệu tham khảo, đề thi học sinh giỏi các năm trước, nguồn tài liệu ở trên mạng .... 6-
- song chương trình bồi dưỡng chưa có sách hướng dẫn chi tiết, cụ thể từng tiết, từng buổi học như trong chương trình chính khoá. Vì thế soạn thảo chương trình bồi dưỡng là một việc làm hết sức quan trọng và rất khó khăn nếu như chúng ta không có sự tham khảo, tìm tòi và chọn lọc tốt. Giáo viên cần biên soạn nội dung bồi dưỡng dẫn dắt học sinh từ cái cơ bản của nội dung chương trình học chính khoá, tiến dần tới chương trình nâng cao (tức là trước hết phải khắc sâu kiến thức cơ bản của nội dung học chính khóa, từ đó vận dụng để mở rộng và nâng cao dần). Cần soạn thảo chương trình từ cơ bản tới nâng cao, từ đơn giản đến phức tạp để các em học sinh bắt nhịp dần. Đồng thời phải có ôn tập củng cố, kiểm tra, rút kinh nghiệm qua mỗi bài kiểm tra. Không nên xây dựng chương trình như sách giáo khoa nâng cao hiện nay vì như thế học sinh khó nắm chắc kiến thức, dễ nhầm lẫn. Mặt khác trong sách nâng cao số lượng kiến thức nâng cao quá nhiều nếu lạm dụng sẽ ôm đồm, làm học sinh hoang mang bởi quá nhiều kiến thức không biết nắm kiến thức nào bỏ kiến thức nào ... Một số tiết ôn tập, giáo viên bồi dưỡng cần giúp các em tổng hợp các kiến thức, các dạng bài, các phương pháp giải bài tập theo từng chuyên đề theo hệ thống. Vì hầu hết các em chưa tự mình hệ thống được kiến thức mà đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. Điều cần thiết, giáo viên đầu tư nhiều thời gian, tham khảo nhiều tài liệu để đúc rút, soạn thảo cô động nội dung chương trình bồi dưỡng. (Cần lưu ý : Tùy thuộc vào thời gian bồi dưỡng, khả năng tiếp thu của học sinh mà mức độ kiến thức cao hay thấp, số lượng bài khó và ôn tập củng cố kiểm tra nhiều hay ít) Biện pháp 3 : Giáo viên chuẩn bị bài ( soạn bài ) chu đáo cho việc bồi dưỡng và phải xác định rõ trọng tâm kiến thức cho từng buổi, từng tiết để tránh trùng lặp. Công tác soạn bài có tầm quan trọng đặc biệt. Nó quyết định sự thành công hay thất bại của một tiết trên lớp. Nó chính là bản hướng dẫn hành động cho người giáo viên. Do vậy, không được xem thường, qua loa, máy móc, xa rời đối tượng học sinh. Phải tận dụng điều kiện thiết bị dạy học hiện có để giúp các em quan sát trực quan, khắc sâu thêm kiến thức. Trong bài soạn phải thể hiện rõ được phương pháp dạy của giáo viên (hướng dẫn, điều khiển hoạt động học tập của học sinh theo hướng tích cực và thể hiện rõ hoạt động của học sinh (học sinh tích cực chủ động hoạt động, tự nghiên cứu và tìm ra kiến thức dưới sự điều khiển của giáo viên, của nhóm, ...). Ngoài ra trong soạn bài tôi còn đặc biệt chú ý lựa chọn và sử dụng thiết bị dạy học minh họa, tài liệu tham khảo giúp các em khám phá cái mới, mở rộng kiến thức hoặc củng cố và khắc sâu kiến thức cho các em sau mỗi buổi bồi dưỡng tạo cho các em hứng thú hơn khi được bồi dưỡng môn sinh.... 7-
- Biện pháp 4 : Lựa chọn, kết hợp và sử dụng phương pháp bồi dưỡng phù hợp với nội dung chuyên đề bồi dưỡng.Dạy tích hợp với các bộ môn khác vào quá trình bồi dưỡng để gây hứng thú và sự say mê học tập cho học sinh : Nội dung chuyên đề bồi dưỡng môn sinh học 8 hiện nay khác so với các năm trước đây là ngoài kiến thức sinh học 8 (môn cơ thể người và vệ sinh ) thì còn bồi dưỡng về sinh học lớp 9 (Giải bài tập lai một cặp tính trạng và hai cặp tính trạng ). Trước hết ta đề cập đến môn cơ thể người và vệ sinh là môn khoa học thực nghiệm mà phương pháp nghiên cứu chủ yếu là quan sát và thí nghiệm (Thực nghiệm). Như chúng ta đã biết, con người có nguồn gốc động vật, thuộc lớp Thú nên cấu tạo cơ thể và các hoạt động sinh lí về đại thể giống với động vật thuộc lớp Thú. Do đó người ta thường tìm hiểu cấu tạo và hoạt động sinh lí của phần lớn các cơ quan, hệ cơ quan trên cơ thể động vật để hiểu về con người. Vì thế, trong dạy học, bồi dưỡng bộ môn này khi có điều kiện sẵn mẫu vật tự nhiên (tim, phổi, thận, não...) mà giáo viên hay học sinh có được, có thể cho học sinh quan sát các mẫu vật đó để tìm hiểu hình thái (màu sắc, hình dạng, kích thước), giải phẩu (cấu tạo bên trong các cơ quan và cơ thể) kết hợp với tranh vẽ, mô hình cơ quan, hệ cơ quan của người để so sánh, đối chiếu từ đó giúp học sinh ghi nhớ kĩ hơn và chính xác hơn.Tiếp theo là phần bài tập lai một cặp tính trạng và hai cặp tính