intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp thu hút và tạo hứng thú cho học sinh khi học phần đọc - hiểu văn bản môn Ngữ văn lớp 9

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:46

26
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm THCS "Một số giải pháp thu hút và tạo hứng thú cho học sinh khi học phần đọc - hiểu văn bản môn Ngữ văn lớp 9" giúp học sinh mạnh dạn, tự tin trong học tập và tạo cho các em hứng thú trong học tập. Việc quan tâm đúng mức trong rèn luyện các kỹ năng Nghe - Nói - Đọc - Viết giúp các em khắc sâu kiến thức và hoàn thiện các kỹ năng sống cần thiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp thu hút và tạo hứng thú cho học sinh khi học phần đọc - hiểu văn bản môn Ngữ văn lớp 9

  1. PHÒNG GD & ĐT THÀNH PHỐ VINH --------------- -------------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: ĐỀ TÀI: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH KHI HỌC PHẦN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN MÔN NGỮ VĂN LỚP 9 Năm học: 2021 – 2022 --------------- -------------- 1
  2. 2
  3. DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT GV : Giáo viên HS : Học sinh GDPT : Giáo dục phổ thông GD & ĐT : Giáo dục và Đào tạo PPDH : Phương pháp dạy học Nxb : Nhà xuất bản TV : Tiếng Việt VBTS : Văn bản tự sự SGK : Sách giáo khoa SGV : Sách giáo viên THCS : Trung học cơ sở DHTDA : Dạy học theo dự án SĐTD : Sơ đồ tư duy 3
  4. MỤC LỤC PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ.....................................................................................1 PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU...............................................................2 1. Cơ sở lý luận......................................................................................................2 2. Cơ sở thực tiễn...................................................................................................2 2.1. Thống kê hệ thống chủ đề văn bản đọc hiểu trong chương trình Ngữ văn 9. 2 2.2. Về phía giáo viên............................................................................................3 2.3. Về phía học sinh :...........................................................................................4 2.4. Nguyên nhân...................................................................................................5 3. Một số giải pháp thu hút và tạo hứng thú cho học sinh khi học phần đọc – hiểu văn bản môn Ngữ văn lớp 9..................................................................................6 3.1. Tạo không khí thoải mái, thân thiện, tích cực khi bước vào giờ học.............6 3.2. Thay đổi hình thức, phương pháp và kĩ thuật dạy học...................................7 3.2.1. Hướng dẫn học sinh tạo sơ đồ tư duy cho bài học......................................7 3.2.2. Tạo sự yêu thích môn học thông qua các dự án học tập:.............................9 3.2.3. Tổ chức các trò chơi học tập phù hợp trong tiết học:.................................11 3.3. Tăng cường giới thiệu sách và khơi dậy thói quen đọc sách, rèn luyện kỹ năng tự học cho HS:.......................................................................................................12 4. Kết quả, tác dụng sau khi áp dụng đề tài...........................................................13 PHẦN III. KẾT LUẬN.........................................................................................13 1. Kết luận.............................................................................................................13 2. Kiến nghị, đề xuất:............................................................................................13 TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................15 PHỤ LỤC.............................................................................................................. 4
  5. ĐỀ TÀI: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH KHI HỌC PHẦN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN MÔN NGỮ VĂN LỚP 9 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, đặt ra những yêu cầu mới về phát triển con người và nhân lực. Do đó, đổi mới giáo dục trong đó có đổi mới chương trình môn Ngữ văn trở thành nhu cầu cấp thiết và xu thế mang tính thời đại. Dạy học theo hướng truyền thụ kiến thức cũ gây ra sự nhàm chán đối với học sinh nên sẽ không đem lại hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục của bộ môn. Do đó, việc áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học hiện đại, đổi mới theo hướng phát triển phẩm chất năng lực cho người học trong các chủ đề ở chương trình GDPT 2018 trở thành rất cần thiết, quan trọng. Việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực trong môn Ngữ văn 9 sẽ khơi gợi sự hứng thú của học sinh làm cho giờ học diễn ra sôi nổi hơn, học sinh ham học hơn, không còn cảm thấy mệt mỏi, nặng nề khi đến giờ học Ngữ văn. Tăng cường các hoạt động thực hành trải nghiệm, các kĩ năng cho HS. Phát huy tư duy sáng tạo của HS trong môn học Ngữ văn, đáp ứng được yêu cầu đổi mới của chương trình Giáo dục phổ thông. Mặt khác việc áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học hiện đại, đổi mới theo hướng phát triển phẩm chất năng lực cho người học sẽ thúc đẩy việc dạy học phân hóa học sinh. Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 9, tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao giáo viên phải khơi dậy được hứng thú học tập của học sinh. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh. Thực tế cũng đã chứng minh rằng, khi giáo viên khơi gợi được hứng thú học tập thì hiệu quả giờ lên lớp được nâng cao, học sinh tích cực chủ động trong học tập. Trong phạm vi của Sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin đề cập đến Một số giải pháp thu hút và tạo hứng thú cho học sinh khi học phần đọc – hiểu văn bản môn Ngữ văn lớp 9 . Đó cũng là hướng tiếp cận quan điểm dạy học mới (Đổi mới phương pháp) giúp HS mạnh dạn, tự tin trong học tập và tạo cho các em hứng thú trong học tập. Việc quan tâm đúng mức trong rèn luyện các kỹ năng Nghe - Nói - Đọc -Viết giúp các em khắc sâu kiến thức và hoàn thiện các kỹ năng sống cần thiết. 1
  6. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lý luận Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông hứng thú có nghĩa là : Hứng thú (Danh từ) : Sự ham thích. Hứng thú (Tính từ) : Cảm thấy hứng thú, hào hứng (với công việc) Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, làm cho học sinh ham thích môn học. Có thể nói cốt lõi của đổi mới Dạy và Học là hướng tới hoạt động học tập chủ động , chống thói quen thụ động trong học tập của học sinh. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua ) cũng đã chỉ rõ: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực , tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn. Tính tích cực trong học tập liên quan trước hết đến động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Tính tích cực hay hứng thú học tập của học sinh chính là sự ham thích, sự hào hứng trong công việc học tập bộ môn Ngữ văn. Nó được biểu hiện ở chỗ HS tích cực lĩnh hội tri thức văn học. Các em thông hiểu, ghi nhớ những điều đã nắm qua hoạt động nỗ lực của bản thân. HS thích phát biểu ý kiến, chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới. Phương pháp giảng dạy tích cực có mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong giờ học. Người giáo viên là người hướng dẫn học sinh chủ động trong quá trình tiếp nhận kiến thức, rèn luyện toàn diện về tư duy, tình cảm, tâm hồn. Song việc thực hiện điều đó không dễ dàng trong quá trình dạy học. Đặc biệt môn Ngữ văn lại càng gặp khó khăn trong việc phát huy tính tích cực của học sinh. Học sinh thường thụ động không thích học văn, không cảm thấy hứng thú trong giờ học. Khi con người mất hứng thú học tập thì sẽ trở nên sợ học, các em cảm thấy mình lẹt đẹt trong lớp. Thực tế xã hội cho thấy người thất học là người không biết cách học. Tình hình đó đòi hỏi người giáo viên phải suy nghĩ, tìm tòi những biện pháp làm cho giờ học Ngữ văn lôi cuốn học sinh, phát huy được tính tích cực chủ động trong người học hướng đến hiệu quả tối đa của giờ học. Hướng tới dạy cho các em biết cách học. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thống kê hệ thống chủ đề văn bản đọc hiểu trong chương trình Ngữ văn 9 Trong chương trình Ngữ văn 9, các văn bản đọc hiểu được xếp theo các chủ đề sau: 2
  7. - Truyện văn xuôi và truyện thơ trung đại Việt Nam. - Truyện Việt Nam sau 1945. - Truyện nước ngoài. - Thơ trữ tình Việt Nam sau 1945. - Thơ trữ tình hiện đại thế giới - Tác phẩm Nghị luận Việt Nam và nước ngoài. - Văn bản nhật dụng về hội nhập và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam; về quyền sống; bảo vệ hòa bình chống chiến tranh - Kịch Việt Nam - Chương trình địa phương - Tổng kết, kiểm tra. Qua thống kê trên chúng ta thấy hệ thống các văn bản trong phân môn Văn thuộc chương trình Ngữ văn lớp 9 có chủ đề, thể loại phong phú. Hệ thống các văn bản đã đáp ứng theo các yêu cầu về tính tích hợp cả trục ngang và trục dọc, phát huy tính tích cực của học sinh. 2.2. Về phía giáo viên Hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phương pháp dạy học mới. Hàng năm các thầy cô được tập huấn thay sách, thảo luận ưu nhược điểm của sách giáo khoa mới. Trong giảng dạy người thầy đã phát huy được tính tính cực chủ động trong việc dạy học. Học sinh được bày tỏ ý kiến tình cảm, cách hiểu của mình về bộ môn. được thực hành giao tiếp nhiều hơn. Với tinh thần mới, giờ Ngữ văn không phải là giờ truyền thụ kiến thức một chiều, mà là giờ khơi gợi khuyến khích học sinh tìm ra con đường đi tới kiến thức. Giáo viên cũng đã phân biệt được phương pháp dạy học các phân môn theo đặc trưng bộ môn Ngữ văn (Tiếng Việt - Văn - Tập làm văn). Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện quan điểm tích hợp trong các tiết dạy: Tích hợp ngang (tính tích hợp của ba phân môn Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn) và Tích hợp dọc (Tích hợp giữa các bài, các lớp trong cùng một phân môn). Bên cạnh đó là việc tích hợp vấn đề môi trường tự nhiên và xã hội một cách phù hợp trong từng tiết dạy. Qua việc tích hợp và lồng ghép, cộng với liên hệ thực tế để giáo dục học sinh đã đem lại cho bộ môn Ngữ văn có những tín hiệu khởi sắc. Đó là phương pháp Dạy - Học mới đang được tiếp cận một cách tích cực. Bên cạnh đó, tài năng sư phạm của người thầy đã được dành nhiều hơn cho việc hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu cảm thụ tác phẩm. Trong từng tiết dạy giáo viên đã mạnh dạn phối hợp cùng học sinh tiếp cận, phân tích, tổng hợp và hình thành những tri thức cần nắm. Giáo viên nắm rõ được quan điểm tích hợp của sách giáo khoa, có nhiều cố gắng rèn luyện kỹ năng Nghe - Đọc – Nói – Viết cho học sinh. Học sinh không chỉ nắm kiến thức mà quan trọng hơn là biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống như : Nói, viết Tiếng Việt thành thạo, biết tạo lập văn bản, biết 3
  8. sáng tác thơ, sáng tác một số truyện ngắn, ... Chính những chuyển biến này đã giúp giáo viên nhanh chóng tiếp cận và thực hiện thành công những đổi mới trong phương pháp Dạy - Học Ngữ văn. Tuy nhiên, vẫn còn có một số giáo viên còn làm việc quá nhiều, trong một tiết dạy đưa ra khá nhiều thông tin. Điều đó dễ đưa các em vào thế bị động ghi nhớ. không tạo điều kiện cho các em độc lập suy nghĩ, sáng tạo. Từ đó dẫn đến sau này các em đứng trước nhiều vấn đề mới các em bỡ ngỡ, bị động, lúng túng và không có đủ khả năng bản lĩnh để giải quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Một số tiết dạy vẫn còn rập khuôn theo trình tự 5 bước lên lớp. Nó biến giờ học thiếu sự phóng khoáng, giờ học nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hào hứng của học sinh. Cá biệt còn một số giáo viên chỉ dùng một phương pháp dạy chủ yếu là thuyết trình, không có sự linh hoạt trong việc kết hợp các phương pháp. Cũng như việc sử dụng các giáo án mẫu, thiết kế bài giảng mẫu một cách máy móc làm mất đi sự cảm thụ sáng tạo riêng của cá nhân. 2.3. Về phía học sinh : Đối với học sinh lớp 9, các em học sinh phần nào ý thức được Ngữ văn là bộ môn chính quyết định chất lượng học tập. Các em luôn cố gắng để đạt được điểm trung bình, để không bị khống chế trong xếp loại học lực, do đó các giờ học nhìn chung đã có một không khí mới, hào hứng sôi nổi. Học sinh được giao việc, tức là được chủ động tham gia vào các hoạt động trong giờ học với tư cách là một chủ thể tích cực. Học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên, không khí tiết học đôi khi ồn ào nhưng học sinh rất hào hứng đón nhận, giảm thái độ đối phó, miễn cưỡng bởi các em đã tìm được sự hứng thú cho mình. Tuy nhiên, số học sinh say mê học văn có tăng nhưng không nhiều. Chất lượng bộ môn hàng năm được tăng cao nhưng tính số lượng các em đạt điểm trung bình bộ môn Ngữ văn trên 8.0 trong một lớp hay trong một trường cũng còn rất khiêm tốn. Thực tế còn cho thấy, khi khảo sát sâu việc học tập môn Ngữ văn của học sinh thì còn có hiện tượng học sinh học theo kiểu đối phó. Kiến thức thực tế về văn học của các em còn nghèo nàn, phương pháp học tập còn lúng túng. Do đó kiến thức văn học các em không nhớ được; Kiến thức Tiếng Việt các em dùng từ ngữ trong giao tiếp một cách thiếu chính xác. Đặc biệt các bài Tập làm văn thường mắc lỗi chính tả, câu văn viết chưa đúng ngữ pháp, cách diễn đạt vụng về, sáo mòn, lệ thuộc vào sách tham khảo. Nghĩa là các em chưa có tính sáng tạo trong việc tạo lập văn bản theo yêu cầu... Cá nhân tôi đã thử điều tra học sinh theo 3 câu hỏi nhỏ sau để thấy rõ thực trạng học tập Ngữ văn và tâm trạng khi các em học văn tại Trường THCS Cửa Nam: + Em có thấy môn văn cần thiết cho cuộc sống và nghề nghiệp sau này của mình không ? 4
  9. + Em có thích học văn không ? + Em hãy nêu môt số yêu cầu của cá nhân em về tiết dạy của thầy (cô)? Kết quả điều tra cho thấy các em đã ý thức khá tốt về vai trò của bộ môn, nhiều em trả lời rất thích học văn cũng như trình bày khá thẳng thắn những suy nghĩ khi tham gia học tập các bộ môn trong đó có môn Ngữ văn và các giờ đọc hiểu văn bản là phải làm sao để khơi gợi hứng thú cho các em khi tham gia học tập. Các ý kiến của học sinh thật đáng để suy nghĩ, đáng để mỗi giáo viên dạy Ngữ văn trăn trở, suy ngẫm về vị trí, tầm quan trọng của môn Văn và năng lực dạy Ngữ văn của mình. 2.4. Nguyên nhân Qua phân tích, khảo sát thực trạng cho thấy chất lượng, không khí học văn trên lớp nhiều tiết tẻ nhạt, thiếu hấp dẫn khi giáo viên giảng dạy nhợt nhạt, không có hồn; học sinh mệt mỏi, thụ động. không