intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp rèn kĩ năng nói trong tiết Nói và Nghe cho học sinh lớp 7 ở trường THCS Lương Thế Vinh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:17

9
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số giải pháp rèn kĩ năng nói trong tiết Nói và Nghe cho học sinh lớp 7 ở trường THCS Lương Thế Vinh" nhằm nghiên cứu và đề xuất các biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh môn Ngữ văn tổ khoa học xã hội ở trường THCS Lương Thế Vinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp rèn kĩ năng nói trong tiết Nói và Nghe cho học sinh lớp 7 ở trường THCS Lương Thế Vinh

  1. 1/16 ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 7 TRONG TIẾT NÓI VÀ NGHE Lĩnh vực/môn : Ngữ Văn Cấp học : THCS Tên tác giả : Đặng Thị Vân Đơn vị công tác : THCS Lương Thế Vinh Chức vụ : Tổ phó Tổ KHXH Năm học: 2022 - 2023 MỤC LỤC TT Nội dung Trang Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài 1
  2. 2/16 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu. 2 4. Phương pháp nghiên cứu 2 5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 2 6. Nhiệm vụ nghiên cứu 2 7. Những đóng góp mới của đề tài. 2 8. Kết cấu 2 Nội dung I. Cơ sở lí luận của vấn đề rèn kĩ năng cho hs trong tiết Nói và 4 Nghe... II. Thực trạng. 5 III. Một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho hs môn Ngữ văn. 8 Kết luận và Khuyến nghị 11 Tài liệu tham khảo I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trên văn bia Văn Miếu - Quốc tử giám, Thân Nhân Trung đã viết: «Hiền tài quốc gia chi nguyên khí. Nguyên khí thịnh tắc quốc thế cường dĩ long; nguyên khí lỗi tắc quốc thế nhược dĩ ô». Quả thật, để đất nước được hưng thịnh,
  3. 3/16 trường tồn, nhân tố con người luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng. Vì lẽ đó, nhiệm vụ của giáo dục là tạo ra những con người phát triển toàn diện, đủ đức đủ tài, đáp ứng được nhu cầu của thời đại. Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới chính thức được triển khai trên cả nước đối với học sinh lớp 1 từ năm học 2020-2021. Vì vậy, ngành giáo dục đã, đang nỗ lực xây dựng đội ngũ giáo viên không chỉ đạt chuẩn về trình độ đào tạo mà còn có tư duy đổi mới, sáng tạo trong phương pháp dạy học, đổi mới trong kiểm tra đánh giá đáp ứng yêu cầu chương trình GDPT mới theo hướng phát triển năng lực. Để phát triển được năng lực và bồi đắp nhân cách người học trong môn Ngữ văn, chúng ta không chỉ coi trọng đổi mới chương trình SGK, kĩ thuật dạy học, đổi mới sinh hoạt tổ- nhóm CM mà còn tập trung vào khâu đổi mới phương pháp. Đổi mới phương pháp sẽ phát triển được năng lực người học và đặc biệt hơn, có thể phát hiện, khích lệ, ươm mầm tài năng và bồi đắp tâm hồn, hoàn thiện nhân cách cho HS. Đối với Trường THCS Lương Thế Vinh, ngôi trường thuộc tốp đầu của huyện Đan Phượng, lại càng cần phải thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp, rèn kĩ năng nghe- nói -đọc – viết để nâng cao chất lượng dạy-học môn Ngữ văn. Tuy nhiên, những năm gần đây, việc rèn kĩ năng nói đối với các khối lớp còn nhiều khó khăn, do GV chưa kịp thích nghi với sự đổi mới, còn thụ động và lúng túng trong triển khai áp dụng; do ảnh hưởng của đại dịch Co-vid19 nên có sự điều chỉnh kế hoạch dạy học, từ đó kéo theo việc rèn kĩ năng thuyết trình, trao đổi, thảo luận của HS chưa được chú trọng đúng mức; do số tiết luyện nói trong phân phối chương trình SGK còn ít… Từ những vấn đề trên, tôi đã triển khai thực hiện, rút ra một số kinh nghiệm và đúc kết thành đề tài: “Một số giải pháp rèn kĩ năng nói trong tiết Nói và Nghe cho học sinh lớp 7 ở trường THCS Lương Thế Vinh”. 1. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu, và đề xuất các biện pháp rèn kĩ năng nói cho hs môn Ngữ văn tổ khoa học xã hội ở trường THCS Lương Thế Vinh. 2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu: 2.1. Khách thể nghiên cứu Học sinh khối 7, Trường THCS Lương Thế Vinh 2.2. Đối tượng nghiên cứu Rèn kĩ năng nói môn Ngữ văn trường THCS Lương Thế Vinh.