trạng là loại bài tập khó đối với các em học sinh lớp 8 mà phải vượt lớp tiếp cận kiến thức lớp 9 nên giáo viên phải vừa dạy vừa phải bổ trợ thêm phương pháp tính toán cho các em bằng cách cho các em làm quen trước cách tính toán ở môn sinh 8 như tính lượng máu, lượng hồng cầu trong cơ thể ( ở chuyên đề sinh 8)để giúp học sinh luyện khả năng tính toán từ đó năng cao lên là hướng dẫn học sinh tính tỉ lệ các cặp tính trạng( chuyên đề sinh 9) . Từ đó giúp các em có hứng thú học tập hơn . Ngoài tác dụng về mặt nhận thức, các phương pháp đặc trưng này còn rèn luyện, tập dượt cho học sinh phương pháp nghiên cứu, giúp các em phát triển tư duy khoa học, tác phong cẩn thận, chính xác và có lòng say mê tìm hiểu nghiên cứu . Sự thành công của việc bồi dưỡng phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp dạy học mà giáo viên lựa chọn. Do đó trong quá trình bồi dưỡng để đạt kết quả cao trong bồi dưỡng tôi thường lựa chọn, kết hợp sử dụng những phương pháp sau : - Phương pháp hỏi đáp, tạo tình huống giải quyết vấn đề. Giáo viên dùng lời nói để dẫn dắt, giúp học sinh suy nghĩ, tìm tòi kiến thức cần nghiên cứu. Giáo viên đưa ra tình huống cho học sinh giải quyết vấn đề. Đây là một trong những phương pháp phổ biến và đặc trưng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Phương pháp vấn đáp, tạo tình huống giải quyết vấn đề là phương pháp phổ biến nhất trong dạy học bồi dưỡng. Phương pháp này có ưu điểm là dễ thực hiện, bao quát được nhiều lượng kiến thức cần bồi dưỡng trong cùng một đơn vị thời gian. Rèn luyện kĩ năng liên hệ, vận dụng của học sinh để giải quyết các bài tập. - Phương pháp trực quan. 8-
- Là phương pháp sử dụng phương tiện trực quan như mô hình, mẫu vật thật, tranh ảnh … giúp các em đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Hiện tại mẫu vật và tranh ảnh về bộ môn sinh 8 ở các trường học khá đầy đủ. Tôi đã vận dụng những thiết bị sẵn có này để giúp học sinh nắm rõ kiến thức, khắc sâu thêm kiến thức trong quá trình bồi dưỡng. - Phương tiện trực quan sẽ đóng vai trò chủ yếu và tích cực trong quá trình nhận thức khi chúng được sử dụng như một “nguồn” để dẫn tới kiến thức. Ở đây học sinh độc lập quan sát dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên để đi tới những kết luận cũng là những kiến thức cần lĩnh hội. Quan sát lúc này mang tính chất tìm tòi, nghiên cứu. Nó có tác dụng phát huy tính chủ động, độc lập, phát triển óc quan sát, phát triển tư duy cho học sinh. - Hình vẽ trong sách giáo khoa cũng được sử dụng làm phương tiện cung cấp thông tin về cấu tạo của một cơ quan hay hệ cơ quan mà học sinh phải tự tìm hiểu, tự nghiên cứu và hoàn thành các bài tập có tính chất củng cố để nắm chắc kiến thức. Ví dụ : Khi bồi dưỡng kiến thức các cơ quan trong hệ hô hấp, tôi đưa ra tranh cấu tạo tổng thể hệ hô hấp của người cho học sinh quan sát, nhớ lại kiến thức cấu tạo của hệ hô hấp, các bộ phận của đường dẫn khí, 2 lá phổi và chức năng của đường dẫn khí và hai lá phổi. Sau đó giáo viên đưa ra câu hỏi : Dựa vào tranh 20. 2 Cấu tạo tổng thể hệ hô hấp của người hãy nêu cấu tạo của hệ hô hấp và kể tên các bộ phận thuộc đường dẫn khí, hai lá phổi. Dựa vào cấu tạo và liên hệ thực tế nêu chức năng của đường dẫn khí và hai lá phổi . Học sinh lên bảng chỉ vào tranh và trình bày : Hệ hô hấp gồm các cơ quan ở đường dẫn khí và hai lá phổi + Các cơ quan của đường dẫn khí gồm : Mũi, Họng, Thanh quản, hí quản, phế quản. + Hai lá phổi : Lá phổi phải có 3 thuỳ, lá phổi trái có hai thuỳ. Chức năng của đường dẫn khí là : Dẫn khí vào và ra ; làm ẩm, làm ấm không khí đi vào và bảo vệ phổi khỏi các tác nhân có hại . Chức năng của phổi : là nơi trao đổi khí giữa môi trường ngoài với máu trong mao mạch phổi. Ở chuyên đề hệ tiêu hoá, hệ thần kinh, hệ bài tiết…tôi cũng sử dụng tranh vẽ các cơ quan của ống tiêu hoá, bộ não, tủy sống, thận…có sẵn ở phòng thiết bị để giúp học sinh hệ thống hóa lại kiến thức theo tranh vẽ và ghi nhớ khắc sâu. - Phương pháp dạy học theo bản đồ tư duy Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. 9-
