intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm giúp học sinh viết bài văn nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ văn 9

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm này là giúp học sinh lớp 9 có được kĩ năng, phương pháp làm văn nghị luận xã hội để có thể giải quyết tốt nhất những đề bài cụ thể. Từ đó tạo một nền tảng vững chắc để sau này các emcó thể sửdụngvănnghị luận ở những bậc học cao hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm giúp học sinh viết bài văn nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ văn 9

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ĐỨC TRƯỜNG THCS DI TRẠCH = = = = ***= = = = SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 9 Lĩnh vực: Ngữ văn Cấp: THCS Tên tác giả: Trần Thị Thu Đơn vị công tác: Trường THCS Di Trạch Chức vụ: Tổ Trưởng Năm học: 2022 – 2023
  2. 1 NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA ĐỀ TÀI TÊN ĐỀ TÀI: MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 9 A. Lí do chọn đề tài Bài văn nghị luận là thể loại được đưa vào giảng dạy ở cấp THCS ngay từ lớp 7. Sau đó thể loại văn này còn được nhắc lại, được mở rộng, nâng cao hơn trong chương trình Ngữ văn lớp 8, lớp 9 đó là văn nghị luận xã hội. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của loại văn bản này đối với yêu cầu học văn và tập làm văn của học sinh THCS. Khi học văn nghị luận xã hội các em được bộc lộ thái độ, suy nghĩ của mình về nhiều vấn đề trong xã hội. Hiện nay, với sự phát triển của đời sống xã hội, nghị luận xã hội ngày càng có vai trò thiết thực. Văn nghị luận xã hội giúp các em không chỉ hoàn thiện kĩ năng trình bày quan điểm của mình mà còn cung cấp tri thức vô cùng phong phú về những vấn đề xã hội. Trong đề thi môn Ngữ văn cuối học kì, tuyển sinh THPT (chiếm 20% số điểm của bài thi) thường có bài tập yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức của đời sống để viết bài nghị luận xã hội về một sự việc, hiện tượng đời sống hoặc nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí Tuy nhiên, viết văn nghị luận xã hội về một sự việc, hiện tượng đời sống và nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí không phải là thích gì, thấy gì viết lấy, hay áp đặt ý kiến chủ quan của người viết. Bài viết cần đảm bảo tính khách quan khoa học và hướng về vấn đề bàn luận. Người viết, cần có vốn sống phong phú, tầm hiểu biết rộng và có óc tư duy sắc sảo mới làm bài tốt. Năm học vừa qua, tôi trực tiếp giảng dạy Ngữ văn lớp 9, tôi nhận thấy văn nghị luận xã hội là dạng văn nghị luận rất thiết thực, các em cần có vốn sống, có tư duy và có chính kiến của mình đối với các vấn đề xã hội. Và cũng qua bài văn, để góp phần hình thành nhân cách cho học sinh, hướng các em tới những điều cao đẹp hơn trong cuộc sống. Thế nhưng không ít học sinh chưa hiểu rõ thể văn này cũng như chưa nắm được phương pháp làm bài hiệu quả. Vậy làm thế nào để học sinh có thể viết tốt bài nghị luận xã hội? Đây là điều trăn trở không chỉ riêng tôi mà còn nhiều các thầy cô giáo tâm huyết, yêu nghề khác. Là một giáo viên giảng dạy Ngữ văn, vì những lí đó đã thúc đẩy tôi chọn đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh viết bài văn nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ văn 9. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm này là giúp học sinh lớp 9 có được kĩ năng, phương pháp làm văn nghị luận xã hội để có thể giải quyết tốt nhất những đề
  3. 2 bài cụ thể. Từ đó tạo một nền tảng vững chắc để sau này các em có thể sử dụng văn nghị luận ở những bậc học cao hơn. B. Phạm vi, thời gian thực hiện Đề tài trên được tôi sử dụng trong việc dạy Ngữ văn tại lớp 9A, 9B, 9C năm học 2022- 2023 C. Nội dung đề tài I. Những thao tác chủ yếu của văn nghị luận Trong một bài văn nghị luận để bài văn có sức thuyết phục, người viết cần sử dụng những thao tác lập luận là giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận. Ba thao tác cơ bản nhất là giải thích, chứng minh, bình luận. 1.Thứ nhất về thao tác giải thích: - Là thao tác đi tìm hiểu , lí giải nội dung bên trong của vấn đề. - Làm sáng tỏ vấn đề, nội dung ý nghĩa bên trong mà người ta muốn nói. - Lí giải vấn đề vì sao người ta lại nói như vậy. - Từ chân lí được nói đến, đúc rút bài học gì cho thực tiễn. Lưu ý khi thực hiện thao tác giải thích: Nên đặt trực tiếp từng câu hỏi (Là gì, tại sao, như thế nào vào đầu mỗi phần (mỗi bước) của bài văn. Mục đích đặt câu hỏi: để tìm ý (phần trả lời chính là ý, là luận điểm được tìm ra) và cũng để tạo sự chú ý cần thiết đối với người đọc bài văn. Cũng có thể không cần đặt trực tiếp ba câu hỏi (Là gì, tại sao, như thế nào) vào bài làm nhưng điều quan trọng là khi viết, người làm bài cần phải có ý thức mình đang lần lượt trả lời từng ý, từng luận điểm được đặt ra từ ba câu hỏi đó. Tuỳ theo thực tế của đề và thực tế bài làm, bước như thế nào có khi không nhất thiết phải tách hẳn riêng thành một phần bắt buộc. 2. Thứ hai về thao tác chứng minh - Là thao tác làm sáng tỏ chân lí bằng các dẫn chứng và lí lẽ. - Làm rõ điều cần chứng minh trong luận đề được nêu lên. - Lần lượt đưa ra các dẫn chứng và lí lẽ. - Đặt vấn đề vào trong thực tiễn để đúc rút và đề xuất phương hướng. 3. Thứ ba về thao tác bình luận - Là thao tác có tính tổng hợp, bao hàm cả thao tác giải thích lẫn chứng minh. - Bày tỏ thái độ của người viết một cách khách quan. - Mở rộng để vấn đề được nhìn nhận sâu sắc và toàn diện hơn. II. Phân loại văn nghị luận xã hội Văn nghị luận xã hội có 3 dạng cơ bản là: - Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống - Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí
  4. 3 - Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học III. Tìm hiểu các dạng bài cụ thể 1. Kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống 1.1 Khái niệm dạng bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống xã hội là bàn về một sự việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với xã hội, đáng khen, đáng chê hay có vấn đề đáng suy nghĩ. (Ngữ văn 9, tập 2 - XB 2011) 1.2 Dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống Đề bài thường xuất phát từ một sự việc, hiện tượng có thật trong đời sống xã hội, những vấn đề thời sự đòi hỏi sự cập nhật của người viết * Hiện tượng tích cực: - Những tấm gương học tốt. - Những tấm gương học sinh nghèo vượt khó. - Chấp hành luật an toàn giao thông. - Hiến máu nhân đạo - Phong trào thanh niên tiếp sức mùa thi - Cuộc vận động giúp đỡ đồng bào hoạn nạn - Cuộc đấu tranh chống nạn phá rừng - Những tấm gương người tốt việc tốt *Hiện tượng tiêu cực: - Nhiều bạn trẻ quên nói lời xin lỗi khi mắc lỗi - Nhiều bạn trẻ quên nói lời cảm ơn khi được giúp đỡ - Nạn bạo hành trong gia đình - Sai hẹn, không giữ lời hứa - Nói tục, chửi bậy - Căn bệnh vô cảm - Bạo lực học đường …...... 1.3. Yêu cầu đôi với bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống a. Về nội dung: Bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống cần phải nêu rõ được sự việc, hiện tượng có vấn đề; phân tích mặt đúng – sai, lợi – hại của nó. Từ đó chỉ ra nguyên nhân, bày tỏ thái độ, nhận thức của người viết với sự việc, hiện tượng đó. Bài nghị luận về một sự việc , hiện tượng đời sống thường có những nội dung cơ bản sau :