hứng thú không náo nức chờ đợi giờ học văn. Điều này do các nguyên nhân sau : Thứ nhất, số giáo viên dạy hay, dạy giỏi chưa nhiều. Dạy Ngữ văn cũng cần đòi hỏi phải có năng khiếu. Giáo viên dạy không hay, không say mê, nhiệt tình thì khó mà làm cho học trò thích môn văn. Một số tiết dạy bình thường (không phải tiết dạy mẫu, dạy thực tập…) giáo viên lại quay về phương pháp cũ, tức là chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức, thậm chí đọc chép cho học sinh. Ở những tiết dạy này, nhất là đối với những lớp có nhiều học sinh yếu kém, nhiều khi GV không chuẩn bị kỹ càng, chỉ tái hiện lại kiến thức nên GV thường ghi câu chữ, hình ảnh, biện pháp tu từ sau đó đánh mũi tên sang ngang ghi tác dụng ý nghĩa ... một cách máy móc giản đơn. Điều đó vừa làm mất đi tính toàn vẹn của tác phẩm vừa gây khó khăn cho học sinh khi học bài ở nhà. Thao tác vào bài (giới thiệu bài) của giáo viên thường là nhắc lại tên bài học trước, nêu tên bài học hôm nay. Kiểu dẫn dắt đơn điệu này không kích thích được hứng thú học tập của học sinh. Ngoài ra, một số tiết dạy thao tác tìm hiểu bài còn hạn chế là câu hỏi quá dễ hoặc quá khó, giáo viên diễn giảng vụn vặt sau câu trả lời của học sinh, bỏ qua chỗ diễn giảng cao trào để bổ sung nâng cao, mở rộng cách hiểu cho học sinh. Nguyên nhân thứ hai là đa số học sinh, cha mẹ học sinh đầu tư vào các môn khoa học tự nhiên và ngoại ngữ, xem nhẹ môn Ngữ văn. Điều này dễ nhận thấy ở việc học sinh ồ ạt đăng kí học bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn khoa học tự nhiên và ngoại ngữ. Hoặc ở việc tìm thầy phụ đạo thêm và ở việc học sinh học bài ở nhà thì HS và gia đình cũng chú trọng nhiều hơn đến các môn khoa học tự nhiên, cho các môn Khoa học xã hội là môn phụ, môn đọc thuộc lòng …. Nguyên nhân thứ ba là cơ sở vật chất, tài liệu minh họa, đồ dùng dạy học để phục vụ giảng dạy và bổ sung kiến thức học tập môn Ngữ văn quá nghèo nàn, đơn điệu. Chủ yếu là một số tranh ảnh và sách tham khảo. Từ đó dẫn đến việc giáo viên thì dạy chay trong các giờ lên lớp, còn học sinh thì lúng túng không biết chọn lựa sách nào để đọc, để tham khảo cho phù hợp…Ngoài ra các phương tiện nghe, nhìn 5
  10. để phục vụ cho Dạy và Học hầu như không có. Những hoạt động ngoại khóa để khắc sâu, mở rộng kiến thức, gây hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh rất ít được tổ chức, vì không có kinh phí tổ chức, vì tốn kém mất nhiều thời gian và công sức. 3. Một số giải pháp thu hút và tạo hứng thú cho học sinh khi học phần đọc – hiểu văn bản môn Ngữ văn lớp 9 3.1. Tạo không khí thoải mái, thân thiện, tích cực khi bước vào giờ học. Như đã nói ở trên, tâm lí thoải mái, tích cực sẽ đem lại hiệu quả cao cho việc học tập. Để thu hút và tạo hứng thú cho học sinh khi học phần đọc – hiểu văn bản môn Ngữ văn lớp 9, trước hết giáo viên phải chuẩn bị nhiều phương diện cho một giờ lên lớp. Nắm vững bài dạy, xác định kiến thức trọng tâm, hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, tìm hiểu thực tế lớp dạy trong từng tiết học…Giáo viên phải chú ý tạo tâm thế học tập tốt cho học sinh. Giúp học sinh nhận thức được lợi ích của bộ môn như tạo sự phát triển trí tuệ, tư duy và tâm hồn, tình cảm cho người học. Tác dụng này phải được giáo viên nhấn mạnh trong những tình huống phù hợp. Khi chú ý đến điều này giáo viên sẽ khắc phục được thái độ thờ ơ, lãnh đạm, thụ động của học sinh; dần dần học sinh sẽ tích cực chủ động hơn trong việc chuẩn bị bài, lĩnh hội kiến thức, vận dụng kiến thức Ngữ văn trong học tập và đời sống. Như vậy, việc chuẩn bị tâm thế trong giờ học Ngữ văn rất quan trọng đối với việc tạo hứng thú cho học sinh. Nhưng khơi gợi hứng thú cho học sinh có thành công hay không chủ yếu phụ thuộc vào các biện pháp giáo viên thực hiện trên lớp trong giờ dạy cụ thể. Muốn vậy giáo viên phải phối hợp nhiều biện pháp để tạo nên những giờ học sinh động lôi cuốn học sinh. Cụ thể như: + Quy trình dạy học hợp lí với sự chủ động bình tĩnh, một giờ dạy lôi cuốn học sinh trước hết ở nghệ thuật dẫn dắt, hướng dẫn học sinh. Trên cơ sở nắm vững kiến thức trọng tâm của bài học, giáo viên chú ý đến tính vừa sức, điều tiết thích hợp để tránh nhàm chán vì sự lặp lại hoặc chán nản vì kiến thức khó. Đối với những bài mà các em đã học giáo viên phải huy động kiến thức cũ, củng cố kiến thức cũ, làm cơ sở hình thành kiến thức mới. + Đối với những bài kiến thức hoàn toàn mới, giáo viên hướng dẫn học sinh từ dễ đến khó, mạnh dạn tinh giản kiến thức, tránh ôm đồm quá tải làm học sinh không hứng thú vì cảm thấy bài dài và khó. + Tăng cường giao tiếp trong giờ học là một biện pháp cơ bản để khơi gợi hứng thú học tập. Thông qua giao tiếp học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức, giờ học sinh động hơn. Để đạt điều này giáo viên phải tạo những tình huống có vấn đề để gợi mở suy nghĩ của học sinh, học sinh sẽ cố gắng để học sinh tranh luận, thảo luận bảo vệ ý kiến của mình khi có những ý kiến trái ngược nhau. Lưu ý là phải tạo điều kiện để các em lựa chọn cách hiểu và hướng dẫn đưa ý kiến đúng một cách kịp thời, phù hợp. Hoạt động giao tiếp trong giờ học được thực hiện từ khâu tìm 6