- - Bạn hãy tưởng tượng tới một chú bạch tuộc có thân ở giữa và những chiếc súc tua (vòi) xung quanh. Những chiếc tua này kiếm mồi nuôi sống toàn bộ cơ thể bạch tuộc. BĐTD gồm 1 vấn đề lớn đặt ở trung tâm và các nhánh ý tưởng toả ra xung quanh. - BĐTD có ở khắp mọi nơi trong cuộc sống, chỉ cần chúng ta chú ý: Một bông hoa với nhuỵ ở trung tâm và rất nhiều cánh vòng quanh. Một cây gỗ có những cành và lá tạo thành tán rộng…. * Ưu điểm của BĐTD: - Kiến thức được trình bày cô đọng tổng quát, các nội dung được hệ thống liên kết với nhau, sử dụng hình ảnh, màu sắc sinh động, toàn bộ ý của sơ đồ có thể "nhìn thấy" phát huy tối đa tiềm năng tư duy, ghi nhớ của bộ não, giúp HS hiểu và nhớ lâu bài học, hỗ trợ hiệu quả các phương pháp dạy học. - Tiết kiệm thời gian vì nó chỉ tận dụng các từ khóa. - BĐTD là sơ đồ mở, việc thiết kế không yêu cầu khắt khe chi tiết như bản đồ địa lý, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ 1 kiểu khác nhau, kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của học sinh. - Phương tiện thiết kế bản đồ tư duy khá đơn giản, dễ tìm, kinh tế: giấy, bìa, bảng phụ, bút chì màu, phấn màu hoặc dùng phần mềm có thể vận dụng với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các trường hiện nay . - Phát triển năng khiếu hội họa, sở thích mỗi người, được tự do chọn màu sắc, đường nét, tự sáng tác nên những BĐTD, thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày của từng cá nhân nên càng yêu quý vá trân trọng “ tác phẩm trí tuệ” của mình. - Rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách logic. - Sử dụng BĐTD trong dạy học nhóm đã phát huy được tính sáng tạo, tối đa hoá khả năng của mỗi cá nhân đồng thời kết hợp sức mạnh cá nhân thành sức mạnh tập thể để có thể giải quyết được các vấn đề một cách hiệu quả. BĐTD tạo cho mỗi thành viên cơ hội được giao lưu học hỏi và phát triển chính mình một cách hoàn thiện hơn. học sinh có thể tương tác với bạn học của mình và với Giáo viên. - Qua hoạt động thuyết trình BĐTD vừa biết rõ việc hiểu kiến thức của các em vừa là một cách rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người, giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn, đây cũng là một trong những điểm cần rèn luyện của học sinh nước ta hiện nay. - Mặt khác, dạy học bằng BĐTD giúp học sinh không nhàm chán về bài học mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. Phương pháp này đặc biệt có ích trong việc củng cố kiến thức và rèn luyện, phát triển tư duy logic, năng lực cho học sinh, nhất là những học sinh khá, giỏi. Học sinh có thể tự học ở nhà rất hiệu quả, không tốn kém. Tóm lại dạy học dựa trên bản đồ tư giúp học nắm bài học có hệ thống và đảm bảo tính logic cao. Giúp giáo viên trình bày bảng khoa học và ngắn gọn. Sử dụng bản đồ 10 -
- tư duy trong bồi dưỡng học sinh giỏi có tác dụng tích cực trong việc hệ thống hóa kiến thức cũng như phát triển ý tưởng của học sinh trong quá trình học tập. Ví dụ: Sau khi kết thúc chuyên đề Trao đổi chất và năng lượng tôi dùng sơ đồ tư duy để hệ thống hóa lại kiến thức cho học sinh nắm như sau: Các phương pháp này phát huy được tính tự giác, tính tích cực, tự lực, tính chủ động, sáng tạo, học sinh tự giành lấy kiến thức dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên, iến thức thu được sẽ trở thành tài sản riêng của các em.Vì vậy các em nắm bài sâu và nắm chắc hơn.Ngoài ra, còn gây được hứng thú nhận thức rất lớn đối với các em, mà hứng thú là yếu tố tâm lý ban đầu có tác dụng tích cực đối với quá trình nhận thức của học sinh. Qua quá trình bồi dưỡng cũng như giảng dạy trên lớp tôi rút ra một điều thì dù lựa chọn và kết hợp các phương pháp dạy học nào đi chăng nữa thì nghệ thuật sư phạm (nghệ thuật khen – chê đúng lúc) là một điều không thể thiếu trong quá trình bồi dưỡng vì nhờ nghệ thuật sư phạm mà tiết dạy sẽ được nhẹ nhàng hơn, thân thiện hơn, để thay thế bởi sự quát nạt, mắng mỏ học sinh trong quá trình dạy học. Có như thế mới tạo được sự mạnh dạn, hứng thú học tập bộ môn, tạo nên được lòng ham thích,và đam mê bộ môn. Ví dụ : Khi chúng ta nêu một câu hỏi mà học sinh không trả lời được, lúc này học sinh đang đứng trước một áp lực rất lớn, đó là không biết cô sẽ xử sự với mình như thế nào đây ? chắc là mình bị 0 điểm rồi. Nếu lúc này giáo viên chúng ta không có nghệ thuật thì giáo viên chúng ta vô tình làm mất đi niềm đam mê của học sinh đối với bộ môn ( em không học bài cô cho 0 điểm, em như thế này như thế kia (chê học sinh ...), chúng ta thay bằng những lời chê này bằng tình yêu thương học sinh đó là giáo viên tìm hiểu nguyên nhân vì sao em không thuộc bài (không trả lời được) và mình phải tin vào lý do đó dù là chưa chắc hẳn là như thế để cho các em có cơ hội chuộc lỗi, sau đó giáo viên đưa ra một yêu cầu mới mà chắc chắn học sinh đó sẽ đáp ứng được chứ đừng chọn yêu cầu cao có như vậy học sinh mới tự tin vào khả năng 11 -
