intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm tạo hứng thú cho học sinh trong giờ dạy Tiếng Anh khối 6,7,8 ở trường THCS Lê Quý Đôn

Chia sẻ: Dung Hoang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:32

56
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến này nhằm tạo hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh THCS, giảm được sự ức chế tối đa trong một giờ học, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, giúp cho học có điều kiện sử dụng Tiếng Anh một cách tự nhiên, hình thành và rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực hiện quá trình giao tiếp thực tế và cũng là để củng cố, ôn tập lại những kiến thức, khắc sâu lại những kiến thức đã học một cách thường xuyên, có hiệu quả. Sau nữa là để nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân, và để trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp của mình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm tạo hứng thú cho học sinh trong giờ dạy Tiếng Anh khối 6,7,8 ở trường THCS Lê Quý Đôn

  1. PHÒNG GD & ĐT KRÔNG ANA TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ KINH NGHIỆM TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH  TRONG GIỜ DẠY TIẾNG ANH KHỐI 6,7,8  Ở TRƯỜNGTHCS LÊ QUÝ ĐÔN Họ và tên: ĐỖ THỊ DỊU Đơn vị công tác:  TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN Trình độ: ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TIẾNG ANH
  2. Krông Ana, tháng 03 năm 2019
  3. MỤC LỤC Trang
  4. Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tiếng  Anh ngày càng trở  nên phổ  biến, nó được xem là cầu nối con  người từ những nước khác nhau trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Hơn thế  nữa nhờ  có  Tiếng Anh mà con người đã có được những bước tiến đáng kể  trong nhiều lĩnh vực. Việc học Tiếng  Anh là quan trọng và cần thiết hơn bao   giờ hết. Tuy nhiên,  Tiếng  Anh là một môn học khá khó đối với học sinh, đặc   biệt là học sinh  ở vùng khó khăn. Vì vậy, chúng tôi luôn trăn trở  với câu hỏi   làm thế nào để có được một giờ dạy hiệu quả và sinh động, gây được hứng  thú với học sinh, khiến các em phát huy được vai trò chủ động sáng tạo trong  việc lĩnh hội kiến thức cùng một lượng từ vựng khô khan. Thực tế  cho thấy  ở  một số  tiết học, nếu người thầy áp dụng phương  pháp dạy học truyền thống thì chỉ có ít học sinh suy nghĩ và làm việc tích cực,  số học sinh còn lại cũng chỉ ghi bài và lắng nghe một cách thụ động, máy móc  mà không hiểu được nội dung bài học, dẫn đến hiệu quả học tập thấp. Hơn   nữa, lớp học rất  ồn vì học sinh không chú ý vào bài học. Để  khắc phục tình  trạng trên, mỗi giáo viên phải tự chọn ra cho mình phương pháp dạy phù hợp  thông qua một quá trình tìm tòi, thử  nghiệm và rút kinh nghiệm giảng dạy   thực tế của bản thân trên cơ  sở  hiểu biết về  lý luận dạy học.  Chính vì vậy,  trong khi giảng dạy Tiếng  anh tại trường THCS Lê Quý Đôn, tôi đã chú ý  nghiên cứu, vận dụng phương pháp mới để tạo sự hứng thú học tập, phát huy  tính tích cực, chủ động của học sinh trong các giờ dạy của mình. Đó cũng là lí  do tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm tạo hứng thú trong giờ học Tiếng   Anh khối 6,7,8 ở trường THCS Lê Quý Đôn”. Những kinh nghiệm của tôi có thể vận dụng với hầu hết các tiết học,   các kiểu bài, trong chương trình Tiếng anh THCS khối 6,7,8. Như  vậy, việc  lựa chọn đề tài này có ý nghĩa rất cụ thể và thiết thực đối với giáo viên dạy  bộ  môn Tiếng Anh nhằm nâng cao chất lượng dạy   ­  học  môn Tiếng Anh  trong trường THCS Lê Quý Đôn          Tạo hứng thú trong dạy học Tiếng Anh là một trong những giải pháp  quan trọng để đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Anh ở trường THCS  hiện nay. Nó thu hút được sự  quan tâm của nhiều nhà lý luận dạy học cũng  như các giáo viên dạy học trực tiếp ở các trường phổ thông. Vấn đề này cũng  đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu của các nhà giáo dục,   của một số  thầy cô giáo. Các công trình nói trên đã tạo cơ  sở, nền móng cả  về mặt lý luận và thực tiễn để tôi hoàn thành đề tài này.           Tuy nhiên, các tác giả  mới đề  cập một cách khái quát, mang tính chất  định hướng, giới thiệu chủ yếu mà chưa đề cập đến việc áp dụng cụ thể vào  1
  5. bài học như  thế  nào để  tạo hứng thú học tập cho học sinh. Vì thế, tôi đã   mạnh dạn tiếp tục đi sâu tìm tòi nghiên cứu đề  tài này theo hướng vận dụng   lý luận vào thực tế giảng dạy, với mong muốn đóng góp những kinh nghiệm   của mình vào việc tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em yêu thích,   say mê môn học để  góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng  Anh. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Việc tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Tiếng Anh mà tôi đưa ra   trước hết nhằm khơi được hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh THCS,   giảm được sự   ức chế  tối đa trong một giờ  học, phát huy tính tích cực, chủ  động sáng tạo của học sinh, giúp cho học có điều kiện sử  dụng Tiếng Anh   một cách tự  nhiên, hình thành và rèn luyện kỹ  năng vận dụng kiến thức vào   thực hiện quá trình giao tiếp thực tế và cũng là để củng cố, ôn tập lại những  kiến thức, khắc sâu lại những kiến thức đã học một cách thường xuyên, có   hiệu quả. Sau nữa là để nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân, và để trao   đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp của mình. 2
  6. Phần thứ 2:  GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ  Trong đề  án 1400 về  "Dạy và học ngoại ngữ  trong hệ  thống giáo dục  quốc dân giai đoạn 2008 –2020 với nội dung mục tiêu là đổi mới toàn diện  việc dạy và học ngoại ngữ  trong hệ  thống giáo dục quốc dân, triển khai  chương trình dạy và học ngoại ngữ  mới  ở  các cấp học, trình độ  đào tạo,  nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về  trình độ  năng lực sử  dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên;   đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và  đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học   tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến ngoại  ngữ  trở  thành thế  mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ  sự  nghiệp công  nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước”. Chương trình giáo dục phổ  thông ban hành kèm theo quyết định số  16/2006/QĐ­ BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ  trưởng Bộ  giáo dục và Đào  tạo cũng đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của  học sinh, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều  kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự  học, khả  năng  hợp tác rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình  cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”   Nghị  quyết Hội nghị  Trung  ương 8 khóa XI về  đổi mới căn bản, toàn  diện GD­ĐT nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ  phương pháp dạy và học   theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng  kiến thức, kỹ năng của người học...”.  Như  vậy, để  phát huy tính tích cực chủ  động sáng tạo của học sinh,   nâng cao chất lượng dạy học bộ  môn Tiếng Anh, thì phải làm cho học sinh  yêu thích môn học đó. Muốn học sinh yêu thích môn học đó thì giáo viên phải  tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Có nhiều phương pháp để  phát huy  tính tích cực, tự  giác, chủ  động, tạo hứng thú học tập cho học sinh đã được   nhiều giáo viên áp dụng.  Làm cho  học sinh cảm thấy bài học  ở  đây nhẹ  nhàng“như một trò chơi, mọi người tham dự vô tư, thoải mái”  với không khí  “hòa nhã, vui vẻ..”. Nếu Tiếng Anh trở  nên sống động hơn, hấp dẫn hơn,  thực tế hơn, vậy thì không còn lý do gì mà học sinh lại không cảm thấy hứng   thú để  học tập, không tích cực, chủ  động tham gia vào bài học. Mà có hứng   thú học tập  ắt sẽ có kết quả  học tập tốt. Đây là nền tảng cho việc áp dụng   phương pháp mới vào dạy học góp phần nâng cao chất lượng dạy và học  môn Tiếng Anh.  II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ  Tiếng Anh đã trở  thành một môn học trọng tâm như  các môn văn hóa  khác nhưng vẫn là môn học khó, không phải bất cứ học sinh nào cũng có năng   3
  7. khiếu để  tiếp thu nó một cách dễ  dàng, đặc biệt là những học sinh  ở  vùng   nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa như trường THCS Lê Quý Đôn. Trường nằm trên địa bàn khó khăn, đa số gia đình các em học sinh đều   làm nông, ngoài giờ học các em phải giúp đỡ bố mẹ làm thêm công việc như  nhặt điều, nhặt cà phê, tưới nước, làm cỏ, có em đến mùa thu hoạch phải   nghỉ học ở nhà giúp đỡ gia đình. Do đó đa số các em không nhận được cơ hội  học tập tốt ở nhà, không có điều kiện làm bài tập và ôn bài ở nhà. Hơn nữa, tỉ  lệ học sinh dân tộc thiểu số trong trường chiếm tới một nửa số học sinh nên   một số em còn hạn chế về cách tiếp thu bài học, chất lượng học sinh học tập  môn Tiếng Anh hàng năm chưa cao, tỉ lệ học sinh khá giỏi thấp, tỉ lệ học sinh   yếu kém còn cao.  Để  nâng cao chất lượng bộ môn Tiếng Anh trong nhà trường, một vài  năm gần đây giáo viên đã và đang áp dụng những phương pháp dạy học tích  cực trong giảng dạy. Tuy nhiên giáo viên còn đang lúng túng trong cách thức   thực hiện, chưa đa dạng hóa các hình thức.  Qua thực tế cho thấy, nhiều năm  học trước bộ môn Tiếng Anh ở trong trường THCS Lê Quý Đôn chưa thu hút  được học sinh yêu thích môn học.  Đa số  các em chưa nắm chắc kiến thức,  chưa có phương pháp học tập phù hợp, học tập một cách thụ  động, chủ yếu  các em chỉ ghi chép bài, nhiều em rất ngại thực hành nói trên lớp, sợ nói ra sẽ  bị sai, sợ các bạn chê cười, nhiều em chưa biết vận dụng vào tình huống thực  tế, thậm chí có em còn không ghi chép bài ở trên lớp, nhiều em cảm thấy chán  nản, mệt mỏi, và còn ngủ  trong giờ  học , đây là một thực trạng phổ  biến  ở  trong tiết dạy Tiếng Anh.  Năm học 2016 – 2017 qua thực tế điều tra bằng phiếu khảo sát (trước  khi áp dụng các giải pháp vào giảng dạy), tôi thu được kết quả như sau: Bảng 1A: Khảo sát mức độ yêu thích môn Tiếng anh  Số học  Em có thích học môn Tiếng Anh không? sinh  Khối được  Thích Không thích SL % SL % điều  tra 6 62 22 35.5 40 64.5 7 59 19 32.2 40 67.8 8 31 9 29.03 22 70.97 Bảng 1B: Khảo sát kết quả học tập môn Tiếng Anh  Khối Số  Học lực môn Tiếng Anh 4
  8. HS  Giỏi Khá TB Yếu / kém được  điều  SL % SL % SL % SL % tra 6 62 02 3.2 05 8.1 17 27.4 38 61.3 7 59 01 1.7 04 6.8 17 28.8 37 62.7 8 31 0 0 2 6.5 9 29 20 64.5 Qua bảng khảo sát học sinh môn Tiếng Anh các khối 6,7,8 tôi thấy tỉ lệ  học sinh yêu thích môn học không nhiều, tỉ lệ học sinh khá, giỏi là rất ít, tỉ lệ  học sinh yếu, kém là rất cao, đặc biệt là khối 8. Vậy tại sao các em không yêu  thích môn học Tiếng Anh? Nguyên nhân từ đâu dẫn đến kết quả học tập của   học sinh thấp như  thế? Giáo viên đã áp dụng tốt các phương pháp dạy học  tích cực chưa? Đây là câu hỏi mà tôi luôn trăn trở.  Do đó, đòi hỏi mỗi giáo  viên trong tổ bộ môn của trường phải có trách nhiệm tìm tòi, nghiên cứu, thử  nghiệm để tìm ra các giải pháp giúp kích thích niềm say mê, ham học hỏi của   các em để môn Tiếng Anh trong nhà trường, trong toàn ngành được nâng cao  chất lượng. III. CÁC GIẢI PHÁP ĐàTIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Để nâng cao chất lượng dạy và học và và quan trọng hơn thu hút được   sự  tập trung chú ý của học sinh, tạo cho các em một tâm lý thoải mái, không  áp lực khi học bộ  môn để  các em say mê, yêu thích môn học hơn nữa, tôi đã  áp dụng một số giải pháp sau:  1. Thúc đẩy động cơ học tập của học sinh 1.1 Động viên học sinh bằng những lời khen   Chúng ta có thể  thấy một lời khen bao giờ  cũng tốt hơn một lời chê   bai. Vì thế  để  giúp các em mạnh dạn hăng hái phát biểu tôi luôn không bao   giờ  tiếc những lời khen ngợi động viên các em. Thực tế  cho thấy, có những  học sinh biết nhưng không dám nói vì sợ  bị  mắc lỗi. Một số  em khác không  dám giơ tay phát biểu vì sợ nói sai bị các bạn cười, cô giáo chê. Theo tôi, đây  chính là yếu tố tâm lí mà giáo viên dạy Tiếng Anh cần phải xem xét để  giúp  các em có được hứng thú học tập hay ít ra là tích cực hơn trong các giờ  học.   Trong quá trình dạy, giáo viên không nên quá khắt khe với những lỗi mà học  sinh mắc phải (Ví dụ: lỗi phát âm, lỗi chính tả, thậm chí là lỗi ngữ pháp) để  tránh cho các em tâm lí sợ  mắc lỗi khi thực hành.Vì vậy bất cứ  một câu trả  lời tốt nào đều được khen đôi khi chỉ là một cái gật đầu, một nụ cười…Thậm  chí nếu học sinh làm chưa đúng chúng ta cũng có thể khen. 5
  9. Ví dụ 1: Khi dạy Unit 9 tiếng Anh 7 phần củng cố thì quá khứ đơn tôi  yêu cầu học sinh làm câu chia động từ trong ngoặc. My mother (buy) ________ me a school bag last week. Bài làm của học sinh như  sau: My mother  buyed  me a school bag last  week. Rõ ràng bài làm của học sinh chưa đúng, nhưng em đã nhận biết được  câu này dùng thì quá khứ đơn nhưng em không nhớ động từ này thuộc động từ  bất quy tắc. Vậy trong tình huống này cần hết sức tránh thái độ  chê bai, bực   bội “câu dễ như này mà em cũng làm sai”, hay chữa lỗi ngay. Ngược lại, giáo  viên cần tỏ  thái độ  khích lệ, khen em đã nhận biết được thì quá khứ  đơn và  giúp em nhận ra còn nhầm lẫn ở chỗ nào để em tự sửa. Như vậy sẽ khích lệ  được học sinh mạnh dạn và cố gắng hơn ở các tiết học sau.  Ví dụ  2: Trong Tiếng Anh 6 khi dạy Unit 4. Big or small trang 46 sau   phần B1, khi thực hành 2 học sinh hỏi đáp như sau: Student 1: How many floors does our school have? Student 2: Our school have 2 floors. Trong câu này rõ ràng học sinh đã sai về mặt ngữ pháp. Tuy nhiên, trong  giao tiếp, tôi không quá chú trọng vào ngữ  pháp. Thay vì ngắt lời khi các em  đang nói để sửa lỗi, tôi để cho học sinh trả lời xong. Mặc dù câu trả lời chưa  đúng nhưng tôi vẫn khích lệ hay khen em bằng câu như: “Not bad”. Sau đó tôi  hỏi em học sinh đó chúng ta dùng: “Our school  have 2 floors or our school has  2 floors” bằng cách này học sinh có thể  tự  sửa được câu đúng cho mình và  chắc chắn em sẽ khắc sâu bài học hơn. 1.2 Đơn giản hóa các bài học ­ Khi giảng dạy tôi luôn phải chú ý đến tính vừa sức trong dạy học d o  đối tượng học sinh trong trường tôi một nửa là người dân tộc thiểu số, nhận   thức còn nhiều hạn chế  nên tôi đã mạnh dạn thay đổi một số  bài tập trong   chương trình sách giáo khoa cho đơn giản và phù hợp với đối tượng học sinh  hơn.  +Ví dụ 1: Trong chương trình Tiếng Anh 8 Unit 9: At home and away­   Lesson  A2   phần  Production  “Now  tell  the  story  of   Liz’strip  to  Tri  Nguyen   Aquarium” phần này dùng bức tranh để kể lại câu chuyện đã học. Tuy nhiên  để  giúp học sinh trường tôi kể  được tôi thiết kế  thêm phần gợi ý từ, nhằm  giúp học sinh kể được câu chuyện một cách dễ  dàng hơn vì đã có một số  từ  gợi ý như sau:  6
  10. c. There /be/  a.The Robinson family/ go /  b.They / see /sharks/  souvenir shop / the  aquarium .  dolphins, turtles / many  exit of the  colorful fish .. aquarium  d. Mr.  Robinson / buy/ Liz /  After / visit / aquarium, the Robinson  cap / a picture of a dolphin / /go/ food stall. Mr. and Mrs. Robinson  it . Mrs. Robinson /buy/   /eat/ fish crab /Liz /eat/ noodles. poster . Hình 1: Hình ảnh trong Unit 9(B2) sách Tiếng Anh 7 +Ví dụ  2: Khi dạy unit 8­Lesson: Read trang 75 phần “Complete the   summary. Use the information from the passage” trong chương trình Tiếng Anh  lớp 8, đối với những lớp có học lực yếu kém cao, tôi đưa ra yêu cầu đơn giản  hơn. Các em đọc lại đoạn văn và dùng từ cho sẵn đó để  nối, thay vì yêu cầu  học sinh tự tìm các từ  trong đoạn văn để  điền. Như  vậy sẽ  giúp các em học   yếu một chút có cơ  sở  thêm để  hoàn thành bài tập. Nếu các em hoàn thành  được bài tập các em sẽ có động lực tham gia học tập tốt hơn. 1 .   Co m p le te   t h e   s u m m a ry .   Us e   in fo rm a tio n   f ro m   p a s s a g e . city(2) rural leaving schools problem hospitals world problems home People from the countryside are (1) ________ their (2) _______ to go and live in the (3)________. Farming can sometimesbe a difficult life and these people from (4) __________ areas feel the (5) ________ offers more opportunities. H owever, many people coming to the city create (6)_________ . There may not be enough (7) ________ or (8) __________, while water and electricity supplies may not be adequate. This is a (9)__________ facing governmentsaround the (10) ______ . ­ Để  phù hợp với đối tượng học sinh của mình, tôi đưa ra những yêu  cầu khá đơn giản, rõ ràng. Ví dụ ngoài việc sử dụng các kỹ năng cụ thể trong   từng tiết dạy, tôi luôn căn cứ vào khả năng ghi nhớ và thể hiện của từng học   sinh để  yêu cầu thực hành và giao bài tập về nhà tránh áp lực và quá tải với  khả  năng của học sinh yếu kém, tránh nhàm chán vì quá dễ  đối với học sinh   khá, giỏi. 1.3 Hãy tạo cho những học sinh yếu hơn có cơ  hội để  được “tỏa  sáng” Giáo viên không nên chỉ mời những học sinh có kiến thức tốt phát biểu   trong giờ  mà cần khuyến khích mọi thành viên khác phát biểu xây dựng bài,  mặc dù các ý kiến phát biểu có thể  không thật chính xác vì chính điều này   kích thích các em cần cố gắng hơn để học. 7
  11.  Ví dụ: Trong bài unit 4 trong sách tiếng Anh 6 phần B1, khi hỏi câu:   Where’s your classroom? Tôi gọi 1 hoặc 2 em học sinh trong lớp học tốt trả  lời mẫu, sau đó gọi tiếp 1 hoặc 2 em học yếu trả lời. Như thế t ất c ả các em  sẽ tích cực hơn vì được tham gia vào quá trình học tập.  2. Áp dụng những tình huống, hành động thực tế vào bài giảng Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng nếu mình có thể áp dụng  những ví dụ, tình huống hành động cụ thể, thực tế vào bài giảng sẽ khiến cho  bài học trở nên sinh động, hấp dẫn và khiến các em nhớ từ, cấu trúc, mẩu hội  thoại lâu hơn và có thể sử dụng chúng trong thực tiễn hàng ngày.  ­ Ví dụ 1: Khi dạy quá khứ tiếp diễn ở chương trình lớp 8 trong unit 12  phần language focus trang 119, tôi chụp 1 tấm hình con trai đang ngủ vào lúc 9   giờ  tối hôm qua và đưa ra ví dụ: “At 8 pm last night, my son was doing his   homework” để giới thiệu cấu trúc và cách sử dụng. ­ Ví dụ 2: Khi dạy về cấu trúc thì hiện tại tiếp diễn ở lớp 6, giáo viên  có thể  dùng hành động thực tế  của mình để  đưa ra cấu trúc câu. Ví dụ  giáo  viên cầm quyển sách lên đọc và hỏi học sinh: Look at me! What am I doing?   Hoặc chỉ vào 1 học sinh đang chạy ở ngoài sân và nói: He is running   ­ Ví dụ 3: Khi học về các tính từ chỉ trạng thái như: hungry, thirsty, hot,   cold, tired, full và các cấu trúc liên quan  ở  Unit 10, phần A1,2 trong chương   trình Tiếng Anh 6. Nếu giáo viên sử dụng hành động của mình và hướng dẫn   học sinh diễn tả những tính từ trên trong phần thực hành thì giờ học thêm sinh   động và học sinh sẽ  rất hứng thú, đồng thời sẽ  nắm vững từ  mới và cách  dùng chúng hiệu quả trong những tình huống thực tế. + Khi dạy từ  “thirsty”, giáo viên nói: I’m thirsty và uống 1 cốc nước.  Trong tình huống này học sinh sẽ hiểu tình huống và đoán được nghĩa của từ  + Sau khi dạy hết từ mới giáo viên cho học sinh chơi trò chơi theo nhóm  thể hiện bằng hành động.  Nhóm 1 học sinh lần lượt lên thể hiện hành động  nhóm   2   nhìn,   đoán   và   hỏi   bằng   những   câu   hỏi   Yes/No   Ví   dụ:   Are   you   cold/hot/tired? 3. Lồng ghép âm nhạc trong dạy học Tiếng Anh Như chúng ta đều biết, nếu được học tập trong một môi trường vui vẻ  và sáng tạo, học sinh sẽ rất hào hứng mỗi khi tới lớp. Việc sử dụng âm nhạc  trong lớp học là một cách để chúng ta có thể tạo được bầu không khí học tập  tuyệt vời, mang niềm vui và sự say mê học tập đến cho học sinh. Bài hát có thể được được sử dụng cho nhiều mục đích và có rất nhiều  lý do tại sao bài hát có thể được coi là một công cụ sư phạm có giá trị. Bài hát   có thể giúp học sinh cải thiện kỹ năng nghe và phát âm, vì thế cũng giúp nâng   cao cả kỹ năng nói. Bài hát cũng có thể là công cụ  hữu ích trong việc học từ  vựng, cấu trúc câu, và mẫu câu. Và có lẽ  lợi ích lớn nhất của việc sử  dụng  8
  12. các bài hát để  dạy học là đem lại niềm vui cho học sinh. Niềm vui thích là  một phần quan trọng của việc học một ngôn ngữ mới, các bài hát có thể giúp  việc học trở  nên thú vị  hơn và có khả  năng nâng cao động lực cho học sinh   giúp học sinh tiếp thu bài học tốt hơn. Một số cách lồng ghép âm nhạc trong giờ học Tiếng Anh như sau: 3.1 Lồng ghép âm nhạc để giới thiệu chủ đề của bài học. Phần giới thiệu chủ  đề  của bài mục đích để  giúp các em định hình  mình sắp học cái gì vì thế tôi cho học sinh nghe một vài câu trong bài hát liên  quan đến chủ  đề  của bài nhằm mục đích khêu gợi trí tò mò của học sinh về  chủ đề bài học như: “Color, Feeling, Chrismas,...” Ví dụ 1: Khi dạy bài Unit 13: Festival – Lesson: Read sách tiếng Anh 8.   Tiết này học về “Chrismas”. Để giới thiệu cho học sinh về chủ đề này chúng  ta có thể  cho HS nghe bài hát: Jingle Bells và hỏi học sinh: “When do people   usually sing this song?” Lời bài hát: Dashing thro' the snow, in a one­horse open sleigh. O'er the fields we go, laughing all the way. Bells on bob­tails ring, making spirits bright, What fun it is to ride and sing a sleighing song tonight. Jingle bells, Jingle bells, Jingle all the way. Oh what fun it is to ride in a one­horse open sleigh. Jingle bells, Jingle bells, Jingle all the way. Oh what fun it is to ride in a one­horse open sleigh. 3.2 Lồng ghép âm nhạc trong tiết ngữ pháp Một tiết học ngữ pháp vốn rất khô khan vì thế tôi đưa âm nhạc vào tiết   học này nhằm tạo bầu không khí vui vẻ thoải mái trong tiết học, giúp các em  củng cố cấu trúc ngữ pháp và khắc sâu bài học hơn. Ví dụ sau khi học câu điều kiện loại 1  ở chương trình Tiếng Anh 6 thí  điểm chúng ta có thể cho học sinh nghe bài hát “ If you’re happy” trong phần  post­teaching để thay đổi không khí nhàm chán của tiết học ngữ pháp. Các em  vừa hát vừa làm động tác tạo ra những âm thanh rất vui nhộn. Lời bài hát: “If you’re happy”  If you’re happy and you know it, clap your hands If you’re happy and you know it, clap your hands If you’re happy and you know it, and you really want to show it If you’re happy and you know it, clap your hands 9
  13. 3.3 Lồng ghép âm nhạc để  củng cố  từ  mới hay bảng động từ  bất  quy tắc  Đây là một trong những phần mà học sinh sợ  học nhất vì rất khó để  nhớ ,vì thế tôi đưa các bài hát vào phần này giúp học sinh hứng thú hơn và mau  thuộc  ­ Ví dụ 1: Khi dạy phần động từ bất quy tắc trong chương trình Tiếng   Anh 7, chúng ta có thể  dùng bài “rap về  động từ  bất quy tắc” cho HS hát  theo, mục đích thay đổi bầu không khí và mau nhớ cách phát âm. ­   Ví   dụ   2:   Trong   sách   tiếng   Anh   7   hay   khi   dạy   Unit   2:   Personal  information ­B3 học sinh  được học về  các tháng trong năm, phần này  để  luyện tập chúng ta có thể cho học sinh nghe và hát theo bài hát “Months of a  year”. Học sinh sẽ nhớ dễ hơn khi thuộc giai điệu bài hát này. Lời bài hát: “Months of a year” January and February sha la la la la. March and April and May. July and  August, September and October, November and December. (Sha la la la la la la  la). These are twelve months of a calendar year, sha la la that makes a year. ­ Ví dụ 3: Khi dạy bài unit 9: The Body­B2 (Sách tiếng anh 6). Học sinh  được học về “color” sau khi dạy từ và luyên tập tôi cho HS nghe và hát thuộc  bài hát “What color is it?” ­  Ví dụ  4: Khi dạy Unit1: Greetings tiếng Anh 6, sau khi dạy phần   B1,B2 tôi cho HS nghe bài hát “Good morning to you” và các em có thể  thay  “Good morning” bằng “Good afternoon/evening” để hát. Như thế các em sẽ có  cơ hội luyện tập, vận dụng và phát âm các cách chào hỏi. Lời bài hát "GOOD MORNING TO YOU": Good Morning To You  Good Morning To You  Good Morning dear father  Good Morning To You  Good Morning To You  Good Morning To You  Good Morning dear mother  Good Morning To You  Good Morning To You  Good Morning To You  Good Morning dear father  Good Morning To You  Good Morning To You  Good Morning To You  10
  14. Good Morning dear mother  Good Morning To You ­Ví dụ 5: Khi dạy về thời tiết Unit 13 phần A: The weather and seasons   (A1, A2) Tiếng Anh 6, sau khi giới thiệu từ về chủ đề  màu sắc cho các em  luyện tập, tôi lấy bài hát “How’s the weather?” bỏ  đi một số  tính từ  và yêu  cầu HS nghe và điền tính từ chỉ về thời tiết, sau đó luyện hát thuộc bài hát đó Khi học về các bộ phận trên cơ thể  người Unit 9: The body tiếng Anh  6,  ở  phần “Play with words”, bài hát này đã giúp học sinh nhớ  về  một số bộ  phận trên cơ thể một cách sinh động dễ dàng khi vừa hát vừa biểu diễn theo   lời và giai điệu bài hát “Head and shoulders” Lời bài hát: “Head and shoulders” Head and shoulders Knees and toes Knees and toes Head and shoulders Knees and toes Knees and toes Ears and eyes And mouth and nose Head and shoulders Knees and toes Knees and toes Như vậy chỉ sau tiết học các em đã có thể hát và nhớ được gần hết các   từ các em đã học, tôi nghĩ đây là một cách học vô cùng hiệu quả. 4. Sân khấu hóa trong dạy học Tiếng Anh Với hoạt động diễn kịch bằng Tiếng Anh, nhiều học sinh nhận xét, đây  là một hình thức học Tiếng Anh sinh động, thú vị  giúp các em phát triển kỹ  năng nghe, nói vì mỗi em sẽ phải tập trung về phát âm, ngữ điệu diễn tả cảm   xúc, tâm trạng theo đúng nhân vật mà mình đảm nhiệm. Ngoài ra các em còn  có thể  phát huy sự tự tin, khả năng sáng tạo hay rèn luyện kỹ  năng làm việc   theo cặp, nhóm.  Các em được hóa thân vào các vai trong những câu chuyện,  những đoạn hội thoại đã giúp các tiết học trở nên thú vị, hấp dẫn, bớt nhàm  chán đơn điệu.  4.1 Một số bước thực hiện: 4.1.1 Tạo tình huống kịch Đầu tiên tôi cần chọn tình huống cho một đoạn kịch liên quan đến bài  học. Điều quan trọng là phải dựa trên nhu cầu và sở  thích của học sinh và   đem lại cho học sinh cơ hội luyện tập những gì được học trên lớp. Bên cạnh  đó, vở kịch đó cũng cần hấp dẫn để thu hút các em.  11
  15. 4.1.2 Phát triển nội dung Trên bối cảnh của vở  kịch, tôi thường phải đưa ra những ý tưởng để  phát triển tình huống của câu chuyện. Tuy nhiên lời thoại như thế nào còn tùy  vào khả  năng nói Tiếng anh của học sinh. Tôi có thể  đơn giản hóa cho phù  hợp với trình độ học sinh.  Ví dụ : Trong Unit 7 Phần B1 sau khi học xong bài học tôi cho học sinh  đóng vai hóa thân vào vai Hoa và Tim hỏi đáp về gia đình Tim. Tuy nhiên để  học sinh dễ dàng nhập vai trong tình huống này tôi đưa ra một đoạn hội thoại  còn thiếu để học sinh dựa vào đó diễn tập tốt hơn.  Period: 43 ­ Unit 7: THE WORLD OF WORK  B. The worker – B1 V. Role play Hoa Tim  Hoa: Tell me about your family, Tim. How many people are there in your family? Tim: ______________: My father , my mother, my sister, Shannon and me. Hoa: Where does your mother work? Tim: _________________________ . Hoa: What does your father do? Tim: __________________________ . Hoa: Where does he work? Tim: __________________________ . Hoa: How many hours a week does he work? Tim: __________________________ . Hoa: What does he often do in his free time? Tim: ______________________ Hoa: That sounds interesting. Tim: That’s right. I love my family so much. Hình 2: Mẫu hội thoại dùng để đóng vai Hoa và Tim hỏi đáp về gia đình  Tim 4.1.3 Chuẩn bị lời thoại Giới thiệu một số cấu trúc và từ vựng cho học sinh trước khi đóng vai  để học sinh định hình nói cái gì. ­Ví dụ  1:  Tình huống của vở  kịch là mua hàng và bán hàng trong khi  dạy phần A2 unit 11: What do you eat? Tiếng Anh lớp 6, trang 116 Tôi sẽ hỏi  học sinh những câu như  “Trong tình huống này em sẽ  nói gì với người bán  hàng?”, “Người bán hàng sẽ  nói gì?” và viết ra những gì học sinh nói lên   bảng, Cách giới thiệu từ mới và cấu trúc này sẽ  làm cho học sinh tự  tin hơn   trong khi đóng kịch. 12
  16. ­Ví dụ  2: Tình huống của vở kịch là đóng vai 1 người là khách du lịch   nước ngoài đến Đak Lak, 1 người đóng vai người chỉ đường để hỏi đáp trong   Unit 8: Places phần B2 Tiếng anh 7 trang 80. Trong khi giới thiệu cho học sinh   thông qua bài hội thoại mẫu và hỏi khi hỏi đường ta dùng cấu trúc nào? Chỉ  đường ta dùng cấu trúc nào?  4.1.4 Chuẩn bị thông tin Học sinh cần được cung cấp đầy đủ  thông tin về  vở  kịch đặc biệt là  những đoạn mô tả  vai để  các em có thể yên tâm đảm nhận vai của mình. Ví  dụ  tình huống  ở  bưu điện thì giá cả  của những vật dụng như  tem, phong bì  giấy viết thư, tạp chí, báo, card điện thoại…là bao nhiêu. 4.1.5 Phân vai ­ Phân vai từ trước cho mỗi học sinh. Giáo viên có thể  đóng một trong   các vai để làm mẫu. Đôi khi giáo viên cũng có thể giao việc đóng vai như một  bài tập về nhà. Học sinh sẽ tìm hiểu trước các từ và cụm từ có nghĩa, chuẩn   bị lời thoại và sau đó cùng nhau diễn kịch trong giờ học tiếp theo. ­ Một lớp có thể  được phân ra thành các nhóm diễn kịch. Khi quyết   định phân vai tôi phải cân nhắc đến khả năng và tính cách của từng học sinh.   Ví dụ một nhóm mà toàn học sinh nhút nhát thì hẳn sẽ không thể thành công.   Tóm lại, sự tương tác đạt hiệu quả tối ưu khi giáo viên để  cho học sinh làm  việc trong cùng nhóm với bạn của mình. 4.1.6 Tập kịch Với những tình huống đơn giản tôi cho các em diễn tập tại lớp, còn  nếu những vở kịch hoặc tình huống khó các em về nhà luyện tập    4.1.7 Diễn kịch Trong khi học sinh th ể  hi ện, tôi phải là ngườ i lắng nghe và lưu ý   những lỗi mà học sinh mắc phải có thể  là về  từ vựng hoặc ngữ pháp. Đây  sẽ  là tư  liệu để  tôi tham khảo và chuẩn bị  những bài luyện tập lần sau và  đặc biệt là tôi không cắt ngang  câu chuyện bằng việc sửa lỗi để  tránh tình  trạng làm học sinh mất hứng thú. 4.1.8  Kết thúc Khi phần đóng kịch đã hoàn thành, một chút thời gian để  thâu tóm lại   nội dung câu chuyện cũng vô cùng bổ  ích. Điều này không có nghĩa là chỉ  ra  lỗi sai và sửa. Sau vở  kịch, học sinh rất hài lòng với chính bản thân, các em   cảm thấy rằng vốn khả năng ngoại ngữ của mình đã được sử  dụng vào một  công việc khá phức tạp và bổ ích. Cảm giác hài lòng này sẽ  biến mất nếu bị  giáo viên sửa lại từng lỗi một. Học sinh dễ bị kém tự  tin hơn và không hào  hứng đóng các vở  kịch khác nữa. Ngoài ra tôi cũng có thể  hỏi ý kiến của các  học sinh về vở kịch và khuyến khích những ý kiến đóng góp. Mục đích ở đây  13
  17. là để thảo luận những diễn biến của vở kịch và ôn lại những vấn đề  các em   đã từng học. Cùng với việc thảo luận nhóm, tôi cũng có thể  phát phiếu câu   hỏi để đánh giá hiệu quả.   Tóm lại, đóng kịch là một phương pháp khá hay trong việc dạy học  Tiếng Anh. Vở  kịch càng thú vị  càng lôi kéo được nhiều học sinh tham gia.  Điều đó cũng đồng nghĩa với việc giáo viên có thể  xây dựng trong các em  niềm yêu thích học tập và từ đó đạt được kết quả cao hơn. 4.2 Áp dụng sân khấu hóa trong phần củng cố bài học Sau khi học xong nội dung bài học, tôi cho học sinh vận dụng những từ  vựng, mẫu câu, cấu trúc đã học để  tạo thành những đoạn kịch ngắn, những  hội thoại ngắn về  các tình huống thực tế  hàng ngày mục đích để  các em có  môi trường tiếng để luyện tập kĩ năng nói, các em hóa thân vào các nhân vật   trong các câu chuyện hoặc trong các tình huống thực tế. Qua đó giúp các em  có thêm hứng thú vào học tập và mạnh dạn tự tin hơn khi tham gia giao tiếp ­ Ví dụ  1: Trong Tiếng Anh 7 khi dạy unit 8: Places phần B3 trang 84,   phần thực hành tôi chia lớp thành 2 nhóm để  thực hiện đóng vai trong tình   huống  ở  trong bưu điện nhằm mục đích củng cố  bài, vận dụng những từ  vựng về  chủ  đề  về  bưu điện và cấu trúc mua bán, hỏi giá cả  vào các tình  huống thực tế + Nhóm 1 đóng vai người đi mua hàng chuẩn bị  tiền bằng giấy trắng   ghi số tiền: 1.000 đ, 2000 đ, 3000 đ, 4000 d, 5000 đ, 10.000 đ, 50.000 đ,  100.000đ +  Nhóm 2 chuẩn bị đồ bán tại bưu điện: tem, phong bì, card điện thoại,   tạp chí, báo, tập giấy viết thư + Nhóm bày bán hàng lên 2 dãy bàn học giữa lớp. Học sinh đóng vai   người bán hàng đứng sau quầy hàng của mình + Nhóm mua hàng cầm tiền đi chọn mua hàng mình cần + Gv đi quanh lớp chọn các lỗi tiêu biểu của học sinh + Kết thức, giáo viên đưa ra nhận xét, góp  ý cho học sinh rút kinh  nghiệm  Model dialogues Clerk: Hello. Can I help you? Tuan: I'd like a writing pad. The good one. Clerk: Here you are. Is that all? Tuan: Ah, I also need some envelopes. How much is that altogether? 14
  18. Clerk: Well, the writing pad is ten thousand dong. Five envelopes are one  thousand. That's eleven thousand dong altogether. Tuan: Here is fifteen thousand dong. Clerk: Thanks. Here is your change. + Model dialogues  Linh: Hello, I would like some postcards of Ho Chi Minh City. Do you  have them? Clerk: Yes,   of   course.   Here   you   are.   They're   very   beautiful.   You   can  choose the ones you like. Linh: I'll get three postcards with different sights. Clerk: OK. Is that all? Linh: Oh, I also need a phone card. I'd like a one­hundred­thousand card.  So, how much is that altogether? Clerk: Well, three postcards are fifteen thousand dong. The phone card is  one   hundred   thousand   dong.   That's   one   hundred   and   fifteen   thousand  dong. Linh: Here is one hundred and twenty thousand dong. Clerk: Thank you. Here is your change. 15
  19. Hình 2: Hình ảnh hoạt động nhóm diễn tập tình huống mua bán ở bưu điện ­ Ví dụ  2: Khi dạy bài Unit 4: OUR PAST­Lesson: Write trang 43 sách  Tiếng anh 8 phần “Post­writing” tôi cho học sinh làm việc theo nhóm diễn vở  kịch này: học sinh 1 đóng vai người kể  chuyện, học sinh 2 đóng vai người  nông dân, học sinh 3 đóng vai con hổ  mục đích để  các em củng cố  lại nội  dung đã viết về  câu chuyện và luyện tập nói bằng 1 cách thú vị  trải nghiệm  vào vai các nhận vật trong câu chuyện này. Khi học sinh diễn tập tại lớp, tôi  đi vòng quanh giúp đỡ  các em, rồi mời 1 hoặc 2 nhóm diễn trước lớp. Tôi  quan sát học sinh đã thực hiện được gì và những gì chưa thực hiện được để  rút kinh nghiệm cho các tiết sau. 16
  20. Đoạn kịch như sau: Teller: One day as a farmer was in the field and his buffalo was grazing   nearby, a tiger appeared and asked the farmer:  Tiger: Why is the strong buffalo your servant and why are you its master? Farmer: As I have something called wisdom Tiger: Where is your wisdom?” Farmer:  I leave it at home today. Do you want to see it? Tiger: Yes, I do Farmer: Now I go home to get my wisdom, but I have to tie you to a tree  because I don’t want you to eat my buffalo. Do you agree? Tiger:  Ok. Teller: The farmer tied the tiger to a tree with a rope. When he came   back, he brought some straw with him and burned the tiger. He said: Farmer: Here is my wisdom. This is my wisdom. Tiger: Ouch, Ouch. Let me go! Please let me go! Teller: When the fire bunred through the rope, the tiger escaped but it   has black stripes from the burns today. ­ Ví dụ  3: Trong Unit 8: Places phần B2 Tiếng Anh 7 trang 80 sau khi   học sinh học xong đoạn hội thoại, tôi cho học sinh làm việc theo cặp­ đóng   vai 1 người là khách du lịch nước ngoài đến Đak Lak, 1 người đóng vai người   chỉ đường để  hỏi đáp. Qua bài học này các em được trải nghiệm tình huống   thực tế hỏi đường và chỉ đường để vận dụng cho cuộc sống sau này  Tourist: Excuse me. Could you show me the way to Buon Don tourist  center, please? Student: Buon Don tourist center? Ok. Go straight to the crossroads then  turn left. Go straight about 40 kilometers. It’s on your left. Tourist: Thanks a lot. Student: You’re welcome ­ Ví dụ  4: Trong bài Unit 4 tiếng anh 7 khi dạy unit B3 trang 48 sách   tiếng anh 7 phần “Post­listening”, tôi cho sắp xếp bàn ghế  và để  1 số  loại  sách, báo và tạp chí như  trong bài học sinh vừa nghe vừa nghe, cho học sinh   làm việc cặp, học sinh 1 đến mượn sách báo, tạp chí, học sinh 2 đóng vai cô  thủ thư chỉ cách bày trí các loại sách báo, tạp chí 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2