  11. hiểu bài, hình thành kiến thức mới và luyện tập thực hành. Phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và trò.... Tổ chức trò chơi cũng chính là hoạt động giao tiếp nhằm khơi sợi hứng thú học tập của học sinh. Có thế tổ chức trong tiết dạy với hình thức thi giữa các nhóm nhỏ với nhau để làm bài tập củng cố kiến thức. Hoặc kết hợp với những đề tài cụ thể để lôi cuốn học sinh vào trò chơi, có động viên khen thưởng kịp thời. + Quan tâm tâm tư tình cảm, cảm xúc của HS từ việc hỏi thăm bằng các câu hỏi. + Động viên, khen - chê đúng mực và ghi nhận sự nỗ lực, cố gắng của HS bằng các điểm thưởng và lời khen ngợi. + Kích thích sự sáng tạo, tư duy bằng cách đưa ra các kênh hình, kênh chữ... Giáo viên thay đổi các ví dụ minh họa trong giờ học cũng là một biện pháp tạo ra được hứng thú học tập của học sinh. Trong những bài mà ví dụ khô khan, xa lạ, khó hiểu… giáo viên nên chủ động nêu các ví dụ gần gũi với cuộc sống, với tình hình thời sự và đặc điểm của lứa tuổi học sinh. Chính các ví dụ này làm cho tiết học bớt khô khan cứng nhắc; vui hơn, khơi gợi hứng thú học tập của học sinh hơn. 3.2. Thay đổi hình thức, phương pháp và kĩ thuật dạy học 3.2.1. Hướng dẫn học sinh tạo sơ đồ tư duy cho bài học. Có thể nói rằng đổi mới PPDH, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; xem đây là một nhiệm vụ vừa bức thiết lại vừa trọng tâm xuyên suốt cả quá trình đổi mới. Đặc biệt với bộ môn Ngữ văn, là môn học giúp học sinh hoàn thiện nhân cách về cách ứng nhân xử thế, xúc cảm với cuộc đời và hơn hết là vai trò sưởi ấm trái tim và làm cho mỗi con người chúng ta càng xích lại gần nhau, sống vì nhau với tình cảm yêu thương nhất. Do đó, môn Ngữ văn cũng bắt nhịp với thời cuộc trong sự nghiệp đổi mới chung về các phương pháp dạy học tích cực - Khái niệm, cách tiến hành, điều kiện sử dụng Sử dụng Sơ đồ tư duy (SĐTD) trong dạy học Ngữ văn là một trong những PPDH hiện đại hữu hiệu trong quá trình dạy học hiện nay. SĐTD kế thừa, mở rộng hình thức ghi chép, sử dụng bảng biểu, sơ đồ nhưng ở mức độ cao hơn. Nó là một công cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony Buzan (người Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến rộng khắp trên thế giới.. Nó giúp học sinh dễ ghi nhớ, phát triển nhận thức, khả năng tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo... Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả, biết liên hệ kiến thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn. Bởi vậy, rèn luyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong quá trình dạy học sẽ giúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến 7
  12. thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Cấu tạo chung của một SĐTD bao gồm: Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề. Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề. Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý chính. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn vị kiến thức nào đó. Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây: Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được) Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm. Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ. Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp bao gồm các hoạt động: Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo viên. Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. - Ví dụ 1 : Khi dạy tác phẩm: Truyện Kiều của Nguyễn Du (Ngữ văn 9, tập 1) hay văn bản: “Chiếc lược ngà” (Ngữ văn 9, tập 1)... Bước 1: Giao nhiệm vụ để HS khám phá: Tác giả, tóm tắt tác phẩm (ý chính), nhân vật, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Gv hướng dẫn cho HS 8
  13. Bước 2: HS khám phá bằng hình thức chia nhóm, vẽ học sinh vẽ sơ đồ tư duy hoàn thành nội dung trên giấy A0 Bước 3: Nhóm trình bày Bước 4: Gv nhận xét, chốt ý. Như vậy chúng ta có thể khẳng định việc sử dụng SĐTD trong dạy học Ngữ văn sẽ giúp học sinh học tập một cách tích cực. HS sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. SĐTD là một công cụ có tính khả thi cao. Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm SĐTD (Mind Map). Tóm lại, việc sử dụng SĐTD sẽ giúp HS tăng sự hứng thú trong học tập. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em. Vừa tiết kiệm thời gian trong các tiết học rất nhiều, vừa giúp HS nhìn thấy được bức tranh tổng thể, Ghi nhớ tốt hơn. Đồng thời giúp HS thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em. 3.2.2. Tạo sự yêu thích môn học thông qua các dự án học tập: - Khái niệm, cách tiến hành, điều kiện sử dụng Dạy học theo dự án (DHTDA) là một trong những phương pháp dạy học góp phần đáp ứng mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, khắc phục được những hạn chế nhất định của phương pháp dạy học truyền thống. Dạy học theo dự án giúp học sinh năng động, tự lực, chủ động, tích cực trong việc chiếm lĩnh tri thức, có sự gắn kết giữa lí thuyết và thực tiễn; tạo môi trường cho sự hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau trong học tập cho học sinh và hướng tới sự phát triển toàn diện. Đặc trưng cơ bản của dạy học dự án khẳng định Người học là trung tâm của quá trình dạy học. Dự án tập trung vào những mục tiêu học tập quan trọng gắn với các chuẩn. Dự án được định hướng theo bộ câu hỏi khung chương trình. Dự án đòi hỏi các hình thức đánh giá đa dạng và thường xuyên, đồng thời Dự án có tính liên hệ với thực tế. Người học thể hiện sự hiểu biết của mình thông qua sản phẩm và quá trình thực hiện còn công nghệ hiện đại hỗ trợ và thúc đẩy việc học của người học. Trong Dạy học theo dự án thì Kĩ năng tư duy là yếu tố không thể thiếu trong phương pháp dạy học dự án Quy trình tổ chức dạy học theo dự án bao gồm 4 công đoạn là chuẩn bị, Thực hiện, Tổng hợp và Đánh giá Dự án. Trong mỗi công đoạn thì vai trò của GV là người hướng dẫn, xây dựng bộ câu hỏi định hướng, theo dõi và đánh giá Dự án học tâp. HS là chủ thể của họat động, từ làm việc nhóm để xây dựng dự án; Xây dựng kế hoạch dự án (xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm). Chuẩn bị các nguồn thông tin đáng tin cậy để chuẩn bị thực hiện dự án. Tiến hành giới thiệu sản phẩm. Tự đánh giá sản phẩm dự án của nhóm. Cũng như đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm khác theo tiêu chí đã đưa ra. 9
  14. Phương pháp Dạy học theo dự án có ưu điểm là gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội; Kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học; Phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm; Phát triển khả năng sáng tạo; Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp; Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn; Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc và Phát triển năng lực đánh giá của người học. Tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm là DHDA không phù hợp trong việc truyền thụ tri thức lý thuyết mang tính trừu tượng, hệ thống cũng như rèn luyện hệ thống kỹ năng cơ bản. DHTDA đòi hỏi nhiều thời gian, vì vậy DHDA không thay thế cho PP thuyết trình và luyện tập, mà là hình thức dạy học bổ sung cần thiết cho các PPDH truyền thống. Mặt khác DHTDA đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp nên không thể sử dụng thường xuyên, liên tục được nhiều trong các tiết dạy. Đòi hỏi GV phải lựa chọn tiết dạy phù hợp để thực hiện - Ví dụ 1 : Khi dạy văn bản: Đồng chí (Ngữ văn 9, tập 1) và văn bản: Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Ngữ văn 9, tập 1) + Tuần 4: Giáo viên khảo sát dự án + Tuần 5: Giới thiệu và triển khai việc thực hiện dự án (khoảng 15 phút). + Tuần 6: Tiến hành dự án với các yêu cầu: Chia học sinh thành 3 nhóm Nhóm 1: Chọn lọc và viết bài thuyết trình, hùng biện về hình tượng người lính (trong kháng chiến, trong thời bình, trong cuộc chiến chống covid). Nhóm 2: Vẽ và sưu tầm thêm các hình ảnh về người lính (trong kháng chiến, trong thời bình, trong cuộc chiến chống covid). Nhóm 3: Sáng tác và hát những bài hát về người lính (trong kháng chiến, trong thời bình, trong cuộc chiến chống covid) + Tuần 7,8: HS trình bày sản phẩm dự án (lồng ghép phần Giáo dục An ninh Quốc phòng) - Ví dụ 2: Khi dạy văn bản: “Chuyện người con gái Nam Xương” (Ngữ văn 9, tập 1) Bước 1: Giao nhiệm vụ để HS khám phá: HS ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng các bức tranh theo diễn biến câu chuyện. Gv gợi ý cho HS (Sử dụng ứng dụng trình chiếu PowerPoint) Bước 2: HS khám phá bằng hình thức chia nhóm để hoàn thành nhiệm vụ. Bước 3: Nhóm trình chiếu và kể tóm tắt chuyện theo cách tư duy của mình. Bước 4: Gv nhận xét, chốt ý. - Ví dụ 3: Khi dạy văn bản: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” – Ngữ văn 9 tập 1. Bước 1: Khởi động. Gv cho HS xem 1 đoạn video (2-3 phút) “Tôi người lái xe” sau đó đặt câu hỏi, dẫn dắt tiếp vào bài để học sinh bước đầu hình dung về tác phẩm 10