- của mình không bất mản vào giáo viên và bộ môn mà mình đang học mà càng ngày càng yêu thích bộ môn hơn.(câu hỏi thường dùng của tôi khi gặp trường hợp này: Em hãy nêu cho cô kiến thức bất kỳ của môn sinh học 8 mà em biết, thì lúc này học sinh rất phấn khởi nhớ lại những kiến thức đã học ở các tiết trước để trả lời ). Cuối cùng giáo viên phải xử phạt phân minh : bây giờ cô trừ em 1 điểm hoặc nhiều hơn tuỳ giáo viên vì em không thực hiện ngay yêu cầu thứ nhất mà em thực hiện yêu cầu thứ 2 do đó em bị trừ điểm. Qua đây học sinh rút ra được một bài học là phải học bài chuyên cần để được điểm cao nếu không sẽ bị trừ điểm và từ đó học sinh sẽ say mê học bài củ hơn, đam mê đối với bộ môn hơn và điều này đã được thực tiễn chứng minh. Môn sinh học là bộ môn khoa học thực nghiệm. Trong quá trình giải bài tập vận dụng ngoài kiến thức sinh học ra học sinh cần có khối lượng kiến thức cơ bản, nâng cao về môn toán, môn lý, môn mỹ thuật. Có nhiều bài tập sinh học không có kiến thức về toán học, lý học, mỹ thuật thì không thể thực hiện được làm cho học sinh nản chí, không muốn học. Chính vì vậy giáo viên phải dạy những kiến thức toán và lý có liên quan trong quá trình bồi dưỡng để gây hứng thú và sự đam mê học tập cho học sinh. Cụ thể khi giải bài tập về chuyên đề 1: Nhìn chung cơ thể người (vận dụng kiến thức toán, lý, mỹ thuật để hoàn thành bài tập), chuyên đề 2 : Tuần hoàn, chuyên đề 3 : hô hấp, chuyên đề 4: Tiêu hoá (Vận dụng kiến thức toán, mỹ thuật để hoàn thành bài tập), chuyên đề 6,7 : giải bài tập toán lai, (Vận dụng kiến thức toán học để hoàn thành bài tập). Ví dụ 1: Giải bài tập thuộc chuyên đề 2 ( Tuần hoàn ) Cho biết tâm thất trái mỗi lần co bóp đẩy đi 70 ml máu và trong một ngày đêm đã đẩy đi được 7560 lít máu. Thời gian của pha dãn chung bằng 1/2 chu kỳ tim, thời gian pha co tâm nhĩ bằng 1/3 thời gian pha co tâm thất. Hỏi: 1. Số lần mạch đập trong một phút? 2. Thời gian hoạt động của một chu kỳ tim? Muốn giải được bài toán này học sinh phải vận dụng kiến thức toán học để giải . 1.Tính được số lần mạch đạp trong 1 phút : - Trong một phút tâm thất trái đã co và đẩy : 7560 : (24. 60) = 5,25 lít. - Số lần tâm thất trái co trong một phút là : (5,25. 1000) : 70 = 75 ( lần) Vậy số lần mạch đập trong một phút là : 75 lần. 2.Tính thời gian hoạt động của một chu kỳ : - Thời gian hoạt động của một chu kỳ tim là : ( 1 phút = 60 giây) ta có : 60 : 75 = 0,8 giây. Đáp số : 0,8 giây. Ví dụ 2: Hãy vẽ sơ đồ cấu tạo hệ tuần hoàn máu . Đối với bài tập này muốn hoàn thành bài tập này phải vận dụng kiến thức mỹ thuật để hoàn thành (Phải vẽ được đồ cấu tạo hệ tuần hoàn máu). Do đó giáo viên phải luyện cho học sinh vẽ được sơ đồ cấu tạo hệ tuần hoàn máu thông qua vận dụng môn mỹ thuật. 12 -
- Ví dụ 3: Giải bài tập lai hai cặp tính trạng của Men đen .Đối với bài tập này học sinh phải nắm được phương pháp giải bài toán thuận, bài toán nghịch, phải có khả năng lập lập luận lô gic và kỹ năng tính toán thông qua vận dụng môn Toán. Dạng 1: Bài toán thuận: a) Cách giải giống như bài toán thuận của lai một tính. Gồm 3 bước : + Qui ước gen . + Xác định kiểu gen của P. + Lập sơ đồ lai. b) Ví dụ: Bài tập 1: Ở ruồi giấm: hai tính trạng thân xám, lông ngắn trội hoàn toàn so với tính trạng thân đen, lông dài. Mỗi gen nằm trên một NST riêng rẽ. Cho giao phối giữa ruồi giấm thuần chủng có thân xám, lông ngắn với ruồi giấm thân đen, lông dài; thu được F1. Tiếp tục cho F1 giao phối với nhau được F2. Hãy lập sơ đồ lai để xác định tỉ lệ kiểu gen, tỉ lệ kiểu hình của F2. Giải: (Bước 1): Theo đề bài, qui ước: Gen A: thân xám; gen a: thân đen Gen B: lông ngắn; gen b: lông dài (Bước 2): Xác định kiểu gen của P - Ruồi giấm P thuần chủng có thân xám, lông ngắn mang kiểu gen AABB. - Ruồi giấm P có thân đen, lông dài mang kiểu gen aabb. (Bước 3): Lập sơ đồ lai P: AABB (thân xám, lông ngắn) x aabb (thân đen, lông dài) Gp: AB ab F1 : Kiểu gen: AaBb Kiểu hình: 100% thân xám, lông ngắn F1 giao phối với nhau: F1: AaBb x AaBb GF1 : AB, Ab, aB, ab F2: AB Ab aB ab AABB AABb AaBB AaBb AB Xám, ngắn Xám, ngắn Xám, ngắn Xám, ngắn AABb AAbb AaBb Aabb Ab Xám, ngắn Xám, dài. Xám, ngắn Xám, dài. AaBB AaBb aaBB aaBb aB Xám, ngắn Xám, ngắn đen, ngắn đen, ngắn AaBb Aabb aaBb aabb ab Xám, ngắn Xám, dài. đen, ngắn Đen, dài Tỉ lệ kiểu gen F2 Tỉ lệ kiểu hình F2 1AABB 13 -