  5. 4 - Trình bày tóm tắt về sự việc, hiện tượng đời sống được nghị luận, nêu rõ nội dung và phạm vi của sự việc chính. - Nêu ngắn gọn về thực trạng , biến thái của sự việc, hiện tượng đời sống này qua những dẫn chứng xác thực, tiêu biểu. - Bàn luận về bản chất của sự việc , hiện tượng: nguyên nhân , xu thế, ảnh hưởng , hậu quả hoặc hiệu quả. - Nêu rõ cảm xúc, thái độ, cách đánh giá về sự việc, hiện tượng đời sống này. b. Về hình thức : Bài viết bố cục phải mạch lạc, luận điểm rõ ràng , luận cứ xác thực và lập luận chặt chẽ . 1.4. Các bước làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống Để làm bài văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống , người viết cần thực hiện bốn bước : Tìm hiểu đề, tìm ý; viết thành bài văn; đọc và chữa bài. 1. 5. Dàn bài của bài văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống như sau: *Hiện tượng tiêu cực - Mở bài: Dẫn dắt giới thiệu sự việc, hiện tượng đời sống được nghị luận. - Thân bài: + Miêu tả một cách cụ thể vấn đề, hiện tượng cần nghị luận. Giải thích nếu như trong bài có khái niệm, thuật ngữ cần làm rõ. Chỉ ra những biểu hiện (thực trạng): Hiện tượng đó đã và đang diễn ra như thế nào? + Phân tích các nguyên nhân về sự việc, hiện tượng cần nghị luận: nguyên nhân chủ quan do cá nhân, nguyên nhân khách quan do gia đình, nhà trường, xã hội... + Chỉ ra hậu quả về vấn đề, hiện tượng cần bàn luận: đối với cá nhân, đối với cộng đồng, xã hội. + Đề xuất những giải pháp khắc phục, ngăn chặn sự việc, hiện tượng tiêu cực. + Bài học nhận thức và hành động (liên hệ bản thân). - Kết bài : Nêu suy nghĩ và trách nhiệm của cá nhân. *Hiện tượng tích cực - Mở bài + Giới thiệu sự việc , hiện tượng đời sống được nghị luận. + Nêu quan điểm của em: đáng khen, đáng học tập - Thân bài: + Phân tích biểu hiện của sự việc, hiện tượng
  6. 5 + Nêu ý nghĩa đối với cá nhân, đối với xã hội. + Phản đề + Nêu cách phát huy - Kết bài : Nêu suy nghĩ và trách nhiệm của cá nhân. 1.6. Để làm tốt một bài văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống cần chú ý những yêu cầu sau đây: - Khi nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống cần nhìn nhận, phân tích đưa ra những ý kiến riêng về sự việc hiện tượng. - Để nghị luận được sắc sảo, ý kiến đưa ra công bằng, khách quan, người viết cần có thói quen quan sát những sự việc hiện tượng đó một cách đúng đắn. - Để luận điểm, luận cứ phong phú, nên tìm tư liệu không chỉ trong thực tế mà còn qua các phương tiện thông tin đại chúng như tin tức thời sự, báo chí, mạng... Những tư liệu ấy có thể giúp ta hiểu đầy đủ, có dẫn chứng phong phú hơn về những đặc điểm biểu hiện và bản chất của sự việc, hiện tượng đời sống phải nghị luận. Nên xem một vài chương trình thật kĩ, nhớ thông tin và suy ngẫm để có thể chủ động sử dụng khi lập luận. Không có thông tin cụ thể xác thực bài làm sẽ thiếu tính thuyết phục, nặng về suy diễn chủ quan. - Trong bài nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống nên phối hợp một cách hợp lí các thao tác lập luận. Chú ý tìm những luận cứ xác thực, tìm hiểu để hệ thống lập luận sáng tỏ, lôgic. Cần trình bày tóm tắt về sự việc hoặc hiện tượng đời sống ngay ở đầu bài viết trước khi đi vào bàn luận. Phần kết nêu những nhận xét mang tính khái quát, chính xác về bản chất của sự việc, hiện tượng đời sống đó cùng ấn tượng, cảm xúc của người viết một cách chân thực sinh động. - Không nên trình bày vấn đề một cách quá khách quan, dửng dưng như thể mình là người ngoài cuộc mà phải coi là ta đang bàn đến vấn đề xã hội có liên quan đến chính mình. 2. Kiểu bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí 2.1. Khái niệm dạng bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí Nghị luận về một vấn đề tư tưởng,đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng đạo đức, lối sống... của con người. 2.2. Dạng nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí - Đạo lí Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây - Tình yêu quê hương đất nước - Lòng dũng cảm - Lòng hiếu thảo - Tinh thần đoàn kết, đồng cảm sẻ chia
  7. 6 - Đức tính khiêm nhường - Đức tính trung thực - Lòng biết ơn thầy cô giáo - Có chí thì nên - Tinh thần tự học ......... Như vậy đề bài về một vấn đề tư tưởng, đạo lí trong trường phổ thông thường đề cập đến những vấn đề mang tính tích cực, tiến bộ, có hiệu quả tác động đối với con người và xã hội. Thế nhưng những vấn đề thuộc tư tưởng đạo lí lại vô cùng phong phú. Vì vậy mỗi nhận định được đưa ra bàn luận thường chỉ đề cập đến một mặt nào đó của cuộc sống làm nổi bật một tư tưởng chủ chốt 2.3. Yêu cầu đôi với bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí - Về nội dung bài phải làm sáng tỏ vấn đề tư tưởng, đạo lí bằng cách giải thích phân tích chứng minh, tổng hợp ... để chỉ ra chỗ đúng sai của tư tưởng đó. - Về hình thức bài viết phải có bố cục mạch lạc, luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, lập luận phù hợp. 2.4. Bố cục của bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí a. Mở bài: - Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần nghị luận - Trích dẫn câu ca dao, tục ngữ, danh ngôn (tư tưởng, đạo lí) cần bàn luận. b. Thân bài: - Giải thích nội dung vấn đề tư tưởng, đạo lí (Tùy vào yêu cầu cụ thể của đề bài mà có những cách giải thích khác nhau) + Giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng trên cơ sở đó cắt nghĩa nội dung vấn đề - Phân tích, chứng minh vấn đề tư tưởng đạo lí cần bàn luận. + Làm sáng tỏ bản chất vấn đề + Đưa ra những dẫn chứng, biểu hiện cụ thể trong cuộc sống. - Bình luận, đánh giá vấn đề tư tưởng đạo lí trong bối cảnh của cuộc sống riêng, chung. + Đánh giá vấn đề: đúng – sai + Phê phán bác bỏ những biểu hiện sai lệch đang xảy ra trong cuộc sống - Mở rộng vấn đề tư tưởng, đạo lí + Mở rộng bằng cách đào sâu vấn đề. + Lật ngược vấn đề (phản đề) - Bài học nhận thức và hành động (liên hệ bản thân) + Rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân trong học tập, cuộc sống.