  15. Bước 2: Gv hướng dẫn HS thực hiện các nhiệm vụ. Bước 3: HS thực hiện các nhiệm vụ học tập. Bước 4: Gv nhận xét, chốt ý. 3.2.3. Tổ chức các trò chơi học tập phù hợp trong tiết học: - Khái niệm, cách tiến hành, điều kiện sử dụng Trò chơi học tập Là trò chơi có nội dung gắn với hoạt động học tập của học sinh, thông qua trò chơi giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức mới hoặc củng cố kiến thức, luyện tập kĩ năng. Việc tổ chức trò chơi học tập góp phần hình thành và phát triển năng lực cho học sinh về: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hoạt động tương tác giữa các cá nhân trong một đội chơi. Kỹ năng trao đổi thông tin, trình bày và tiếp nhận thông tin. Kỹ năng tìm kiếm thông tin. Kỹ năng làm việc có trách nhiệm trong môi trường hợp tác. Khả năng phối hợp với người khác để cùng hoàn thành công việc. Biết kết hợp sử dụng thành quả của người khác để hoàn thành công việc của mình. Có ý thức và có khả năng tổ chức người khác cùng hợp tác làm việc. Về Thái độ, việc tổ chức trò chơi học tập giúp HS có ý thức hợp tác trong công việc, Ý thức tự chịu trách nhiệm trong nhóm; Ý thức tôn trọng thành quả lao động của người khác cũng như ý thức cùng người khác hướng tới một mục đích hoạt động chung. Ích lợi của việc tổ chức trò chơi học tập: Trò chơi sẽ làm thay đổi không khí học tập của lớp, làm cho không khí trở nên dễ chịu, thoải mái hơn. Học sinh sẽ thấy vui hơn, cởi mở hơn, thư thái và khoẻ hơn sau một quá trình tập trung cao vào việc tiếp nhận kiến thức. Bên cạnh đó trò chơi học tập còn tạo cho các em khả năng quan sát tốt, tinh thần đoàn kết, giao lưu trong tổ, lớp tạo tính chủ động, tự tin, mạnh dạn, sáng tạo cho các em. Mặt khác trò chơi học tập là con đường thuận lợi để học sinh khắc sâu kiến thức khi học. Như vậy, trò chơi nói chung và trò chơi học tập nói riêng giúp học sinh phát triển toàn diện về: Đức, trí, thể, mĩ. - Ví dụ: Khi dạy tác phẩm: Truyện Kiều của Nguyễn Du (Ngữ văn 9, tập 1) hay khi dạy văn bản: “Chiếc lược ngà” (Ngữ văn 9, tập 1). Bước 1: Giao nhiệm vụ: GV chia Hs thành các đội, phổ biến quy tắc trò chơi “Ai nhanh hơn” (Khi dạy tác phẩm: “Truyện Kiều của Nguyễn Du”) hoặc trò chơi “Vượt chướng ngại vật” (Khi dạy văn bản: “Chiếc lược ngà”). Bước 2: Gv hướng dẫn HS thực hiện các nhiệm vụ : GV đọc một số câu hay một đoạn ngắn (trong số các đoạn trích học) phát hiện câu, đoạn đó thuộc tác phẩm nào; Hỏi một số câu hỏi phát hiện (Khi dạy tác phẩm: “Truyện Kiều của Nguyễn Du”). GV xây dựng một hệ thống câu hỏi như phần thi “Vượt chướng ngại vật” của chương trình đường lên đỉnh Olympia để tìm ra từ khóa cuối cùng là nhà văn Nguyễn Quang Sáng (Khi dạy văn bản: “Chiếc lược ngà”). 11
  16. Bước 3: : HS thực hiện nhiệm vụ: HS trong đội mình lần lượt trả lời bằng cách ghi lên bảng nội dung trả lời câu hỏi tóm tắt và lần lượt các bạn trong đội nối tiếp thực hiện (yêu cầu nhanh và chính xác) Bước 4: Gv nhận xét, cho điểm. 3.3. Tăng cường giới thiệu sách và khơi dậy thói quen đọc sách, rèn luyện kỹ năng tự học cho HS: - Khái niệm, cách tiến hành, điều kiện sử dụng Đọc sách có vai trò quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc, bởi sách có tầm quan trọng với con đường phát triển của nhân loại. Sách đã ghi chép, lưu truyền mọi tri thức, mọi thành tựu mà nhân loại đã tìm tòi, tích lũy được qua từng giai đoạn, từng thời kì lịch sử. Có thể xem những cuốn sách tốt, sách có gía trị là những cột mốc trên con đường phát triển tri thức của nhân loại. Sách là kho tàng quý báu lưu giữ di sản tinh thần của nhân loại đã thu lượm trong suốt chiều dài lịch sử. Đọc sách là một con đường gom góp, tích lũy nâng cao vốn tri thức hiểu biết của con người. Đối với mỗi con người, đó cũng là cách tốt nhất để tiếp nhận kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm sống. Ngoài ra, đọc sách còn là sự chuẩn bị hành trang để tiến hành cuộc rèn luyện lâu dài trên đường học vấn, tích lũy tri thức nhằm khám phá và chinh phục thế giới quanh ta. Văn hóa đọc là việc vận dụng các nhân tố văn hóa (giá trị, truyền thống, tập quán, thói quen, tâm lý…) vào hoạt động đọc của các chủ thể, là cái văn hóa mà các chủ thể đọc tạo ra trong quá trình đọc có tác dụng cổ vũ, lôi cuốn mọi người tạo lập thói quen, phương pháp lựa chọn và cách đọc sách có văn hóa. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, có một thực trạng rất đáng lo ngại là sự suy giảm của văn hóa đọc bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, như: sự thiếu hụt về thời gian do áp lực ngày càng lớn của công việc, thói quen sử dụng smart phone và các thiết bị điện tử. Muốn nâng cao văn hóa đọc, trước hết phải rèn luyện để hình thành thói quen đọc của mỗi người, từ người lớn đến con trẻ. Trách nhiệm này phải là của toàn xã hội. Tăng cường giới thiệu sách và khơi dậy thói quen đọc sách, rèn luyện kỹ năng tự học cho HS có ý nghĩa vô cùng to lớn. Ngay từ ngày hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nuôi dưỡng khát khao đối với việc đọc sách, hình thành thói quen đọc sách và rồi nó sẽ trở thành nhu cầu thiết yếu, một nhu cầu lành mạnh, nó sẽ cho chúng ta hạnh phúc. Để giới thiệu sách và khơi dậy thói quen đọc sách, rèn luyện kỹ năng tự học cho HS, GV cần tìm hiểu trước ở thư viện trường những tài liệu liên quan đến bài học, những tác phẩm hoàn chỉnh rồi tư vấn, giới thiệu cho HS mượn đọc; cung cấp những đường link, những website chuyên về văn học giúp HS tra cứu, tìm hiểu thông tin; giới thiệu cho các em những quyển sách hay, những tài liệu tham khảo có giá trị ... 12
  17. Ví dụ Khi dạy các văn bản thuộc Truyện Kiều của Nguyễn Du, GV yêu cầu học sinh tìm đọc trọn vẹn tác phẩm, các bài giới thiệu về tác giả, các hình ảnh về các bản dịch ... Khi dạy văn bản Mây và Sóng của Tagor có thể yêu cầu học sinh tìm bản tiếng Anh để đối chiếu .... 4. Kết quả, tác dụng sau khi áp dụng đề tài Hàng năm chất lượng bộ môn Ngữ văn đạt Trung bình từ 95%. Số lượng HSG đạt yêu cầu theo chỉ tiêu đăng kí. Điều quan trọng là học sinh đa số thích học Ngữ văn. Sự yêu thích thế hiện trong ánh mắt và khả năng phát biểu xây dựng bài của các em. Đôi lúc các em biểu hiện trực tiếp bằng lời niềm yêu thích, niềm mơ ước trong tương lai của mình. Kết quả nho nhỏ ấy là niềm vui để giáo viên Ngữ văn chúng ta đam mê với nghiệp Văn đầy sống động. PHẦN III. KẾT LUẬN 1. Kết luận Khơi gợi hứng thủ học tập của học sinh trong giờ học Ngữ văn 9 là hướng đi đúng để phát huy tính tích cực của học sinh nhằm nâng cao hiệu quả của giờ dạy Ngữ văn. Để đạt hiệu quả cao trong một tiết dạy, làm cho học sinh hào hứng với môn học luôn là niềm trăn trờ, suy nghĩ của người giáo viên có lương tâm trách nhiệm nghề nghiệp. Sau một thời gian nghiên cứu và thực hiện các phương pháp khơi gợi hứng thú học tập Ngữ văn cho học sinh, tôi nhận thấy kết quả đã được nâng cao. Học sinh từ chỗ hờ hững đã dần say mê, hào hứng phát biểu ý kiến. Nhiều em đã bộc lộ niềm yêu thích môn học, cảm nhận được việc bồi đắp tâm hồn, rèn kĩ năng giao tiếp của môn học. 2. Kiến nghị, đề xuất: Tuy nhiên, để việc dạy Ngữ văn nói chung, dạy các văn bản đọc hiểu nói riêng đạt hiệu quả. trong quá trình nghiên cứu, thực hiện, tôi thấy cần chú ý một số điểm sau : - Giáo viên cần đầu tư nhiều công sức trong việc lựa chọn phương pháp phù hợp cho từng tiết dạy. Chú ý các đối tượng học sinh để có hướng sử dụng câu hỏi phù hợp. Sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở cho học sinh. Làm sao trong một tiêt dạy phát huy được khả năng tư duy của học sinh, giúp các em thực hành, vận dụng kiên thức tốt sẽ đem lại niềm hào hứng cho các em trong việc học bộ môn Ngữ văn. Tâm lí của học sinh thoải mái hơn vì giờ học văn đã bớt nặng nề, dài dòng. 13
  18. - Khắc phục tình trạng giờ dạy đơn điệu do sử dụng phương pháp chưa đúng. Giáo viên cần đầu tư công sức cho việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học, chọn lựa nội dung sử dụng hợp lí. - GV dạy văn biết tổ chức hướng dẫn đúng cách, phù hợp với trình độ HS thì chắc chắn giờ học văn sẽ không còn là việc bắt buộc, căng thẳng mà sẽ trở thành hoạt động thu hút, kích thích tiềm năng sáng tạo của học sinh. Khi chấm bài cũng như khi đánh giá giáo viên nên chú ý phát hiện sự sáng tạo của cá nhân học sinh. Đây là sản phẩm của chính tư tưởng, kỹ năng của học sinh. Chính điều đó sẽ dần xóa bỏ sự sáo mòn, lệ thuộc vào văn mẫu của học sinh. Làm thế nào để học sinh thích thú học tập môn Ngữ văn? Làm thế nào để học sinh có kiến thức thực sự, có kĩ năng cần thiết. Có lẽ đây là điều trăn trở của rất nhiều giáo viên dạy văn tâm huyết. Với những suy nghĩ của bản thân rất mong được chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm của thầy cô khác về việc khơi gợi hứng thú học Ngữ văn của học sinh lớp 9 từ cách hiểu phương pháp dạy học, tâm thế của người thầy và phương tiện đồ dùng dạy học. Thành phố Vinh, ngày 15 tháng 4 năm 2022. 14
  19. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình Trung học cơ sở, NXB Giáo dục, 2006 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ở Trường THCS môn Ngữ Văn, H.2002. 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, dự án Việt - Bỉ (2010), Dạy và học tích cực, một số phương pháp và kĩ thuật dạy học, Nxb ĐHSP, Hà Nội. 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tài liệu tập huấn Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp trung học phổ thông. 5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Chương trình giáo dục phổ thông, Chương trình tổng thể. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. 7. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 8. Nhiều tác giả (2008), Thiết kế bài dạy Ngữ văn trung học cơ sở, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 9. Nguyễn Khắc Phi (tổng chủ biên, 2002), Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 1,2 Nxb Giáo dục, Hà Nội. 10. Nguyễn Khắc Phi (tổng chủ biên, 2002), Sách giáo viên Ngữ văn 8, tập 1, 2 Nxb Giáo dục, Hà Nội. 11. Hoàng Phê chủ biên ( 2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 12. Đỗ Ngọc Thống (2002), Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở Trung học cơ sở, NXB Giáo dục, Hà Nội. 15
  20. PHỤ LỤC 1. TRANH ẢNH MINH HỌA HƯỚNG DÂN HỌC SINH TẠO SƠ ĐỒ TƯ DUY CHO BÀI HỌC Hỉnh ảnh: Hoạt đông nhóm tạo SĐTD Hỉnh ảnh: Học sinh hoạt động Hỉnh ảnh: Đại diện nhóm báo cáo sản phẩm bằng SĐTD 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0