- 2AABb 2AaBB 9A–B- 9 thân xám, lông ngắn 4AaBb 1AAbb 2Aabb 3 A – bb 3 thân xám, lông dài 1aaBB 2aaBb 3 aa B- 3 thân đen, lông dài 1aabb 1 aabb 1 thân đen, lông dài Bài tập 2: Ở đậu Hà Lan: gen T qui định hoa tím, gen t qui định hoa trắng, gen B qui định hạt bóng, gen b qui định hạt nhăn. Hai cặp gen qui định hai cặp tính trạng về màu hoa và hình dạng nằm trên 2 cặp NST khác nhau và không xuất hiện tính trạng trung gian. a. Tổ hợp 2 cặp tính trạng về màu hoa và hình dạng ở đậu Hà Lan có bao nhiêu kiểu hình. Hãy liệt kê các kiểu hình đó. b. Viết các kiểu gen có thể có cho mỗi loại kiểu hình trên. c. Viết các kiểu gen thuần chủng và kiểu gen không thuần chủng qui định hai cặp tính trạng nói trên. Giải a. Số kiểu hình. - Xét riêng cặp tính trạng về màu sắc hoa, có 2 kiểu hình là hoa tím và hoa trắng. - Xét riêng cặp tính trạng về hình dạng hạt, có 2 kiểu hình là hạt bóng và hạt nhăn. => Tổ hợp 2 cặp tính trạng trên sẽ có: 22 = 4 kiểu hình b. Kiểu gen có thể có cho mỗi loại kiểu hình: - Kiểu hình hoa tím, hạt bóng có kiểu gen: TTBB, TTBb, TbBB, TtBb. - Kiểu hình hoa tím, hạt nhăn có kiểu gen TTbb; Ttbb. - Kiểu hình hoa trắng, hạt bóng có kiểu gen ttBB, ttBb. - Kiểu gen cây hoa trắng, hạt nhăn là: ttbb. c. Kiểu gen thuần chủng bao gồm: TTBB; TTbb; ttBB; ttbb d. Kiểu gen không thuần chủng: TtBB; TTBb; Ttbb; ttBb; TtBb Dạng 2: Bài toán nghịch: - Đặc điểm nhận dạng: Bài cho biết kết quả phân li kiểu hình ở F2. - Biện luận: + Từ tỉ lệ phân li kiểu hình ở F2 =( 9 : 3 : 3 : 1) điều kiện của bài => quy luật di truyền chi phối. + Xét sự di truyền riêng rẽ của từng cặp tính trạng để tìm qui luật di truyền => qui ước gen. + Nhận xét sự phân li kiểu hình ở F2. + Nhận xét F1 dị hợp bao nhiêu cặp – cho phân độc lập tổ hợp tự do và so sánh với kết quả của phép lai => qui luật di truyền. + Tìm kiểu gen của F1 và viết sơ đồ lai. Bài tập 1 14 -
- Cho hai cây có kiểu hình cây cao, lá chẻ giao phấn với nhau, ở thế hệ lai thu được 64 cây cao lá chẻ; 21 cây cao lá nguyên, 24 cây thân thấp, lá chẻ; 7 cây thấp lá nguyên. Biết rằng 1 gen qui định một tính trạng (gen nằm trên NST thường) Giải + Xét sự di truyền cặp tính trạng qui định thân cao, thấp = 3 : 1; tỉ lệ 3 : 1 là tỉ lệ của định luật phân li => thân cao trội hoàn toàn với thân thấp. Qui ước : A cây cao, a cây thấp. Sơ đồ Aa (cây cao) x Aa (cây cao) + Xét sự di truyền cặp tính trạng qui định lá chẻ: lá nguyên = 3:1, tỉ lệ 3:1 => định luật phân li; lá chẻ trội hoàn toàn so với lá nguyên. Qui ước B lá chẻ; b lá nguyên Sơ đồ Bb (lá chẻ) x Bb (lá chẻ) + Kết quả phân li kiểu hình của F1 9 : 3 : 3 : 1 P di hợp 2 cặp gen AaBb. Nếu phân li độc lập, tổ hợp do cho kết quả phân li kiểu hình (3:1) (3:1) 9 : 3 : 3 : 1 phù hợp với kết quả phân li ở F1. =>Kết quả của phép lai được giải thích bằng định luật phân li độc lập các cặp tính trạng. + Kiểu gen P AaBb (cây cao, lá chẻ) Sơ đồ lai: P: AaBb (cao, chẻ) x AaBb (cao, chẻ) G: AB, Ab; aB, ab AB; Ab; aB, ab F1: Kẻ bảng penét( tương tự bài 1 và bài 2) Kiểu gen khái quát 9(A-B-) : 3 (A-bb) : 3 (aaB-) : 1aabb Kiểu hình 9 (cao,chẻ) : 3(cao – nguyên) : 3(thấp, chẻ): 1(thấp, nguyên). Bài tập 2: Ở chuột, hai cặp gen quy định hai cặp tính trạng về màu lông và hình dạng đuôi đều nằm trên NST thường và phân li độc lập với nhau. Khi cho giao phối hai chuột thuần chủng có lông xám, đuôi cong với lông trắng, đuôi thẳng thu được F1. a. Lập sơ đồ lai của P đến F1 b. Tiếp tục giao phối giữa F1 với chuột khác, thu được F2 có kết quả như sau: 37,5% chuột lông xám, đuôi cong. 37,5% chuột lông xám, đuôi thẳng. 12,5% chuột lông trắng, đuôi cong. 12,5% chuột lông trắng, đuôi thẳng. Giải thích kết quả và lập sơ đồ lai của F1. Biết lông xám và đuôi cong là 2 tính trạng trội hoàn toàn so với lông trắng, đuôi thẳng. Giải Theo bài ra quy ước gen A lông xám, a lông trắng. B đuôi cong, b đuôi thẳng. a. Sơ đồ lai P đến F1. Chuột P t/c lông xám, đuôi cong có kiểu gen AABB. Chuột P t/c lông trắng, đuôi thẳng có kiểu gen aabb. Sơ đồ P t/c: AABB (xám, đuôi cong) x aabb (trắng, đuôi thẳng). G: AB ab 15 -