  8. 7 + Đề xuất phương hướng hành động cụ thể. c. Kết bài: - Khẳng định lại một lần nữa giá trị của vấn đề tư tưởng, đạo lí. 2. 5. Những điểm cần chú ý khi nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí a. Về nội dung: - Không biến việc giải thích nghĩa đen nghĩa bóng của câu danh ngôn, câu chuyện nêu trong đề bài thành bài phân tích văn học. Giải thích nội dung của nhận định cần ngắn gọn và rõ ràng. - Với những nhận định mang tính khái quát như một chân lí tất yếu của đời sống thì nên bàn luận ngay về cơ sở hiện thực, tính đúng đắn tính thuyết phục của nội dung nhận định. - Khi bàn luận, không chỉ phân tích rõ tính đúng đắn của vấn đề mà cũng cần chỉ ra những hạn chế, những khía cạnh chưa hoàn chỉnh của nhận định (nếu có). - Để chứng minh tính đúng đắn của vấn đề, cần nêu rõ cơ sở thực tế và tư tưởng của nhận định, cần liên hệ với đời sống lịch sử, văn học...Đồng thời có thể nêu những biểu hiện trái chiều như những luận cứ phản đề với mục đích làm rõ hơn ý nghĩa, giá trị của nhận định. Với những nhận định có điểm còn chưa thật tích cực về tư tưởng thì cần phân tích, nêu dẫn chứng làm rõ điểm không phù hợp đó. Dẫn chứng cần ngắn gọn, cụ thể, chính xác và có tính khái quát. - Bên cạnh việc bàn luận vấn đề dựa trên nhữn cơ sở khách quan, có thể nêu những ý kiến riêng, những trải nghiệm thực tế của cá nhân với mục đích làm sáng tỏ nhận định. Những ý kiến cá nhân phải thống nhất với hệ thống lập luận của toàn bài. Nên viết ngắn gọn và tự nhiên chân thực. b. Về hình thức - Bố cục bài viết theo một cấu trúc chặt chẽ, phù hợp với dạng bài và nhận định đưa ra bàn luận. Phần thân bài phải tách thành nhiều đoạn văn và trình bày nội dung theo kiểu đoạn phù hợp như diễn dịch, qui nạp, tổng – phân – hợp... - Nhận định phải được trích dẫn đúng nguyên văn như đã nêu trong đề bài. Khi nêu các nhận định khác nhằm bàn luận mở rộng, đối chiếu , so sánh, cũng phải trích dẫn chính xác, nêu rõ tác giả hoặc xuất xứ. Phải biết cách nêu và phân tích dẫn chứng. - Diễn đạt cần trang trọng, linh hoạt và giàu cảm xúc, ngôn từ phải chính xác có sức thuyết phục. 3. Kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học 3.1. Khái niệm dạng bài nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học
  9. 8 Nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học là dạng đề tích hợp giữa tác phẩm văn học và các vấn đề xã hội 3.2. Đặc điểm - Đây là kiểu bài nghị luận vấn đề xã hội chứ không phải là kiểu bài nghị luận văn học. Và vấn đề nghị luận là những vấn đề xã hội có ý nghĩa sâu sắc được đặt ra từ một tác phẩm văn học. Ví dụ: Từ vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên trong truyện Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, cùng với những hiểu biết xã hội em hãy nêu suy nghĩ của mình về tinh thần vượt khó của thanh thiếu niên hiện nay. - Các vấn đề xã hội có thể rút ra từ một tác phẩm văn học trong chương trình sách giáo khoa nhưng cũng có thể là một câu chuyện, văn bản mà học sinh chưa đọc. 3.3. Dàn ý của bài nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học Mở bài - Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm - Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận Thân bài - Phân tích vắn tắt văn bản để đúc rút ý nghĩa vấn đề cần nghị luận - Nghị luận vấn đề xã hội được đúc rút từ tác phẩm, văn bản + Giải thích vấn đề cần nghị luận + Phân tích, chứng minh, bàn luận (thực hiện thao tác tương tự như nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống hay nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí). + Mở rộng vấn đề nghị luận + Bài học nhận thức và hành động (liên hệ bản thân) Kết bài Đánh giá ý nghĩa vấn đề xã hội trong tác phẩm IV. Một số đề tham khảo: 1. Suy nghĩ từ truyện ngụ ngôn “Đẽo cày giữa đường”. 2. Lối sống giản dị là một nét đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh. Từ tấm gương của Bác kết hợp với hiểu biết xã hội của mình, em hãy viết một đoạn văn khoảng 2/3 trang giấy thi nêu suy nghĩ của em về ý nghĩa của lối sống giản dị trong cuộc sống ngày nay. 3. Hãy viết một đoạn văn trình bày về vấn đề: Ý nghĩa của việc không ngừng học hỏi. 4. Bằng hiểu biết xã hội của em, hãy viết đoạn văn nghị luận khoảng 1,5 trang giấy trình bày suy nghĩ về giá trị của lời nói trong cuộc sống.