  4. 4/16 3. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lí luận - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp tham vấn chuyên gia - Phương pháp thống kê. 4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ giới hạn về thực trạng và các biện pháp rèn kĩ năng nói môn Ngữ văn tổ KHXH trường THCS Lương Thế Vinh. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu cơ sở lí luận của vấn đề các biện pháp rèn kĩ năng nói môn Ngữ văn tổ KHXH trường THCS Lương Thế Vinh.. - Phân tích thực trạng các biện pháp rèn kĩ năng nói môn Ngữ văn tổ KHXH trường THCS Lương Thế Vinh. - Đề xuất các biện pháp các biện pháp rèn kĩ năng nói môn Ngữ văn tổ KHXH trường THCS Lương Thế Vinh.. 6. Những đóng góp mới của đề tài: Đưa ra một số biện pháp nhằm các biện pháp rèn kĩ năng nói môn Ngữ văn ở tổ khoa học xã hội trường THCS Lương Thế Vinh. 7. Kết cấu: Đề tài gồm có 03 phần - Mở đầu - Nội dung: gồm 03 phần - Kết luận và khuyến nghị. II. PHẦN NỘI DUNG SÁNG KIẾN 1. Thực trạng của giải pháp đã biết a) Tình trạng chung: Theo kết quả điều tra về thực trạng triển khai SGK THCS mới, tâm lý chung của các GV Ngữ văn là ngại dạy các giờ luyện nói (Theo Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GV THCS chu kì III – môn Ngữ văn, trang 106). Theo khảo sát ở phiếu thăm dò, tâm lý chung của HS là sợ và chán học giờ luyện nói trong chương trình Ngữ văn THCS (khi chưa áp dụng các hình thức đổi mới). b) Việc thực hiện tiết luyện nói hiện nay: Phần đông giáo viên Ngữ văn và HS THCS vẫn thực hiện tiết luyện nói như sau: GV dặn HS về nhà tự chuẩn bị bài theo gợi ý ở SGK.
  5. 5/16 Đến tiết học trên lớp, từng HS được GV mời lên trình bày kỹ năng nói trước tập thể (nhóm/ lớp). c) Nhược điểm: Ngoài “ưu điểm” giúp cho GV và HS đỡ vất vả, đỡ phải bỏ công sức , tâm huyết, đỡ lo “cháy giáo án” thì khi đối chiếu với lý luận dạy-học, với mục tiêu môn học và lý thuyết giao tiếp, những tiết luyện nói như trên đã bộc lộ những nhược điểm cơ bản như sau: - Chưa tích cực hóa hoạt động học tập của người học. - Chưa tạo được cho HS hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi trong giờ luyện nói như: không khí hào hứng của lớp học, thái độ dễ hợp tác của những người cùng tham gia giao tiếp, sự động viên khuyến khích kịp thời của GV và bạn bè… - Chưa tạo cho HS nhu cầu muốn nói, muốn được bộc lộ … - Chưa thể hiện được vai trò quan trọng của giáo viên trong việc hướng dẫn, tổ chức tiết học … - Làm giảm giá trị và sức hấp dẫn của môn học. d) Nguyên nhân: - Đúng như nhận định của tác giả Nguyễn Thúy Hồng trong Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (2004-2007), có những tiết luyện nói như thế là do còn gặp quá nhiều khó khăn khi thực hiện: - Kinh nghiệm rèn luyện kĩ năng nói cho HS chưa nhiều so với việc rèn luyện kĩ năng viết. - HS chưa chủ động và tự tin khi nói trước đông người. - Lớp học quá đông, thời gian một tiết học quá ngắn, khó tạo điều kiện cho tất cả các HS đều được nói. - Hệ thống bài tập rèn luyện và phát triển kĩ năng nói trong chương trình chưa phong phú, đa dạng. - Sách giáo viên chưa có định hướng giúp giáo viên chú trọng rèn luyện và phát triển kĩ năng nói qua từng tiết luyện nói . 