- F1 : Kiểu gen AaBb (xám, đuôi cong) = 100% b. Giải thích và sơ đồ lai của F1. F2 có tỉ lệ 37,5% : 37,5% : 12,5% : 12,5% = 3 : 3 : 1 : 1 * Phân tích từng cặp tính trạng ở F2. - Về màu lông: Lông xám 37,5% + 37,5% 75% 3 = = = Lông trắng 12,5% + 12,5% 25% 1 Suy ra F2 có tỉ lệ của định luật phân li 3 trội : 1 lặn => F1 dị hợp 1 cặp gen. F1 : Aa x Aa - Về hình dạng đuôi: Đuôi cong 37,5% + 12,5% 50% 1 = = = Đuôi thẳng 37,5% + 12,5% 50% 1 Suy ra F2 có tỷ lệ của phép lai phân tính 1 trội : 1 lặn F1 : Bb x bb * Tổ hợp hai cặp tính trạng. (Aa x Aa) (Bb x bb) Do F1 có kiểu gen AaBb nên chuột lai với F1 mang kiểu gen Aabb (lông xám, thẳng). Sơ đồ lai: F1 : AaBb (xám, duôi cong) x Aabb(xám, đuôi thẳng) G: AB, Ab, aB, ab, Ab, ab F2: ♂ ♀ AB Ab aB ab AABb AAbb AaBb Aabb Ab Xám, cong Xám, thẳng Xám, cong Xám, thẳng AaBb Aabb aaBb Aabb ab Xám, cong Xám, thẳng trẳng, cong Trắng, thẳng Tỷ lệ kiểu hình F2 : 3 lông xám, đuôi cong: 3 lông xám, đuôi thẳng 1 lông trắng , đuôi cong : 1 lông trắng, đuôi thẳng . Biện pháp 5: Xây dựng nề nếp học tập ngay từ những tuần đầu : Nề nếp học trên lớp là điều tôi thường quan tâm nhất . Không phải chỉ nghiêng về trật tự lớp học mà tôi còn chú ý ở các em cách dùng sách, vở học, vở nháp, thước, bút,… nói chung là dụng cụ học tập. Khi nào sử dụng vở học để làm bài, khi nào dùng vở nháp và sử dụng vở nháp như thế nào ? Trình bày ở vở nháp có khoa học và cẩn thận không…? Khi nào phải làm bài một cách độc lập, khi nào thì thảo luận nhóm. Điều này, trong khoảng 2 đến 3 tuần đầu các em sẽ quen và hiểu được ý tôi muốn các em lúc nào phải làm gì? 16 -
- Có như thế, các em sẽ biết tập trung nghe giảng lúc nào? Biết khi nào phải làm bài? Khi nào cần phải thảo luận và phát biểu ý kiến đóng góp cùng các bạn hay cùng với giáo viên để xây dựng bài mới. Biện pháp 6: Giáo viên bồi dưỡng có sổ theo dõi học sinh (Ghi chép sự chuyên cần và kết quả của các lần kiểm tra của học sinh, ưu khuyết điểm của học sinh qua mỗi bài kiểm tra – Hướng khắc phục.) I. Theo sự chuyên cần của học sinh trong các buổi học (Đi học không đánh dấu – Vắng đánh dấu nhân) Thứ ,Ngày T 3 5 Họ và tên học sinh Lớp T 1 3 1 Nguyễn Thị A 8a X 2 Lê Thị B 8b 3 Ngô Thị C 8a x 4 ........... 5 6 7 II Theo dỏi kết quả học tập qua các bài kiểm tra Kết quả kiểm tra T Họ và tên học sinh Lớp L L L L L L L L L L L L L T 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 1 Nguyễn Thị A 8a 2 Lê Thị B 8b 3 Ngô Thị C 8a 4 ...... 5 6 7 Nhận xét kết quả bài kiểm tra lần 1 Nguyễn Thị A Ưu điểm: ................................................. Nhược: .................................................... Hướng khắc phục ..................................................................... Tương tự đối với các học sinh khác 17 -
- ....................................................... Nhận xét kết quả bài kiểm tra lần 2 Tương tự như trên Giáo viên thường xuyên ghi chép sự chuyên cần và kết quả các bài kiểm tra của học sinh, nhận xét ưu, khuyết điểm, nêu hướng phắc phục cho từng em, để gặp gỡ trao đổi với từng em giúp các em rút kinh nghiệm để nắm bắt các tình huống khi học sinh làm bài. Giáo viên chủ động liên lạc với gia đình để bố mẹ các em nắm được sự tiến bộ của từng em để động viên kịp thời. Giáo viên tự rút ra bài học kinh nghiệm cho mình và đồng nghiệp để thực hiện bồi dưỡng học sinh giỏi các khối khác tốt hơn. Đúc rút kinh nghiệm để trao đổi với đồng nghiệp cùng tìm hướng giải quyết. Biện pháp 7 : Rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Rèn kĩ năng cho học sinh là giải pháp hết sức quan trọng và cần thiết giúp học sinh, nhận dạng câu hỏi, giải bài tập, học thuộc và nhớ lâu kiến thức. Thường qua các bài kiểm tra, vào buổi BDHSG tôi dành thời gian 1 tiết để kiểm tra viết 45 phút hoặc vấn đáp, sau mỗi chuyên đề tôi thường dành thời gian kiểm tra 60 phút, 90 phút, 120 phút nhằm biết mức độ nắm bài của từng học sinh qua từng đơn vị kiến thức để có biện pháp thúc đẩy các em và đồng thời giúp các em tháo gỡ những vướng mắc và khắc sâu thêm kiến thức. Giả sử chuyên đề này trong chương trình học 2 buổi nếu học sinh nắm chưa chắc kiến thức, tôi có thể tăng thời gian lên. Có nghĩa, sau mỗi chuyên đề, học sinh học xong phải nắm chắc kiến thức, tôi mới bắt đầu dạy chuyên đề mới và khi dạy tôi cho học sinh thấy mối liên hệ giữa các chuyên đề, để học sinh khi học thấy được tính logic của môn học giúp học sinh dễ hiểu và nhớ kiến thức được lâu. Đối với các bài kiểm tra chấm xong, trả bài cho HS phát hiện những sai sót và bổ sung kịp thời. Đặc biệt vào giai đoạn cuối phải tăng cường nhiều thời gian để ôn tập và kiểm tra 120 phút giúp các em cũng cố khắc sâu thêm kiến thức, có thêm kĩ năng làm bài. Biện pháp 8 : Hướng dẫn cho học sinh phương pháp học tập phù hợp ở lớp cũng như ở nhà. Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi phải yêu cầu học sinh tự giác, tích cực và có thói quen tư duy logic và mạnh dạn trình bày bài làm của mình với thầy cô. Từ đó giáo viên mới nắm được các em còn yếu ở những điểm nào để củng cố thêm. Như chúng ta đã biết thời lượng lên lớp với đội tuyển là không nhiều, việc nâng cao kết quả bồi dưỡng phải kết hợp với hoạt động dạy học chính khoá trên lớp và đặc biệt là việc hướng dẫn học sinh tự học là biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng. Thực tế cho thấy học sinh nào có tinh thần và phương pháp tự học tốt thì sẽ thành công cao hơn các bạn khác. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách sử dụng quỹ thời gian ở nhà của mình một cách hợp lý và hiệu quả, tránh lãng phí thời gian, nhưng cũng đảm bảo thời gian nghỉ ngơi giải trí. Thực tế cho thấy, có học sinh học rất nhiều, thâu đêm suốt sáng, không thu xếp được thời gian nghỉ ngơi, nên hậu quả là không những không thành công mà còn gây mụ mẫm đầu óc, cơ thể mệt mỏi kéo dài…Do đó giáo viên phải dạy cho học sinh cách học (biết cách tự học) . 18 -
- Cụ thể : Giáo viên cần hướng dẫn học sinh khi học trước hết phải nắm chắc kiến thức cơ bản từ đó mới có cơ sở kiến thức để liên hệ, so sánh, để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. Không những thế học sinh cần phải có thói quen đặt ngược vấn đề, như đặt câu hỏi tại sao lại như vậy? Để từ đó hiểu bài một cách cặn kẽ, giúp các em ghi nhớ có chủ định. Giáo viên cần tập cho học sinh có thói quen ghi chép lại những hiện tượng sinh học quan sát được từ thực tế và tự đặt câu hỏi để giải thích, đưa ra nhận định khoa học. Tập cho học sinh có ý thức làm bài tập nâng cao để rèn luyện kiến thức chuyên sâu và trí thông minh. Giáo viên ra bài tập về nhà với dung lượng và kiến thức phù hợp với đối tượng học sinh. Việc học tập ở nhà có ý nghĩa rất quan trọng, đó là một hình thức học tập độc lập của học sinh. Muốn học sinh thực hiện hiệu quả công việc này thì giáo viên cần sự hướng dẫn kĩ càng chu đáo cho các em định hướng cách làm các bài tập đó. Ví dụ1: Khi dạy xong chuyên đề tuần hoàn, tôi ra bài tập về nhà cho học sinh phần bài tập nâng cao như sau : 1. Phân tích hoạt động của máu trong vòng tuần hoàn lớn và vòng tuần hoàn nhỏ. Từ đó so sánh vòng tuần hoàn lớn và vòng tuần hoàn nhỏ . 2. Vì sao máu chảy trong mạch không bao giờ đông hể ra khỏi mạch là đông ngay ? Hướng dẫn hoàn thành câu hỏi 1: Tôi yêu cầu các em về xem lại đường đi của máu trong vòng tuần hoàn nhỏ và trong vòng tuần hoàn lớn thông qua việc quan sát lại hình 16.1 nghiên cứu chú thích và quan sát kỹ hướng mũi tên, từ đó các em sẽ phân tích được hoạt động của máu trong vòng tuần hoàn lớn và vòng tuần hoàn nhỏ. Khi các em phân tích được hoạt động của máu trong vòng tuần hoàn lớn và vòng tuần hoàn nhỏ thì các em sẽ dễ dàng thấy được sự giống nhau và khác nhau giữa vòng tuần hoàn lớn và vòng tuần hoàn nhỏ (so sánh vòng tuần hoàn lớn và vòng tuần hoàn nhỏ) Hướng dẫn hoàn thành câu hỏi 2: Tôi hướng dẫn các em vận dụng kiến thức ở chuyên đề tuần hoàn cụ thể là dựa vào kiến thức phần I. Đông máu trang 48 sách giáo khoa của bài 15 “Đông máu và nguyên tắc truyền máu” để giải thích bằng cách trả lời hai câu hỏi nhỏ đó là : máu chảy trong mạch không bao giờ đông là do đâu ? Tại sao máu ra khỏi mạch là đông ngay . Ví dụ 2: Sau khi học xong chuyên đề lai hai cặp tính trạng, tôi ra bài tập nâng cao như sau : Khi lai giữa cặp bố mẹ đều thuần chủng khác nhau về hai cặp gen tương phản, đời F1 đồng loạt xuất hiện cây quả tròn, ngọt. Tiếp tục cho F1 tự thụ phấn, thu được đời F2 có 6000 cây, gồm 4 kiểu hình, trong đó có 375 cây quả bầu, chua. Cho biết mỗi gen qui định một tính trạng. 1. Biện luận quy luật di truyền đã chi phối phép lai. 2. Lập sơ đồ lai từ P đến F2. 19 -