  10. 9 5. Em hãy viết một đoạn văn nghị luận không quá 1 trang giấy thi để gửi đến người đọc thông điệp: “Hãy tự tin trong cuộc sống!”. 6. Em hãy viết một đoạn văn nghị luận khoảng 2/3 trang giấy thi trình bày suy nghĩ về nhận định: “Tự học chính là chìa khóa của thành công”. 7. Suy nghĩ từ câu ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.” 8. Hiện nay, ở nước ta có nhiều cá nhân, gia đình, tổ chức thu nhận trẻ em cơ nhỡ, lang thang kiếm sống trong các thành phố, thị trấn về những mái ấm tình thương để nuôi dạy, giúp các em học tập, rèn luyện, vươn lên sống lành mạnh, tốt đẹp. Em hãy bày tỏ suy nghĩ về hiện tượng đó. 9. Về hiện tượng nhiều người trong lớp trẻ hôm nay lạnh nhạt với âm nhạc truyền thống. 10. Em hãy trình bày ý kiến của mình về những tác hại của việc hút thuốc lá đối với con người và rút ra bài học cho bản thân. 11. Trò chơi điện tử hấp dẫn nhưng cũng có tác hại. 12. Nước ta có nhiều tấm gương vượt lên số phận, học tập thành công (như anh Nguyễn Ngọc Kí bị hỏng tay, dùng chân viết chữ; anh Hoa Xuân Tứ bị cụt tay, dùng vai viết chữ; anh Đỗ Trọng Khơi bị bại liệt đã tự học, trở thành nhà thơ; anh Trần Văn Thước bị tai nạn lao động, liệt toàn thân đã tự học, trở thành nhà văn,…). Lấy nhan đề “Những người không chịu thua số phận”, em hãy viết bài văn nêu suy nghĩ của mình về những con người ấy. 13. Đọc mẩu chuyện sau đây và nêu những nhận xét, suy nghĩ của em về con người và thái độ học tập của nhân vật. Nguyễn Hiền nhà rất nghèo, phải xin làm chú tiểu trong chùa. Việc chính là quét lá và dọn dẹp vệ sinh. Nhưng cậu rất thông minh và ham học. Những buổi thầy giảng kinh, cậu đều nép bên cửa lắng nghe, rồi chỗ nào chưa hiểu, cậu hỏi thầy giảng thêm. Thấy Nguyễn Hiền thông minh, mau hiểu, thầy dạy cho cậu học chữ. Không có giấy, Nguyễn Hiền lấy lá để viết chữ, rồi lấy que tre xâu thành từng xâu ghim xuống đất. Mỗi ghim là một bài. Một hôm Nguyễn Hiền xin thầy cho đi thi. Thầy ngạc nhiên bảo: - Con đã học tập được bao nhiêu mà dám thi thố với thiên hạ? - Con xin thi thử xem sức học của mình đến đâu. Năm ấy, Nguyễn Hiền đã đỗ Trạng nguyên. Vua Trần cho Nguyễn Hiền còn nhỏ quá, mới 12 tuổi, nên không bổ dụng.
  11. 10 Một thời gian sau, vua có việc tiếp sứ giả nước ngoài, cho gọi Nguyễn Hiền về triều. Nguyễn Hiền bảo: - Đón Trạng nguyên mà không có võng lọng sao? Ông về tâu với vua xin cho đầy đủ nghi thức. Vua đành cho các quan mang võng lọng rước quan Trạng tí hon về kinh. (Theo Cửu Thọ, Một trăm gương tốt thiếu nhi Việt Nam). 14. Một số sự kiện thể thao, văn hóa gần đây cũng đã tác động tích cực đối với xã hội, đối với thế hệ trẻ và mỗi người. Hãy chọn và trình bày suy nghĩ của em về một trong những sự kiện đó bằng một bài văn ngắn (khoảng 2/3 trang giấy thi). 15. Dù cuộc sống gian khổ, hiểm nguy nhưng nhờ tình cảm yêu thương gắn bó với nhau đã giúp cho những cô gái thanh niên xung phong (trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê) vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ. Từ hiểu biết về tác phẩm và thực tế cuộc sống, hãy viết đoạn văn khoảng 2/3 trang giấy trình bày suy nghĩ của em về sức mạnh của tình yêu thương.. 16. Lời cảm ơn và xin lỗi được dùng đúng nơi, đúng lúc là một trong những biểu hiện của ứng xử có văn hóa, là hành vi thể hiện sự văn minh lịch sự trong quan hệ xã hội. Bằng một đoạn văn dài khoảng 2/3 trang giấy thi, em hãy trình bày suy nghĩ của mình về việc nói lời cảm ơn và xin lỗi trong giới trẻ hiện nay. 17. Những cô gái thanh niên xung phong trong tác phẩm này là đại diện tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ với lí tưởng và những phẩm chất anh hùng. Từ sự cảm nhận và những hiểu biết về họ, em có suy nghĩ gì về bổn phận và trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay? Hãy trình bày những suy nghĩ đó thành một đoạn văn nghị luận khoảng 2/3 trang giấy thi. V. Bài tập minh họa Đề 1: Một hiện tượng khá phổ biến hiện nay là vứt rác ra đường hoặc nơi công cộng. Hãy trình bày ý kiến của em. a. Tìm hiểu đề và tìm ý Tìm hiểu đề - Đề yêu cầu trình bày ý kiến về hiện tượng vứt rác không đúng nơi quy định. - Đề bài tập trung bàn về rác thải sinh hoạt liên quan nhiều đến ý thức của mỗi người dân. - Vấn đề nghị luận về một hiện tượng một cách đầy đủ, cần quan sát, tập hợp các hiện tượng vứt rác bừa bãi (ở khu vực sinh sống, những nơi công cộng…) - Với đề bài này, cần phân tích hiện tượng, rồi tổng hợp thành nhận xét, đánh giá, đưa ý kiến…
  12. 11 Tìm ý: - Thực trạng vứt rác bừa bãi ở mọi nơi: khu dân cư, khu vui chơi, danh lam thắng cảnh… - Nguyên nhân của việc vứt rác đó: ý thức con người, vi phạm quy tắc giữ gìn vệ sinh nơi công cộng. - Tác hại của việc vứt rác bừa bãi: ảnh hưởng đến sức khỏe con người, đến nguồn nước, mĩ quan môi trường… - Các giải pháp để xử lí rác thải. - Mọi người cần có ý thức trong việc vứt rác đúng nơi quy định để đảm bảo cuộc sống chung. b. Lập dàn bài a. Mở bài: - Ở mỗi quốc gia, vấn đề giữ gìn vệ sinh môi trường được quan tâm thường xuyên. - Đáng buồn ở nước ta có một hiện tượng khá phổ biến hiện nay là vứt rác ra đường hoặc nơi công cộng. b. Thân bài: - Thực trạng vứt rác bừa bãi: Rác gồm nhiều loại: lá cây, túi ni-lông, các vật dụng đã qua sử dụng… Rác thường thấy ở khắp nơi: ngoài đường, nơi công cộng, trên mặt ao hồ hay sông biển… - Nguyên nhân: Đa phần do sự chưa ý thức của con người: tiện tay vứt rác, mặc dù có thùng rác công cộng. Thấy người khác vi phạm nên bản thân dần cũng làm theo. Chưa có biện pháp xử lí rác hợp lí, cụ thể ở nông thôn thường bãi rác ở gần ao, sông, ngòi… - Tác hại: Ô nhiễm môi trường, làm mất vẻ mĩ quan của môi trường nói chung. Ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Tạo cách nghĩ không tốt cho khách du lịch khi đến Việt Nam… - Biện pháp: Mỗi người tự ý thức trong việc vứt rác đúng nơi quy định. Có thể: tự chế lại các vật dụng như: lon, chai…; tình nguyện viên quét dọn đường làng, đường phố…; sử dụng nhiều thùng rác công cộng; đặc biệt chính quyền nên có biện pháp xử lí nghiêm ngặt các trường hợp vi phạm vứt rác không đúng nơi quy định… c. Kết bài: - Hiện tượng vứt rác bừa bãi nơi công cộng… là hành động xấu, đáng chê trách.
  13. 12 - Mỗi người hãy góp phần nhỏ bé của mình làm cho môi trường sống xung quanh trở nên xanh – sạch – đẹp và trái đất sẽ luôn là ngôi nhà chung đáng yêu của tất cả nhân loại. Bài viết minh họa Ngày nay, môi trường bị ô nhiễm có nhiều tác nhân, một trong số đó là rác thải sinh hoạt. Hiện tượng vứt rác bừa bãi khá phổ biến hiện nay là hiện tượng đáng phê phán nhất. Thật vậy, hiện tượng không giữ gìn vệ sinh chung có rất nhiều biểu hiện, nhưng phổ biến nhất là vứt rác ra đường hoặc nơi công cộng. Ăn một que kem hay một chiếc kẹo, người ta vứt que, vứt giấy xuống đất. Uống xong một lon nước ngọt hay một chai nước suối, vứt lon, vứt chai ngay tại chỗ vừa ngồi mặc dù thùng rác để cách đó rất gần. Thậm chi ăn xong một tép kẹo cao su, họ cũng không mang đến thùng rác mà dính lên ghế đá và cứ thế bỏ đi chỗ khác. Một biểu hiện phổ biến khác là một số tài xế chở gạch, phế thải ở các công trình xây dựng đem đổ khắp nơi và để rơi vãi trên đường. Có người còn vô ý thức mang xác súc vật chết như chó, mèo, chuột… ném xuống ao, hồ, sông, ra đường. Đáng sợ hơn, ở một số dòng sông, hồ, ao vào ngày rằm, mùng một hàng tháng (Âm lịch)…người ta vứt rác trôi đầy mặt nước và xung quanh bờ…. Những việc làm trên tuy nhỏ nhưng lại gây tác hại vô cùng lớn. Người ta vô tư vứt rác xuống sông nhưng họ có nghĩ rằng bao nhiêu người sử dụng nguồn nước này để ăn uống, tắm giặt? Một con đường đang sạch đẹp bỗng dưng phải chịu vô số đất đá. Chúng vương vãi khắp nơi gây ùn tắc giao thông. Không chỉ có gạch đá bị thải ra đường mà còn có cả xác súc vật nữa. Nếu lỡ con gà hay vịt ấy mang trong mình mầm bệnh thì dịch bệnh sẽ phát tán trên cả khu vực rộng lớn do nước từ các ao, hồ này sẽ chảy ra sông – nguồn nước sinh hoạt của rất nhiều gia đình…Không chỉ có vậy, việc vứt rác còn ảnh hưởng đến cảnh quan môi trường như: thành phố Nha Trang là một trong những thành phố đang có tiềm năng du lịch, thu hút nhiều khách tham quan. Nếu việc vứt rác bừa bãi của chúng ta sẽ khiến cho khách du lịch có cái nhìn không tốt về nơi đây, đặc biệt là người dân đang sinh sống, học tập, làm việc ở đó. Họ sẽ đánh giá là thành phố kém văn hóa và không lịch sự. Vậy liệu họ có dám đến đây tham quan nghỉ ngơi nữa không? Chúng ta hãy đặt ra câu hỏi như vậy và hãy tự trả lời trước những hành động và việc làm của mình. Những tác hại của việc vứt rác như vậy đều có nguyên nhân bắt nguồn từ con người. Đầu tiên là do thói quen xấu, lười biếng và lối sống lạc hậu, ích kỉ chỉ nghĩ đến quyền lợi cá nhân của một số người. Họ nghĩ đơn giản rằng chỉ cần nhà mình sạch còn thì ai bẩn mặc ai. Những nơi công cộng không phải của mình, vậy thì việc
  14. 13 gì mà phải mất công gìn giữ. Nguyên nhân tiếp theo là do thói quen đã có từ lâu, khó sửa đổi, phải có sự nhắc nhở thì người ta mới không xả rác bừa bãi. Nguyên nhân cuối cùng là do ý thức về vệ sinh của một số người chưa được tốt. Họ không nhận thức được rằng hành vi của mình là vô ý thức, phản văn hóa, văn minh, phá hoại môi trường sống. Đất nước ngày càng phát triển trên nhiều lĩnh vực, đời sống người dân ngày càng được nâng cao. Đặc biệt là trong yêu cầu của cuộc sống ngày nay, con đường xanh – sạch – đẹp là một tiêu chuẩn không thể thiếu. Điều đó khiến mỗi người cần có ý thức giữ gìn vệ sinh để bảo vệ sức khỏe cho bản thân mình và người khác. Chúng ta cần tuyên truyền cho mọi người cùng tham gia, học tập và đề ra những biện pháp thiết thực nhất để bảo vệ môi trường như tổ chức các phong trào “mùa hè xanh”, quét dọn đường làng, đường phố, làm sạch sân trường… Và đề ra những quy định chung như: đổ rác đúng nơi quy định, sử dụng nhiều thùng rác công cộng, phân loại rác trước khi đổ. Đặc biệt các cơ quan quản lí cần có những biện pháp cụ thể xử phạt người vi phạm để giữ cho môi trường xanh – sạch – đẹp. Hành vi vứt rác ra nơi công cộng là hành động xấu, đáng chê trách. Chúng gây hậu quả nghiêm trọng cho mọi người. Vì vậy mỗi người cần nhanh chóng khắc phục hiện tượng đó. Mỗi người nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, tuyên truyền cho mọi người khác cùng làm theo. Hi vọng rằng với việc làm nhỏ, mỗi người góp phần làm cho môi trường sống xung quanh trở nên xanh – sạch – đẹp và trái đất luôn là ngôi nhà chung đáng yêu của tất cả nhân loại. Đề 2: Những cô gái thanh niên xung phong trong tác phẩm này là đại diện tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ với lí tưởng và những phẩm chất anh hùng. Từ sự cảm nhận và những hiểu biết về họ, em có suy nghĩ gì về bổn phận và trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay? Hãy trình bày những suy nghĩ đó thành một đoạn văn nghị luận khoảng 2/3 trang giấy thi. Đoạn văn minh họa Những cô gái thanh niên xung phong trong tác phẩm này là đại diện tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ với lí tưởng và những phẩm chất anh hùng. Hình ảnh của họ đã khiến em có những suy nghĩ gì về bổn phận và trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay. Thế hệ trẻ là cụm từ để chỉ những người trẻ tuổi như thanh niên, học sinh, sinh viên, thậm chí cả các em nhỏ mới chập chững tới trường. Thế hệ trẻ cũng được coi là những người quyết định tương lai của đất nước. Vậy, họ cần có bổn phận và trách nhiệm gì? So với thế hệ cha anh, thế hệ trẻ Việt hôm nay được sống trong hòa bình, với điều kiện sung túc hơn rất nhiều. Nhưng bất kì người trẻ nào cũng cần hiểu rằng cuộc sống hòa bình vật chất đủ đầy
  15. 14 ấy được đổi bằng bao gian lao, khốn khó và cả sự hi sinh xương máu của các thế hệ cha anh. Vì thế, người Việt trẻ hôm nay phải luôn ghi nhớ và biết ơn, đồng thời trân trọng những thành quả tuyệt vời ấy. Bên cạnh đó, thế hệ trẻ Việt Nam cũng cần nỗ lực và phấn đấu, rèn luyện, học tập để trở thành những công dân có ích, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tế cho chúng ta thấy người Việt trẻ hôm nay cũng rất xứng đáng với cha ông ngày trước. Các vận động viên tên tuổi như kình ngư Nguyễn Thị Ánh Viên, kì thủ Lê Quang Liêm hay gần đây nhất là đội tuyển U23 Việt Nam đã đem lại vinh quang cho đất nước. Còn trên đấu trường trí thức, các chàng trai của đội tuyển Olympic Toán, Vật lí, Sinh học, Hóa học … đã mang về những tấm huy chương quý giá, làm rạng danh tên tuổi Việt Nam. Để có được những vinh quang ấy, họ đã phải phấn đấu và nỗ lực phi thường. Bên cạnh đó, những người lính nơi biên cương, hải đảo, các học sinh, sinh viên, trí thức, doanh nhân … trên khắp mọi miền đất nước đang học tập và lao động nhiệt tình để góp phần bảo vệ, giữ gìn và dựng xây quê hương, đất nước. Người trẻ cũng sẵn sàng lên tiếng phản đối những hành vi xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Tất cả những việc làm đó chính là lời tri ân sâu sắc tới những thế hệ cha anh đã hi sinh xương máu để cho chúng ta cuộc sống hòa bình, độc lập hôm nay. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận thanh thiếu niên có lối sống buông thả, có tư tưởng sai lệch, thậm chí dễ bị kích động, ham chơi, lười làm hoặc phạm pháp. Những việc làm và lối sống của họ không chỉ có hại cho bản thân mà còn chưa xứng đáng với công lao của người đi trước. Xã hội cần nghiêm khắc giáo dục những đối tượng này. Là một học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường, em cũng luôn tự nhủ mình phải sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của những thế hệ đi trước. Em tìm hiểu lịch sử đất nước, biết yêu quý người thân, bạn bè, thầy cô. Em trân trọng cuộc sống hiện tại. Đồng thời, em cũng ngày ngày nỗ lực rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, ra sức học tập để sau này trở thành một người có đủ năng lực, tri thức, đạo đức, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Đề 3: Viết bài nghị luận khoảng một trang giấy thi nêu suy nghĩ của em về lòng dũng cảm trong cuộc sống. Dàn ý minh họa a. Mở bài: -Giới thiệu được vấn đề nghị luận lòng dũng cảm Lòng dũng cảm là một trong những đức tính vô cùng cần thiết và đáng quý ở mỗi con người. Dù ở nơi đâu khi làm bất cứ việc gì con người cũng đều cần đến lòng dũng cảm. b. Thân bài:
  16. 15 - Giải thích được : Dũng cảm là không sợ nguy hiểm, khó khăn. Người có lòng dũng cảm là người không run sợ, không hèn nhát, dám đứng lên đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, các thế lực tàn bạo để bảo vệ công lí, chính nghĩa - Khẳng định và chứng minh: Dũng cảm là phẩm chất tốt đẹp của con người ở mọi thời đại: + Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam (lấy dẫn chứng) + Ngày nay: trên mặt trận lao động sản xuất, đấu tranh phòng chống tội phạm (nêu một vài tấm gương tiêu biểu của chiến sĩ cảnh sát, bộ đội…) + Trong cuộc sống hàng ngày: cứu người bị hại, gặp nạn + Mở rộng, liên hệ thực tế: Liên hệ tình hình biển Đông hiện nay, lòng dũng cảm của các chiến sĩ cảnh sát biển. đang ngày đêm bám biển bảo vệ chủ quyền của dân tộc. - Phê phán: những người nhầm tưởng lòng dũng ảm với hành động liều lĩnh, mù quáng, bất chấp công lí. Phê phán những người hèn nhát, bạc nhược không dám đấu tranh, không dám đương đầu với khó khăn thử thách để vươn lên trong cuộc sống. - Bài học nhận thức và hành động của bản thân: + Liên hệ bản thân đã dũng cảm trong những việc gì… + Rèn luyện tinh thần dũng cảm từ việc làm nhỏ nhất trong cuộc sống hàng ngày nơi gia đình, nhà trường như dám nhận lỗi khi mắc lỗi, dũng cảm chỉ khuyết điểm của bạn + Trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc rèn luyện lòng dũng cảm, phát huy truyền thống quý báu của dân tộc c. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề nghị luận Cuộc sống ngày càng khó khăn, để tồn tại con người phải đối diện với rất nhiều thử thách, gian nan. Nếu không có đủ nghị lực và nếu không có lòng dũng cảm, chúng ta sẽ rất khó có được sự thành công trong cuộc sống. Dũng cảm là một phẩm chất mà chúng ta có thể bồi dưỡng thông qua rèn luyện. Đề 4: Có ý kiến cho rằng: Sự vô cảm đang có nguy cơ trở thành căn bệnh trong xã hội hiện nay. Ý kiến của em về vấn đề này. Dàn ý minh họa a. Mở bài - Hiện tượng vô cảm trong XH ngày nay đang trở thành một căn bệnh khá phổ biến và điều đáng tiếc là nó lại xuất hiện ở ngay trong những người trẻ tuổi.
  17. 16 b. Thân bài - Vô cảm là tình trạng chai sạn trong tâm hồn là thái độ sống thờ ơ lãnh đạm trước những gì diến ra xung quanh mình. Đáng sợ hơn là nó diễn ra ngay cả trước những đau khổ mất mát của con người. - Vì sao có sự vô cảm? Vì nhịp sống vội vàng, ta bị cuốn vào vòng mưu sinh mà ko có thời gian để chăm lo cho người khác và cho chính tâm hồn mình. Chính sự thiếu thời gian đó đã vô tình dẫn đến sự thiếu tình cảm, sự thờ ơ vô cảm. Sự vô cảm còn là do sự xuống cấp của đạo đức. Vô cảm là hậu quả của sự vô tình và vô trách nhiệm đối với bản thân gia đình và cộng đồng. - Biểu hiện của sự vô cảm: Những lúc nhìn thấy những thái độ sống vô cảm của mọi người mà chúng ta bàng hoàng băn khoăn. + Đánh nhau thì thờ ơ không can ngăn đứng quay clip để tung lên mạng + Những người ăn xin nghèo khổ bước lầm lũi sau những tiếng cười khinh bỉ và sự xua đuổi của một số đám thanh niên nhà giàu. + Một nạn nhân bị tai nạn giao thông không ai giúp đỡ, thậm chí có người chạy đến là để nhặt chiếc điện thoại của người bị nạn bỏ vào túi. - Chúng ta phải làm gi? Hãy bắt đầu từ sự yêu thương nhỏ nhất là việc làm không bao giờ thừa thãi vô ích. Nó sẽ giúp ta sống chậm lại để kịp nhận ra mọi người xung quanh để trân trọng và giúp đỡ họ nhiều hơn. c. Kết bài: Khẳng định : Sống trong đời sống cần có một tấm lòng Đề 5: Có người cho rằng: Hành trang cần thiết nhất trong cuộc đời mỗi con người chính là lòng tự trọng. Em hãy bày tỏ ý kiến của mình Bài viết minh họa Ông cha ta xưa nay có câu “Mua danh ba vạn bán danh ba đồng” để nhắc nhở con cháu phải biết lễ nghĩ; giữ gìn phẩm giá; vẹn tròn lòng tự trọng và sự tôn quý trong phẩm hạnh. Lòng tự trọng được xem là yếu tố quan trọng trong nhân cách mỗi con người và là nếp sống đẹp của nhân loại. Lòng tự trọng được hiểu sâu sa có nghĩa là ngay thẳng; đứng đắn; không làm những điều sai; trái với luân thường đạo lí. Lòng tự trọng là biểu trưng cho lối sống khuôn phép; có chừng mực; có thiên lương; đạo đức cao đẹp. Đặt trong mỗi hoàn cảnh khác nhau lòng tự trọng lại có những biểu hiện khác nhau. Đó là biết tự giác nhận lỗi chịu trách nhiệm về những sai trái của bản thân; là nghiêm khắc tự kiểm điểm và rút ra bài học trước tập thể; là sống gần những điều xảo trá đen tối; bị kẻ xấu lôi kéo dụ dỗ nhưng vẫn trong sạch; ngay thẳng; không bị ảnh hưởng tác động bời thói hư tật xấu. Lòng tự trọng còn là ý thức xây dựng tập thể; tuân thủ mọi
  18. 17 khuôn phép, xử xự có văn hóa; không ngại và đùn đẩy việc khó nhọc; là luôn biết giữ gìn phẩm giá liêm trực; trí công vô tư dù ở trong bất kì hoàn cảnh nào. Lòng tự trong còn được thể hiện qua nếp sống nề nếp; gia phong như ông bà ta từng răn dạy: “Đói cho sạch, rách cho thơm. Dù hành động gì cũng phải biết trước biết sau xử xự cho đúng đắn. Tùy vào từng ngữ cảnh cụ thể mà lòng tự trọng lại có những biểu hiện hết sức đa dang. Lòng tự trọng là đức tính quý báu của mỗi con người, có ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc. Lòng tự trọng cho con người quan điểm lập trường vững vàng để không bị kẻ xấu lừa gạt; lôi kéo. Người có lòng tự trọng sẽ luôn thanh cao; đứng đắn; trong sạch và không bao giờ đặt lợi ích vật chất lên trên con người; không vì chút hờn ghen đố kị chút lòng tham nhỏ nhoi mà đánh mất đi giá trị bản thân của nhân cách. Lòng tự trọng tạo nên uy tín; tạo nên sức mạnh tiềm ẩn thôi thúc mỗi con người hành động và chiến thắng. Hay nói chung lại lòng tự trọng là kim chỉ nam cho ứng xử cho mỗi cá nhân; từ đó cá nhân sẽ được mọi người yêu quý; kính trọng; noi gương; để lại tiếng thơm muôn đời. Đối với xã hội lòng tự trọng lại càng có vị thế nhất định. Lòng tự trọng tạo nên nghị lực để con người ta vượt qua khó khăn; đói nghèo; không ngừng phát triển. Lòng tự trọng đẩy lùi được biết bao tệ nạn: ma túy; trộm cắp; lừa đảo. Lòng tự trọng đã và đang gìn giữ truyền thống; đạo đức tốt đẹp của cộng đồng; dựng xây đất nước ngày một văn minh; giàu đẹp và phát triền hơn. Trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta có biết bao nhiêu vị tướng là biểu tượng cao đẹp cho lòng tự trọng, đó là Cao Bá Quát; là anh hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản; Phạm Ngũ Lão hay thái sư đáng kính Trần Thủ Độ. Nhắc đến Trần Thủ Độ ta nào có thể quên câu chuyện chặt ngón chân người thân xin chức tước và bán thưởng hậu hĩnh cho người đã tố cáo mình. Những giai thoại về tính chính trực liêm minh của ông thật ít người có thể sánh cùng. Xa hơn một chút nữa chúng ta cùng đến với vị cha già dân tộc Hồ chủ tịch. Người là tấm gương sáng về lòng tự trọng cho bao người noi theo. Dù khó khăn; gian khổ; bị địch nhiều lần dụ dỗ nhưng người cha già áo sờn vai ấy vẫn một mực kiên trung với cách mạng; miệt mài tìm con đường sáng soi giải phóng dân tộc; thống nhất đất nước; làm nên những trang sử vẻ vang cho con cháu Đại Việt. Đi ngược lại với lí tưởng cao đẹp của lòng tự trọng đó là lối sống hèn nhát; ích kỷ. Đó là những con người chỉ biết mưu cầu; nghĩ cho lợi ích cá nhân mà chà đạp lên cộng đồng; những người xung quanh khác. Họ chỉ biết tìm những cái tốt đẹp; nhàn hạ cho bản thân; những khó khăn chồng gai thì phần người; chỉ biết xa hoa hưởng thụ khoái lạc và ỷ lại vào người xung quanh. Đó còn là những con người hơi chút khó khăn thì nhụt chí; thấy khó thì chờn bước; đổ lỗi cho hoàn cảnh khi sai trái và chẳng bao giờ biết chịu hậu quả bởi những hành vi do mình gây ra. Thật đáng chê trách và đáng buồn cho một
  19. 18 thế hệ. Tuy nhiên lòng tự trọng đặt vào mỗi hoàn cảnh cụ thể cũng cần có những biểu hiện cho phù hợp. Cương nhu, cứng rắn và mềm mỏng đúng lúc và đúng chỗ. Nếu lúc nào cũng khăng khăng; giữ vững quan điểm đôi lúc sẽ dân tới bảo thủ; khuôn mẫu; dập khuôn; con người sẽ trở nên cứng nhắc; ì ạch; thiếu sáng tạo và không hoàn thiện; phát triển được. Để rèn luyện đức tính tự trọng mỗi chúng ta phải không ngừng học hỏi; không ngừng nỗ lực; phấn đấu từng ngày. Ham học hỏi và tiếp thu ý kiến từ bạn bè; người thân xung quanh; hành động đúng lễ nghi; phép tắc của một người học sinh gương mẫu: nhận lõi khi sai; không gian lận; lừa dối; không xa đọa ăn chơi; giúp đỡ bạn bè;..cố gắng rèn luyện văn hóa thể thao tu dưỡng đạo đức thật tốt ; tích lũy từng ngày chúng ta sẽ trở thành một học trò ngoan; một công dân có ích cho xã hội. Gia đình và nhà trường cũng như cộng đồng cũng nên dành sự quan tâm sát sao hơn đối với con trẻ của mình; lựa chọn những phương pháp giáo dục phù hợp; hiệu quả với tâm sinh lý của các em; tuyên truyền giảng dạy cho các em và mọi người để trở thành người lương thiện; tử tế; người tốt cho cộng đồng. Lúc sinh thời Hồ Chủ Tịch đã từng nói: “Ai cũng có lòng tự trọng, tự tin. Không có lòng tự trọng, tự tin là người vô dụng”. Thật đúng như vậy lòng tự trọng là nhân tố thiết yêu trong nhân cách mỗi con người. Có lòng tự trọng là cách bạn khẳng định vị thế bản thân; là cách để giá trị con người trường tồn với thời gian. D. Kết quả thực hiện Sau một thời gian hướng dẫn cho các em học sinh kĩ năng và phương pháp làm một bài văn nghị luận xã hội, tôi nhận thấy: - Hầu hết các em không sợ học phân môn tập làm văn nữa. Học sinh đã có tiến bộ rõ rệt, các em đã hứng thú hơn trong các giờ học về nghị luận xã hội. - Khi làm bài văn nghị luận xã hội các em không còn lúng túng hoặc làm sơ sài, máy móc, dập khuôn. - Các em đã biết tự mình phân tích đề, xác định yêu cầu của đề. Trên cơ sở đó tìm ý, lập dàn ý chi tiết, rồi viết được bài văn hoàn chỉnh khá thú vị, hấp dẫn. - Các em hào hứng, sôi nổi trong những giờ học luyện tập làm văn nghị luận xã hội, có ý thức tự giác, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập theo sự gợi ý, hướng đẫn, yêu cầu của giáo viên. Biết vận dụng một cách sáng tạo hướng dẫn của thầy, cô để làm tốt kiểu bài. Sử dụng hiệu quả các tài liệu, sách tham khảo… Qua quá trình giảng dạy, nhờ áp dụng các kinh nghiêm giảng dạy trên, tôi thấy nhiều học sinh đã có hứng thú hơn với các bài văn nghị luận xã hội. Số liệu cụ thể như sau:
  20. 19 Tỉ lệ học sinh STT Lớp Tổng Không hứng thú học văn Hứng thú học văn nghị số học nghị luận xã hội luận xã hội sinh Đầu năm: 26 hs = 65% Đầu năm: 14 hs = 35% 1 9A 40 Cuối năm: 6 hs = 15% Cuối năm: 34 hs = 85 % Đầu năm: 25 hs = 67 % Đầu năm: 12 hs = 33 % 2 9B 37 Cuối năm: 7 hs = 18 % Cuối năm: 30 hs = 82 % Đầu năm: 29 hs = 74 % Đầu năm: 10 = 26 % 3 9C 39 Cuối năm: 7 hs = 27 % Cuối năm:32 hs = 73 % E. Những kiến nghị và đề nghị sau quá trình thực hiện đề tài Sau quá trình thực hiện đề tài này, tôi xin có một số kiến nghị như sau: Nhà trường cần quan tâm và tạo điều kiện hơn nữa về trang thiết bị dạy học hiện đại để những tiết dạy môn Ngữ văn nói chung, dạy phân môn Tập làm văn nói riêng có chất lượng cao hơn. Nhà trường cần tăng cường số lượng sách tham khảo của bộ môn, tài liệu liên quan khác để sự cập nhật thông tin, dữ kiện, số liệu minh chứng tốt nhất. Giáo viên trong nhóm, tổ chuyện môn thường xuyên trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong giảng dạy để các giờ dạy học được tốt hơn. Giáo viên cần nghiên cứu để nắm vững chương trình, yêu cầu nội dung của phân môn và cần vận dụng những phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực khi giảng bài. Thư viện nhà trường cần tăng cường các loại tài liệu, sách tham khảo, báo chí,... để có nguồn tư liệu phong phú giảng dạy và học tập cho học sinh. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi. Vậy tôi rất mong các cấp và đặc biệt là các đồng nghiệp góp ý, xây dựng cho sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 18 tháng 4 năm 2023 Người viết Trần Thị Thu
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
192=>0