2. Nội dung giải pháp đề nghị là công nhận là sáng kiến a) Mục đích của giải pháp: Trong mục tiêu dạy học môn Ngữ văn THCS, về kỹ năng, Chương trình môn Ngữ văn nhấn mạnh trọng tâm của việc rèn luyện kỹ năng Ngữ văn cho HS là làm cho HS có kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kỹ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giá văn học. Chính vì thế, SGK Ngữ văn THCS đã
  6. 6/16 chú trọng hơn tới việc hình thành và phát triển kỹ năng nói . Đây là một trong những điểm mới về quan điểm dạy học của môn học. Nhìn nhận thực trạng dạy-học tiết luyện nói để từ đó thấy rõ những nhược điểm cần khắc phục. Trao đổi với đồng nghiệp về mục tiêu, nguyên tắc, nội dung, trang thiết bị – CSVC … khi thực hiện tiết luyện nói theo hướng đổi mới. Đây là những vấn đề có ý nghĩa cơ sở; làm tiền đề cho sự thăng hoa sáng tạo ở tiết luyện nói nhưng tránh khuynh hướng thái quá. Mô tả một số hình thức tổ chức tiết luyện nói theo hướng đổi mới. Đây chỉ là những gợi ý để quý đồng nghiệp tham khảo, vận dụng một cách linh hoạt. Sơ bộ đánh giá bước đầu những ưu, nhược điểm của đề tài qua phiếu thăm dò ý kiến của giáo viên và học sinh về tiết luyện nói theo hướng đổi mới. Nhằm khắc phục những tồn đọng lâu nay trong tiết luyện nói để giúp các em mạnh dạng hơn khi đưa ra ý kiến của bản thân. Đặt biệt là trong chương trình ngữ văn đổi mới, mỗi bài/chủ đề đều co tiết nói – nghe theo chủ đề để phát huy hết khả năng nghe – nói – đọc – viết của học sinh. Dần dần linh hoạt đổi mới tư duy, đổi mới phương pháp để phù hợp với nhu cầu đổi mới của hiện thực. b) Nội dung của giải pháp Nguyên tắc chung của hướng đổi mới tiết luyện nói: - Phát huy tối đa tính tích cực của chủ thể HS. - Phát huy thế mạnh của hoạt động nhóm/tổ. - Ưu tiên hàng đầu cho việc luyện kỹ năng nói nhưng không tách rời với các kỹ năng khác trong bộ tứ NGHE-NÓI-ĐỌC-VIẾT. - Chú trọng quan tâm cả ba đối tượng học sinh (giỏi, khá – trung bình – yếu, kém). - Tạo được không khí tự nhiên, thoải mái, nhẹ nhàng và lựa chọn nội dung hấp dẫn để lôi cuốn các em vào hoạt động luyện nói. - Thể hiện thái độ khích lệ, động viên, nâng đỡ để tránh cho em cảm giác tự ti, xấu hổ. - Đầu tư thật kỹ cho khâu chuẩn bị ở nhà của HS. Bước 1. Xác định mục tiêu của tiết luyện nói: - Mục tiêu chung: Có thể dựa vào SGV (Mục tiêu cần đạt). - Mục tiêu cụ thể: Cần phải cụ thể hóa mục tiêu chung sao cho phù hợp với đối tượng HS. Bởi HS ở mỗi lớp, trường, vùng, miền lại có những đặc điểm riêng biệt. Không
  7. 7/16 có loại sách vở nào hay bất cứ ai khác có thể làm thay cho GV đứng lớp trong việc vạch ra mục tiêu cụ thể. Chỉ có sự nhạy cảm, năng lực sư phạm, tinh thần trách nhiệm và tình yêu trẻ mới giúp chúng ta cụ thể hóa mục tiêu chung một cách sáng tạo, sát hợp. Bước 2. Lựa chọn nội dung trong tiết luyện nói: Cần lựa chọn nội dung luyện tập một cách linh hoạt, đạt hiệu quả. Vừa bám sát vào các BT ở SGK vừa vận dụng tình hình, đặc điểm cụ thể để có thể thay đổi, thêm bớt bài tập cho phù hợp. Bước 3. Xác định vai trò của giáo viên và HS trong tiết luyện nói: - Học sinh: Trong tiết luyện nói, người hoạt động chủ yếu là HS. HS phải là những chủ nhân thực sự, chiếm lĩnh hầu hết các hoạt động trong tiết học. Các em tựa như những diễn viên hoàn toàn làm chủ sân khấu với những hình thức phong phú, đa dạng : độc thoại, đối thoại, diễn trò, đóng vai... - Giáo viên: Nói chung, đối với tiết luyện nói, giáo viên nên tránh hai khuynh hướng sau: + Cho rằng giờ luyện nói là của học sinh, dành cho HS thực hành là chính; từ đó GV không làm gì cả, khoán trắng, phó mặc cho HS muốn nói thế nào cũng được; tất cả đổ cho năng lực của HS; dẫn đến tiết học đơn điệu, buồn tẻ, mất tác dụng. + Quá lo sợ rằng HS không nói được, không trình bày được vấn đề trước tập thể nên làm thay, nói hộ hết cho HS; hoặc tiến hành tiết dạy một cách qua loa, chiếu lệ cho xong. Trong tiết luyện nói, GV hoạt động rất ít để trao quyền ưu tiên cho HS hoạt động với thời lượng tối đa có thể được; thậm chí hầu như GV không làm gì cả. Nhưng ở đây, không làm gì cả không có nghĩa là khoán trắng, phó mặc HS kiểu như đã nói ở trên; mà GV vẫn là người bao quát, chỉ đạo linh hoạt để đảm bảo cho hoạt động của HS đúng hướng và đạt hiệu quả cao. Bước 4. Thực hiện khâu chuẩn bị trước khi tiến hành tiết luyện nói: Trước hết xin được nhấn mạnh tầm quan trọng của khâu chuẩn bị trước khi luyện nói trên lớp. Có thể nói yếu tố quyết định thành công hay thất bại của giờ luyện nói theo hướng đổi mới chính là ở khâu này. Giáo viên cần định hướng cho các em trong việc chuẩn bị thật cụ thể, rõ ràng về cả nội dung và cách thức (Chuẩn bị cái gì? Chuẩn bị như thế nào, bằng cách nào?)
  8. 8/16 Cũng cần phân công cụ thể cho các đối tượng HS, nhưng chủ yếu là chỉ đạo thông qua đội ngũ tổ trưởng, nhóm trưởng, cán sự bộ môn. Bước 5. Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy- học trong tiết luyện nói: GV nên linh hoạt, thiên biến vạn hóa trong việc thiết kế các hoạt động dạy – học. Sau đây là vài đề xuất để tham khảo, vận dụng: Trò chơi 1. Hái hoa tìm ý. Có thể dùng hình thức này đối với lớp dạy có nhiều HS yếu kém, chưa thành thạo kĩ năng tạo lập kiểu văn bản đang học, chưa quen nói trước tập thể; lại ít có ( hay không có ) nhân tố tích cực ( HS khá, giỏi, lanh lợi, hoạt bát) làm nòng cốt. * Cách thực hiện: a) Khâu chuẩn bị: - Lựa chọn một bài tập (không ôm đồm nhiều về số lượng bài tập). - Thông báo bài tập đã chọn cho HS biết trước để chuẩn bị. - Định hướng cho HS bằng một số câu hỏi (để giải quyết bài tập). Những câu hỏi này được cung cấp từ trước tiết học để HS suy nghĩ, chuẩn bị lời. - Một bảng phụ - mô hình dàn ý phù hợp với bài tập - Các câu hỏi được viết trên mảnh giấy lớn, chữ to để có thể gắn với mô hình dàn ý (mỗi câu hỏi được trình bày về hình thức tựa như những bông hoa) - HS tự trình bày dàn ý vào vở soạn theo gợi ý từ các câu hỏi cho trước và tập chuẩn bị ngôn ngữ nói trước khi đến lớp. b) Trình tự tiến hành trong tiết học: - Phân lớp học thành một số nhóm - Lần lượt mời từng đối tượng HS trong các nhóm lên hái hoa và trình bày trước lớp theo hình thức tiếp sức (để tạo không khí sôi nổi, kích thích sự mạnh dạn, tự tin…) - Lớp và GV lần lượt nhận xét (theo chiều hướng nhắc nhở nhưng vẫn khích lệ, nâng đỡ để tránh cho các em cảm giác xấu hổ, tự ti…)về việc trình bày đối với từng câu hỏi của từng nhóm và cùng trao đổi để gắn hoa vào mô hình dàn ý. - GV sơ kết, giảng giải ngắn gọn về dàn ý và cách trình bày kiểu văn bản cần tạo lập. - HS khá, giỏi trình bày trước lớp cả bài (theo dàn ý) để khắc sâu cách tạo lập kiểu văn bản đang học.
  9. 9/16 - Nếu còn thời gian, tiếp tục tổ chức cho các em trình bày theo dàn ý trước nhóm (nói từng phần để tạo điều kiện cho nhiều HS được trình bày). Trò chơi 2. Trò chơi thông thái Hình thức này dành cho đối tượng HS nhút nhát, tuy có khả năng viết bài nhưng chưa mạnh dạn, tự tin nói trước tập thể. Khi mục tiêu cụ thể của tiết dạy không đặt năng kỹ năng làm bài (tạo lập văn bản ) mà cần luyện kỹ năng ứng đáp mau lẹ, nói năng rõ ràng, mạch lạc cho HS thì hình thức Trò chơi thông thái sẽ phát huy tác dụng. * Cách thực hiện: a) Điều kiện: Cơ sở vật chất thuận lợi. b) Chuẩn bị: - GV phải chuẩn bị thật công phu + Nhiều câu hỏi, bài tập ngắn gọn, bổ ích. + Tranh ảnh, vật dụng phong phú, giàu ý nghĩa. + Cách dẫn chương trình hấp dẫn, sáng tạo. Có thể vận động HS cùng chuẩn bị như sưu tầm tranh ảnh, vật dụng, soạn thảo câu hỏi- đáp án… Có thể chuẩn bị vài phần quà nho nhỏ giúp trò chơi thêm hào hứng. HS được thông báo giới hạn một số đề tài chính để nghiên cứu, suy nghĩ trước. c) Trình tự thực hiện trong tiết học: - Chia cuộc chơi thành 2-3 chặng. Lượng câu hỏi, bài tập được sắp xếp vào từng chặng cho phù hợp. - Sau mỗi chặng, có nhận xét và đổi người tham gia chơi. - GV trực tiếp làm giám khảo và cho điểm theo một thang điểm đã được thống nhất và công bố; cử HS làm thư ký theo dõi và tổng kết điểm ở từng chặng, cả đợt. - Cuối cùng GV tổng kết, củng cố phương pháp tạo lập VB. Nhận xét các đội chơi, khen thưởng và trao quà. Khi đã thuần thục với cách làm trên thì lớp có thể “tự biên tự diễn” mà GV chỉ là người định hướng từ xa chứ không cần tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động của HS. Trò chơi 3. Dàn hợp xướng
  10. 10/16 - Đây là một hình thức có thể giúp cho các đối tượng HS cùng bổ trợ cho nhau trong quá trình thực hành kỹ năng nói về một vấn đề nào đó. - Tạo cho HS khả năng làm việc tập thể, biết phối hợp nhịp nhàng, ăn ý, biết đoàn kết, hợp tác để hoàn thành nhiệm vụ. - Hoạt động diễn ra chủ yếu dựa trên cơ sở đơn vị nhóm. Nhóm trưởng giữ vai trò đặc biệt quan trọng (tựa như người nhạc trưởng một dàn nhạc) trong việc điều hành nhóm. * Cách thực hiện: a) Chuẩn bị: - Phân nhóm, lựa chọn nhóm trưởng. - Thông báo về số lượng nội dung bài tập thực hành; cho các nhóm nhận bài tập cụ thể. - Hướng dẫn các nhóm chuẩn bị bài tập (chủ yếu thông qua nhóm trưởng) - Các nhóm HS lên chương trình tập luyện và chuẩn bị: làm dàn ý, sưu tầm tranh ảnh, vật dụng, phân công việc cụ thể cho các thành viên trong nhóm… b) Trình tự tiến hành trong tiết học: - Mỗi nhóm trình bày trước lớp về vấn đề đã chuẩn bị dưới sự điều hành của nhóm trưởng. Có thể theo trình tự sau: + Lời chào và lời tự giới thiệu về nhóm và nội dung sẽ trình bày + Giới thiệu dàn ý + Lần lượt trình bày từng phần theo dàn ý ( theo nhiều hình thức sáng tạo khác nhau). + Lời chào kết thúc, lời cảm ơn. Lớp và GV lần lượt nhận xét về phần trình bày của từng nhóm. GV nhấn mạnh lại cách tạo lập của kiểu VB đang học. - HS khá, giỏi trình bày trước lớp cả bài để khắc sâu kiểu VB và kỹ năng nói về kiểu VB ấy. c) Lưu ý: Hình thức Dàn hợp xướng có tác dụng rất tốt nhưng khó thực hiện vì nếu chuẩn bị không kỹ hoặc Nhạc trưởng kém năng lực thì chương trình của nhóm dễ bị rời rạc, thậm chí thất bại. Do đó, khâu chuẩn bị phải được đầu tư chu đáo. Nếu HS đã chuẩn bị kỹ nhưng khi thực hành vẫn gặp khó khăn thì GV nên nhẹ nhàng gỡ bí và dẫn dắt, giúp các em hoàn thành chương trình của nhóm. Mặt khác cũng không nên yêu cầu quá cao, nhất là khi thực hiện hình thức này lần đầu.
  11. 11/16 Trò chơi 4. Thi nói nhanh (Thi hùng biện, thi kể chuyện,…) Hoạt động thực hành này vẫn dựa trên cơ sở gợi ý của SGV. Nghĩa là HS luyện nói ở tổ, nhóm; sau đó nói trước lớp trên cơ sở đã chuẩn bị dàn ý và tập nói ở nhà. Nhưng có thể thay đổi ở chỗ là cơ cấu việc luyện nói ấy thành một cuộc thi để tạo không khí sôi nổâi, lôi cuốn HS. Nên tổ chức hình thức Thi nói hay đối với những lớp khá, HS mạnh dạn, hoạt bát. Mục tiêu cụ thể của tiết dạy khi dùng hình thức này là luyện cho HS khả năng nói đúng, nói hay, nói truyền cảm trước tập thể về một vấn đề. * Cách thực hiện: a) Chuẩn bị: - Bảng phụ (tính điểm) - Thông báo số lượng bài tập, nội dung BT. - Thông báo hình thức hoạt động để HS tập luyện. - Các nhóm chuẩn bị dàn ý, phiếu học tập của nhóm - HS chuẩn bị thêm tranh ảnh, vật dụng liên quan (nếu cần) - Có thể chuẩn bị thêm tranh ảnh, vật dụng… - Chuẩn bị vài mòn quà nho nhỏ. - Có thể chọn HS dẫn chương trình. b) Trình tự thực hiện trong tiết học: - GV nêu tiêu chí, yêu cầu, thang điểm -Thi vòng 1: HS nói trong nhóm. Nhóm chọn ra người Nói hay để dự thi vòng 2. - Thi vòng 2: Tranh tài Nói hay giữa các nhóm - Sau mỗi phần tranh tài của một nhóm là có phần nhận xét và bình điểm của lớp, GV. - Kết thúc cuộc thi: Công bố điểm, chọn giải nhất, nhì và trao quà. - Tổng kết tiết học, rút kinh nghiệm.
  12. 12/16 Trò chơi 4. Đóng vai, nhập cuộc - Hình thức hoạt động này chủ yếu dựa trên cơ cở của DÀN HỢP XƯỚNG nhưng có yêu cầu cao hơn nhiều . HS cần có khả năng sáng tạo, kỹ năng tổ chức rất cao để dàn dựng “kịch bản” và tham gia “diễn xuất”. - GV cần định hướng cho HS khâu dựng “kịch bản” và đóng vai trò “đạo diễn” cho sự “diễn xuất” của các em. - Nên áp dụng hình thức này cho những lớp có HS khá, giỏi để các em đó làm “đầu tàu” trong quá trình thực hiện. - Nếu tổ chức tốt thì đây là hình thức rất hấp dẫn, lôi cuốn HS. - Lưu ý: Cần khéo léo khi sử dụng hình thức này để tránh làm phá vỡ đặc trưng của kiểu văn bản cần tạo lập. * Cách thực hiện: a) Chuẩn bị: - GV thông báo nội dung bài tập ( sau khi đã trao đổi, thống nhất với HS nòng cốt). - Gợi ý, định hướng cho HS dựng “ kịch bản”, phối luyện để diễn xuất. - Giới thiệu tư liệu, chương trình để HS tham khảo. - Các tổ, nhóm thực hiện việc chuẩn bị theo sự hướng dẫn của GV .
  13. 13/16 b) Trình tự thực hiện : - Tương tự như DÀN HỢP XƯỚNG
  14. 14/16 Chỉ khác ở chỗ các thành viên tham gia đã hoàn toàn đóng vai nhập cuộc để trình bày chứ không cần sự giới thiệu lần lượt của người điều khiển. 3. Đánh giá về sáng kiến tạo ra. a) Tính mới Những trò chơi đưa ra áp dụng trong giờ luyện nói có thể nói phát huy đầy đủ tính tích cực của học sinh, nhằm hướng tới lấy học sinh làm trung tâm. Ngoài ra, khi giáo viên tổ chức các hoạt động trò chơi trong tiết luyện nói giúp các em hứng thú trong tiết học văn, biến giờ luyện nói nhàm chán trước đây thành tiết học mới lạ, hứng thú và học sinh tích cực tham gia. Có rất nhiều trò chơi được áp dụng trong giờ ngữ văn nhưng giờ luyện nói theo hướng tôi đưa ra có thể nói rất ít được áp dụng. Đó chính là tính mới của sáng kiến kinh nghiệm. Tạo tâm thế thỏa mái cho học sinh tiếp nhận giờ học, để phát triển tốt nhất năng lực học sinh đi theo hướng thay đổi phương pháp giảng dạy phù hợp với xu thế đổi mới, tránh nhàm chán cho học sinh. b) Hiệu quả áp dụng Qua việc phát phiếu khảo sát về một số giải pháp đã thực hiện trong bộ môn ngữ văn ở bậc trung học cơ sở bản thân tôi nhận thấy các em học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt, các em yêu thích môn học này hơn cụ thể là các em tích cực, tự
  15. 15/16 giác chuẩn bị bài nói và có hứng thú hơn với tiết học luyện nói. Các em đã có sự xúc động trước cảnh đẹp của quê hương đất nước, lịch sử và con người. Đã có những ý kiến cá nhân, nêu những điều các em suy nghĩ chứ không bị áp đặt như trước nữa. Học sinh biết cách hoạt động cá nhân khi giáo viên yêu cầu. Các kĩ năng: kĩ năng thuyết trình sử dụng và tìm kiếm thông tin … sẽ được hình thành khi các em tham gia hoạt động khởi động trong tiết luyện nói. Kết quả trước và sau khi thực hiện SKKN như sau : Trước khi chưa thực hiện: Đầu năm học 2022 – 2023 - Trong các giờ luyện nói : Lớp Sĩ số Tham gia thực hành luyện nói Chủ động chuẩn bị bài 7A 39 2 12 7B 44 3 15 Sau khi thực hiện : học kì 2 năm học 2022-2023 Lớp Sĩ số Tham gia thực hành luyện nói Chủ động chuẩn bị bài 7A 39 21 28 7B 44 29 39 Khi áp dụng các trò chơi trong giờ luyện nói cũng giúp ban cán sự lớp thao tác công việc quản lớp, vận hành trò chơi thành thạo hơn. Học sinh tự tin trình bày ý kiến của mình. Có một số em còn rụt rè nhưng cũng đã bước đầu trình bày ngắn gọn ý kiến của bản thân, làm quen với kĩ năng nói trước đám đông. Mà kĩ năng nếu và phát biểu ý kiến là kĩ năng cơ bản trong đời sống xã hội hiện nay giúp các em thêm hành trang tốt trên con đường vào đời. c) Khả năng áp dụng của sáng kiến Sau khi áp dụng đề tài này vào các tiết dạy, tôi đã thấy một kết quả khả quan thực sự: Học sinh tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng tiết luyện nói, các em chủ động soạn bài, hứng thú hơn trong giờ học và đặc biệt tạo cho các em cảm giác thoải mái sau những tiết học căng thẳng khác. Tuy nhiên để đề tài này đạt được hiệu quả cao nhất trong việc giảng dạy đòi hỏi người giáo viên phải tích cực, sáng tạo trong dạy học, đổi mới tư duy dạy học là việc làm rất cần thiết trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng dạy và học. Sáng kiến này có thể
  16. 16/16 áp dụng ở tất cả các trường học trên toàn quốc chỉ cần giáo viên chuẩn bị tốt khâu dặn dò học sinh và thực hành học sinh luyện tập. III. PHẦN KẾT LUẬN 1. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng sáng kiến Trước tình hình các em học sinh không ham thích học văn việc gây hứng thú trong giờ học ngữ văn là rất quan trọng. Để đạt được kết quả như mong đợi cần phải có thời gian, trước mắt khi áp dụng chương trình, sách giáo khoa mới đòi hỏi người giáo viên ngoài việc nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo còn phải uy nghĩ tìm biện pháp thích hợp cho từng tiết dạy lấy phương châm: “Lấy học sinh làm trung tâm” Việc gây hứng thú trong giờ dạy bước đầu cả giáo viên và học sinh đều phải làm việc tích cực, thời gian chuẩn bị bài nhiều hơn, học sinh phải hoạt động trong giờ học, sẽ có những thiếu sót, vấp váp, e ngại lúc mới áp dụng khi học sinh phải đi từ cách học thụ động nghe giảng, ghi chép sang cách học tích cực phát biểu ý kiến, tham gia thảo luận, dự các trò chơi. Tuy nhiên với bản tính ham học hỏi, thích thú với việc được tôn trọng, hấp dẫn bởi vừa học vừa chơi. Bên cạnh sự nhiệt tình tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Người viết tin tưởng rằng những biện pháp đã nêu sẽ thành công tốt đẹp trong giờ dạy ngữ văn THCS. 2. Những kiến nghị, đề xuất điều kiện để triển khai, ứng dụng sáng kiến vào thực tiễn Sau khi áp dụng đề tài này vào các tiết dạy, tôi đã thấy một kết quả khả quan thực sự: Học sinh có hứng thú hơn trong tiết luyện nói, không còn thụ động chuản bị bài lên đọc như trước nữa, đặc biệt tạo cho các em cảm giác thoải mái sau những tiết học căng thẳng khác. Tuy nhiên để đề tài này đạt được hiệu quả cao nhất trong việc giảng dạy ở các trường học thì cần phải có sự phối kết hợp của tất cả giáo viên văn cùng áp dụng tất cả các khối. Và cần có nhiều chuyên đề của chuyên môn đi sâu nghiên cứu hơn nữa về tiết luyện nói để cải thiệt tiết luyện nói ngày một gây hứng thú hơn với học sinh. Do khả năng bản thân có hạn nên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong quí đồng nghiệp đóng góp ý kiến để sáng kiến được áp dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy.
  17. 17/16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2