- 3. Tính số lượng cá thể thuộc mỗi kiểu hình xuất hiện ở đời F2. Hướng dẫn hoàn thành câu hỏi 1 : Tôi yêu cầu học sinh xem lại phương pháp giải lai hai cặp tính trạng để biện luận tìm ra quy luật di truyền đã chi phối phép lai. Cụ thể : 1. Biện luận quy luật di truyền: - P đều thuần chủng, khác nhau về hai cặp gen tương phản F1 phải dị hợp về hai cặp gen. - F1 dị hợp hai cặp gen, biểu hiện kiểu hình quả tròn, ngọt, suy ra các tính trạng quả tròn, ngọt là các tính trạng trội so với quả bầu, chua. - Quy ước gen: gen A: quả tròn gen a: quả bầu gen B: ngọt gen b: chua - F1: (AaBb) tròn, ngọt x (AaBb) tròn, ngọt - F2: xuất hiện 4 kiểu hình, trong đó kiểu hình mang hai tính trạng lặn quả bầu, chua (aabb) =375/6000 x 100% = 6,25% = 1/16, chứng tỏ 4 kiểu hình đời F2 phân li theo công thức (3 : 1)2 = 9: 3: 3: 1. Vậy hai cặp tính trạng hình dạng và vị quả di truyền theo quy luật phân li độc lập của Menđen. Hướng dẫn hoàn thành câu hỏi 2 :dựa vào kết quả biện luận ở câu hỏi 1 để lập sơ đồ lai từ p đến F2 . Cụ thể : 2. Lập sơ đồ lai: - Sơ đồ lai của P: AABB (tròn, ngọt) x aabb (bầu, chua) hoặc: P: Aabb (tròn, chua) x aaBB (bầu, ngọt) (Lập 2 sơ đồ lai của P F1 :100% AaBb) - F1 x F1: AaBb (tròn, ngọt) x AaBb (tròn, ngọt) GF1: AB,Ab,aB, ab AB,Ab,aB, ab F2: Kẻ khung pennet Kiểu gen F2: 1AABB: 2AABb: 2AaBB: 4AaBb: 1AAbb: 2Aabb : 1aaBB: 2aaBb:1aabb Kiểu hình F2: 9 quả tròn, ngọt: 3 quả tròn, chua : 3 quả bầu, ngọt : 1 quả bầu, chua. Hướng dẫn hoàn thành câu hỏi 3 : Dựa vào tỉ lệ kiểu hình F2 ở câu hỏi 2 và các dự liệu bài ra cho để tính số lượng cá thể thuộc mỗi kiểu hình xuất hiện ở đời F2. Cụ thể : 3. Số lượng cá thể thuộc mỗi kiểu hình đời F2: Quả tròn, ngọt = 6000 x 9/16 = 3375 cây. Quả tròn, chua = 6000 x 3/16 = 1125 cây. Quả bầu, ngọt = 6000 x 3/16 = 1125 cây. Quả bầu, chua = 6000 x 1/16 = 375 cây. Biện pháp 9 : Giáo viên bồi dưỡng phải tích cực tích lũy nâng cao kiến thức bộ môn, sử dụng tốt tài liệu tham khảo trong công tác bồi dưỡng. 20 -
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập phân môn Hát ở lớp 6
13 p | 331 | 31
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở THCS
33 p | 99 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học và sửa chữa đồ dùng dạy học bộ môn Vật lí ở trường THCS
16 p | 28 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một vài kinh nghiệm sử dụng phương pháp trò chơi vào tiết luyện tập môn Hóa học ở trường THCS
24 p | 169 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số thủ thuật dạy từ vựng môn tiếng Anh cấp THCS
12 p | 31 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp trong việc bảo quản vốn tài liệu tại thư viện trường THCS Nguyễn Lân
15 p | 97 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm trong việc chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn ở trường THCS Nguyễn Lân, quận Thanh Xuân
35 p | 39 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán cấp THCS
28 p | 98 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh THCS
27 p | 85 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số ứng dụng của định lí Vi-ét trong chương trình Toán 9
24 p | 85 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Ban chỉ huy Đội tại trường THCS Nguyễn Khuyến
29 p | 65 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp rèn kỹ năng viết CTHH của chất vô cơ trong chương trình Hoá học lớp 8 THCS
45 p | 18 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm dạy dạng bài tập đồ thị phần toán chuyển động trong Vật lí THCS
33 p | 37 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm hữu ích giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8
21 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh THCS trong các bài vẽ tranh
17 p | 22 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 8 thành công trong thí nghiệm Hoá học 8
10 p | 13 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ dạy thực hành sử dụng các hàm để tính toán của Excel
14 p | 91 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy loại bài tập về số chính phương cho học sinh giỏi lớp 8 ở trường trung học cơ sở
16 p | 73 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn